Chương ba
Quả thật lại một lần nữa tan cửa nát nhà, giống như điều Giả Căn Trụ nói, sự ra đi này của Tống Đình Đình đã báo trước việc tan cửa nát nhà.
Việc tan cửa nát nhà đến sớm như mùa xuân năm nay, đến một cách vội vã.
Màu xanh đã phủ khắp bình nguyên. Tiểu mạch trên ruộng đều đã mọc lên chắc nịch, đất màu tích lũy cả mùa đông lúc này đều dồn vào việc nuôi cây, đầu xuân, ruộng tốt và đất xấu đều nuôi tiểu mạch tươi tốt bừng bừng. Có điều chỉ mọc mạnh được nửa tháng, một tháng, đến giữa xuân, sau khi đất nghèo pha cát đã hết màu mỡ, lúc đó mới có thể nhìn ra đất tốt hay xấu, nhìn ra vẻ gầy guộc vàng vọt của một số ruộng nương. Nhưng lúc này là đầu xuân, tất cả đều là màu xanh. Bên đường, đầu ruộng và những nơi đất hoang không trồng tiểu mạch, cỏ hoang mọc như điên như dại. Hoa đỏ, hoa trắng, hoa tím, hoa vàng, bay bay trong từng đám, từng đám cỏ xanh, như một mảnh vải hoa in lỗi, sắc màu loạn xạ. Trong sắc đỏ sậm có màu xanh, trong màu xanh đậm in sắc đỏ. Màu vàng thấp thoáng trong đám lá xanh; và màu xanh ẩn hiện trong một vùng vàng thắm, muôn hồng ngàn tía, như thể mỗi ngọn cỏ mỗi bông hoa đều là cỏ dại hoa điên. Cây đứng trên bình nguyên, trông cũng không còn cô độc, lá xanh rung rinh trong không trung. Rung rinh như vừa mọc vừa ca hát.
Trên cổ đạo ngàn năm đó, trên cổ đạo Hoàng Hà, trên cổ đạo Hoàng Hà bị đất cát phủ lên, chỗ rộng hơn nghìn mét, chỗ hẹp hơn trăm mét, trải dài uốn lượn trên bình nguyên, có chỗ dài đến mấy trăm dặm. Kì thực, không ai biết nó dài bao nhiêu, có lẽ là dài như trời đất. Vì độ dài của nó, vì nó thấp hơn bình nguyên, thấp hơn một, hai mét, nên nó hiện ra màu vàng nhạt và xám tro như màu của cát khô, như một sợi dây thừng khô quắt mà chắc chắn, siết chặt lấy địa cầu. Nhưng bây giờ là mùa xuân, cỏ hoang mọc như điên như dại ở khắp nơi trên cổ đạo, cái khe rãnh như dây lụa đó hòa chung một sắc với bình nguyên, không còn nhìn ra độ đậm nhạt nông sâu của nó. Bình nguyên thực sự là vùng đất bằng phẳng rồi. Một vùng xanh bằng phẳng. Một thế giới màu xanh.
Khắp đất khắp trời đều là màu xanh.
Cây cối một màu xanh.
Thôn xóm một màu xanh.
Trời đất cũng một màu xanh.
Sự náo nhiệt cùng mùa xuân thức dậy. Tất cả trở nên bận rộn, giống như không có bệnh, mọi người đều đang bận chuyển đồ đạc từ trường học về nhà. Chuyển bàn và ghế phát cho mỗi bệnh nhân, còn có bảng đen, rương hòm, giường tủ, giá rửa mặt vốn ở trong phòng giáo viên và một ít bản gỗ, rui xà không biết ở đâu đem về.
Chú đã trở về Đinh Trang sống. Trở về sống trong nhà chú. Thím Tống Đình Đình của tôi đã về nhà mẹ đẻ, từ nhà mẹ đẻ chuyển lời, nói thím có chết cũng không muốn gặp chú tôi. Thím chỉ muốn nhìn bộ dạng của chú tôi sau khi chết là được. Nói chờ sau khi chú chết, thím sẽ đến Đinh Trang bán hết nhà cửa, chuyển đồ đạc trong nhà đi là xong. Chú tôi đành phải từ trường học về sống ở nhà, về coi giữ nhà cửa, chờ khi nào chú chết, thím đến lấy đồ đạc, bán nhà.
Trong trường, ông không còn là quản lý nữa. Không ai coi ông là người quản lý, thầy giáo nữa. Ông chỉ là một ông già Đinh Trang sống ở đó mà thôi. Những người bệnh ăn cơm, đánh cờ, đun thuốc, bệnh nặng, bệnh nhẹ đều không liên quan đến ông. Tuy vẫn sống trong căn phòng ở cổng trường, nhưng khi có người từ cổng đi vào, chỉ khi ông gật đầu chào, người ta mới gật đầu chào lại ông. Người ta gật đầu chào, ông liền vội vã cuống quýt gật đầu chào người ta. Đến nỗi mấy chục người bệnh nhiệt đó, họ làm gì, nói gì, bệnh nhẹ hơn thì làm gì trong phòng học, những việc ấy đều không liên quan đến ông.
Còn để ông sống trong trường học đã là không tệ rồi.
Có một lần, ông hỏi một người bệnh chỉ có hai mươi mấy tuổi: “Em trai Giả Căn Trụ kết hôn xong, đã đem bàn học trả lại trường chưa?”
Người đó nói: “Cái gì mà Căn Trụ, anh ấy là Chủ nhiệm Giả của chúng cháu.”
Ông liền ngây ra trước cổng, nhìn chàng trai mang bệnh nhiệt trong thôn đó.
Người bệnh mụn mọc đầy mặt đó liền dừng chân lại nói: “Ông không biết sao? Chú Căn Trụ và chú Dược Tiến của cháu đã là Chủ nhiệm của bọn cháu rồi.”
Nói xong, người bệnh đó liền đi vào trong sân, để ông tôi ở lại cổng trường như bỏ ông lại bên ngoài thế giới.
Chính hôm qua, buổi hoàng hôn ngày hôm qua, khi mặt trời từ màu vàng chói lọi chuyển thành màu đỏ nhạt, Triệu Tú Cần từ bên ngoài trường học đi về, cắp cái làn trúc trong tay, trong làn để cải thảo, miến, củ cải đỏ, còn có mấy cân thịt, hai con cá và một bình rượu. Thịt là thịt lợn mới, rượu là rượu Tống Hà tốt nhất trong vùng, chưa mở bình mà hương rượu đã bay xa chục dặm. Ông nhìn Triệu Tú Cần đang bước đến gần, cười đùa nói: “Ồ, sắp cải thiện sinh hoạt à?”
Mặt Triệu Tú Cần cũng nở nụ cười: “Nấu cơm cho Chủ nhiệm Giả và Chủ nhiệm Đinh.”
Ông tôi nói: “Không phải mọi người đều ăn thịt?”
Tú Cần nói: “Chủ nhiệm Giả và Chủ nhiệm Đinh đi xin một khoản trợ cấp của Chính phủ, mọi người đều nói phải mua riêng cho hai vị ấy mấy cân thịt.”
Lúc này, ông mới biết Căn Trụ không gọi là Căn Trụ nữa, Căn Trụ là Chủ nhiệm Giả của Ủy ban bệnh nhiệt Đinh Trang. Đinh Dược Tiến không gọi là Dược Tiến nữa, Dược Tiến là Chủ nhiệm Đinh của Ủy ban bệnh nhiệt Đinh Trang. Ông biết trường học đã bước sang trang mới, đã có trật tự mới rồi, giống như Ủy ban xã, Ủy ban huyện, địa khu và tỉnh thay lãnh đạo, tất cả đều không như cũ nữa.
Thay trời đổi đất rồi.
Ông cảm thấy trong lòng có chút chua chát. Có chút lạnh lẽo chua chát, nhưng cảm thấy dù sao cuộc sống của người bệnh nhiệt cũng tốt hơn, vậy thì không có gì để nói nữa. Không có gì phải day dứt, phải quan tâm nữa. Nhưng chính hôm nay, chính sau một đêm đến hôm nay, khi vô cùng buồn chán, ông ra khỏi phòng, đứng một lát ở cổng trường, đi một vòng theo bức tường bao quanh trường học. Đi một vòng theo sắc xanh buổi đầu xuân, giống như đi một vòng quanh nhà ông, chờ khi quay lại cổng trường, thì nhìn thấy các người bệnh, từng người mồ hôi đầm đìa gồng gánh đồ đạc từ trong trường đi ra ngoài. Có người gánh hai chiếc bàn từ trong lớp, có người gánh một chiếc bảng lớn, còn có hai người nhấc một thanh xà to. Chưa hết, còn có những người không gánh cũng không khiêng, họ dùng một chiếc xe ba gác đẩy chiếc giường vốn là của giáo viên trong trường đi. Bọn họ từng người từng người một, mặt mày hưng phấn, rạng rỡ chuyển đồ đạc trong trường về Đinh Trang, chuyển về nhà mình, giống như những người trong thôn bận rộn khi trên mặt đất nở hoa, dưới lòng đất kết vàng trong giấc mộng của ông. Ai ai cũng bận rộn, vừa đi vừa nói: “Bàn của anh tốt hơn bàn của tôi, mặt gỗ dày hơn mặt gỗ bàn của tôi.”
“Cây gỗ đó của anh là gỗ du, nếu bán ắt sẽ đắt hơn gỗ bào đồng của tôi.”
“Chiếc giường anh được phân là gỗ dẻ à? Chiếc giường nhà tôi được phân là gỗ cây xuân.”
Vừa nói vừa tràn khỏi cổng trường đang rộng mở, giống một luồng nước, vừa mở nắp cống là ào ra. Ông tôi không biết việc gì đang xảy ra, ông men theo tường bao vội vã đuổi theo, đến cổng trường ngăn em họ Giả Hồng Lễ của Căn Trụ dù có bệnh vẫn gánh ba chiếc bàn học lại:
“Các cậu làm gì thế?”
Giả Hồng Lễ ló đầu ra khỏi chỗ bàn cao đến ngang trời, nhìn một cái nói: “Làm gì à? Đi hỏi con cả Đinh Huy nhà ông xem chúng tôi làm gì.”
Nói xong rồi đi.
Giận dữ đi mất. Một mình gánh ba chiếc bàn, giống như con sơn dương tức giận thồ cả một núi cỏ. Ông vẫn không hiểu đã xảy ra chuyện gì, đứng ngây ra ở cổng trường, chờ khi lại có một người gánh chiếc bảng đen đi ra, ông nhìn thấy trên một góc bảng có một cái đinh ốc, liền biết chiếc bảng đen đó chính là chiếc bảng gỗ du mà bình thường ông thích dùng nhất khi dạy thay, mặt bảng sáng, vân gỗ như lụa, khi viết vừa trơn vừa rất ăn phấn. Để tiện lau bảng, ông đóng một chiếc đinh vào góc phải của nó, trên chiếc đinh đó luôn treo chiếc giẻ lau dùng lại từ vải hấp bánh. Nhưng bây giờ, chiếc bảng đã bị ai đó cõng đi rồi, người bị che khuất dưới bảng, giống như con ốc sên nấp trong cái vỏ.
Ông đi đến nhấc chiếc bảng lên một chút.
Mặt Triệu Đức Toàn lộ ra dưới bảng. Ông ta nhìn ông, trên mặt nở nụ cười có lỗi, lúng túng gọi một tiếng “thầy giáo Đinh.”
“Là anh à?” Ông tôi nói: “Anh dạy ai mà cõng bảng đen về nhà đấy?”
Triệu Đức Toàn có chút kinh ngạc nhìn ông, vội quay đầu vừa nhìn bốn phía vừa giải thích: “Tôi không lấy không được, đây là đồ mà Chủ nhiệm Giả và Chủ nhiệm Đinh phân cho tôi. Mọi người đều có rồi, tôi không lấy thì có tội với người ta, đắc tội với hai chủ nhiệm.”
Nói xong, ông ta còn quay về phía sau cẩn thận nhìn quanh, thấy trong sân trường không có người, mới vội vàng nói với ông tôi: “Thầy giáo Đinh, nếu như thầy xót cái bảng này, thì hãy giấu vào phòng thầy, đừng nói ra tôi cho thầy là được.”
Ông liền sờ sờ cái bảng:
“Anh cần chiếc bảng này để làm gì?”
“Làm quan tài,” Triệu Đức Toàn ngẩng đầu nhìn ông, trên mặt nở nụ cười: “Mọi người đều nói con cả nhà thầy đã bán sạch quan tài mà trên huyện trợ giúp cho người bệnh rồi. Bây giờ Căn Trụ và Dược Tiến đã làm chủ nhiệm, liền phát bù cho mỗi người bệnh một cỗ quan tài.”
Ông kinh ngạc đứng đó, ngây ra ở cổng trường, nhìn thấy nụ cười trên mặt Triệu Đức Toàn có màu xám xanh chết chóc; liền nghĩ ông ta quả thực không sống được bao lâu nữa, nên chuẩn bị một cỗ quan tài rồi. Cũng nghĩ đã hai tháng ông không gặp bố tôi rồi. Nhớ đến giấc mộng bố tôi ở xưởng Hạnh Phúc trên huyện chở quan tài mà ông đã nằm mơ trước đây. Nhớ ra giấc mộng bố đi bán quan tài khắp nơi mà ông vừa mộng.
⚝ 2 ⚝Ánh trăng sáng như ánh nắng. Ánh nắng dịu dàng và thân thiết như ánh trăng.
Cuối cùng đã là mùa xuân, tiểu mạch ngút ngát tầm mắt đã trở nên cứng cáp. Trên đồng ruộng đã thấp thoáng bóng người tưới nước, làm cỏ. Ngay cả những người bệnh nhẹ hơn một chút, có thể cử động đi lại được đều đi làm đồng. Trong các thôn Đinh Trang, Hoàng Thủy, Lý Nhị, và cả những làng mạc xung quanh như Hạ Gia Tập, Cổ Đạo Khẩu, Lão Hà Khẩu, Minh Vương, trong lúc mùa màng bận rộn ngày xuân, chỗ nào cũng có người cầm cuốc vác xẻng. Bố vẫn đi bán quan tài đen của mình ở mỗi xóm mỗi thôn. Đến thôn nào bố cũng đều kê một chiếc bàn ở đầu thôn, lấy ra tờ bản kê có đóng dấu mà trên huyện phát đặt trên bàn, sau đó thông báo với những người mắc bệnh nhiệt của các nhà các hộ trong thôn, nói chỉ cần điền vào bản kê này, kê khai họ tên, tuổi tác, lịch sử phát bệnh và tình trạng bệnh hiện tại của mình, đóng con dấu của Ủy ban thôn lên, và kí tên vào bản kê, điểm chỉ đỏ, chứng minh anh quả thực có bệnh nhiệt, quả thực đang lâm vào tình cảnh nay sống mai chết, thì anh có thể mua một cỗ quan tài đen giá gốc. Cỗ quan tài đó ngoài thị trường bán bốn trăm hoặc năm trăm đồng, nhưng điền vào biểu này thì tất cả chỉ hai trăm đồng một cỗ.
Tất cả đều được hưởng sự quan tâm của Chính phủ với bệnh nhân bệnh nhiệt.
Bố là người được hoan nghênh cực kỳ, những nơi mà bố đến, người hoan nghênh đều xếp thành hàng ở đầu thôn đầu xóm. Hôm qua ông phục vụ bệnh nhân ở Lão Hà Khẩu, hôm nay ông đến thôn Minh Vương. Thôn Minh Vương cách Đinh Trang chừng mười dặm, nằm ở bờ đông cổ đạo Hoàng Hà. Bệnh nhiệt ở thôn Minh Vương đã đến giai đoạn báo động đỏ, trong thôn cần quan tài như nạn đói cần lương thực. Buổi sáng bố ra khỏi cửa, lên huyện nộp bảng biểu mà người bệnh nhiệt điền tối hôm qua, kéo đi hai chiếc xe tải tám mươi cỗ quan tài đen mà hôm nay cần dùng đến, rồi lái về phía thôn Minh Vương.
Hồi lâu rồi cũng đến thôn Minh Vương.
Khi hai chiếc xe chở quan tài men theo con đường cái bên cổ đạo Hoàng Hà chạy vào thôn Minh Vương, người thôn Minh Vương đang tưới nước, rẫy cỏ trên đồng đều chạy vội về. Mặt trời lấp lóe như vàng trên đầu họ, toàn bộ thôn Minh Vương đang phát sáng trong nắng, những ngôi nhà lầu và nhà ngói từng xây nhờ bán máu được ánh nắng xuân chiếu vào, bởi vì ấm, bởi vì ánh nắng tụ lại trên cửa sổ bằng kính của các nhà và trên những ngôi nhà mà tường và trụ cột đều được ốp toàn gạch trắng, nên thôn Minh Vương càng hiện rõ vẻ tươi sáng ấm áp. Hai chiếc xe tải lớn dừng lại ở đầu thôn, trên mỗi chiếc xe chất bốn mươi cỗ quan tài đen, giống như hai rặng núi sơn đen được xếp trên chiếc xe. Mùi sơn trên quan tài đen nồng nặc tắc mũi, hơn nữa cứ có gió thổi, là mùi sơn màu đen của quan tài, mùi bào gỗ màu trắng, mùi sền sệt dinh dính của keo dán quan tài, cùng hòa trộn với mùi đinh sắt ở kẽ quan tài, tất cả bay hổ lốn trên đầu thôn Minh Vương, trong nháy mắt đã áp đảo mùi vị của mùa xuân trên đồng ruộng. Khắp ngõ to ngõ nhỏ đều là mùi quan tài đen đặc.
Bố bán quan tài nhưng không trực tiếp động tay. Ông dẫn theo mấy người trẻ tuổi, có người giúp dân điền bảng biểu, có người giúp dân dỡ quan tài từ trên xe xuống, ông chỉ ngồi trước một chiếc bàn khác, uống nước, gọi những người đã điền xong bản kê đến đó, thu bản kê lại, rồi lại thu tiền mà anh ta hoặc chị ta nộp, đếm đếm, cất tiền vào túi da đen bên mình, rồi lại đưa cho người nộp tiền một tờ giấy, bảo họ đến xe quan tài nhận quan tài.
Thôn Minh Vương không giống Đinh Trang, giàu hơn Đinh Trang rất nhiều, cũng như khi Đinh Trang được động viên bán máu trước kia, từng đi thăm quan thôn Thượng Dương ở huyện Thái, tuy tỉ lệ bệnh nhân lớn hơn Đinh Trang, nhân khẩu nhiều, hầu như không nhà nào là không có người mắc bệnh nhiệt, một nhà có mấy người mắc bệnh nhiệt là chuyện thường, nhưng vì năm đó họ là thôn bán máu làm giàu kiểu mẫu, bây giờ, chôn người thì không thể dùng cỏ bó và chiếu đậy, tuyệt đối không thể tùy tiện đào một cái hố ở đầu thôn rồi chôn. Họ chôn người tất cả đều dùng quan tài đen, chỉ là vì người chết nhiều, gỗ mà các nhà các hộ có thể dùng đều chặt hết, ngay cả cây bên đường, thôn kế bên cũng đều bị họ mua hết, khiến cho cả thế giới này bị chặt trọc lóc. Lúc này, bố liền kéo quan tài đến bán. Quả là cứu người hoạn nạn.
Trời tuyết đưa than!
Người trong thôn từ ruộng hoa màu kéo về, để có thể mua được một cỗ quan tài đen giá rẻ, họ đã tự động xếp hàng rồng rắn ở đầu thôn, xếp từ đầu ngõ đến giữa ngõ, dài đến hơn hai trăm mét. Để phòng ngừa mỗi nhà chỉ có một người bệnh nhưng lại mua hai chiếc quan tài giá gốc, có hai người bệnh nhưng lại mua ba cỗ quan tài, bố mời Trưởng thôn Minh Vương đến.
Bố nói Trưởng thôn à, phiền ông giúp đỡ, kiểm định một chút.
Trưởng thôn nghĩ ngợi một lát, nói tiểu mạch nhà tôi nếu không cuốc sẽ chết trụi mất.
Bố nói nhà ông không có bệnh nhiệt sao?
Trưởng thôn nói nhà tôi căn bản không có người bán máu.
Bố nói nhưng cũng có người già chứ?
Trưởng thôn nói bố tôi tám mươi tư tuổi rồi.
Bố nói vậy tôi bán cho bố ông một cỗ quan tài, ông chuẩn bị cho ông ấy.
Trưởng thôn trầm ngâm một lúc, có thể rẻ hơn một chút được không?
Bố liền nghĩ ngợi, rẻ hơn năm mươi đồng so với giá gốc.
Để cho tôi cỗ nào tốt tốt chút được không?
Có ba cỗ quan tài loại một tùy ông chọn.
Trưởng thôn liền đến kiểm định giúp. Trong tay ông cầm con dấu của Ủy ban thôn Minh Vương, đến trước chỗ người trong thôn đang xếp hàng nhìn một lượt, đầu tiên lôi ra những người trong thôn mà trong nhà không có người bệnh nhiệt, sau đó ngồi bên cạnh bố, tiếp tục loại ra những người bệnh nhiệt nhẹ nhưng vẫn điền vào bản kê là bệnh nặng, cuối cùng mới bắt đầu bán quan tài.
Đến giờ ngọ, mặt trời đã ở chính giữa đỉnh đầu, người trong thôn đều bận rộn chuyển quan tài về nhà mình, khắp đường làng ngõ xóm đều là người vác quan tài, kéo quan tài, đâu đâu cũng toàn là những lời ngợi ca Chính phủ. Nói Ủy ban bệnh nhiệt là những minh vương ân đức ngút trời. Có người chuyển quan tài đến cổng nhà mình rồi, nhất thời chưa chuyển được vào sân, liền đặt tạm quan tài trên con đường lớn trước cửa. Có người khiêng vào trong sân nhưng không khiêng được vào nhà, liền đặt quan tài ở giữa sân. Trong một thời gian ngắn, tám mươi cỗ quan tài đã được phân hết cho các nhà các hộ, thôn Minh Vương đâu đâu cũng là quan tài. Thôn trở thành thôn quan tài. Những người được phân quan tài giá rẻ, vì nhận được sự quan tâm của Chính phủ, họ liền quên đi bệnh nhiệt, quên đi có người đang nằm chờ chết trong nhà, nụ cười trên mặt tỏa ra sự nhẹ nhõm và vui vẻ. Còn có người lại khóc lên vì vui sướng; vì nhà mình chỉ có người bệnh nhẹ, không được nhận quan tài, nhưng nhờ lạy lục khắp nơi, cuối cùng cũng có quan tài, anh ta không dám cười một cách quang minh chính đại, bèn nhấc quan tài về nhà, khóa chặt trong phòng, sau đó đi ra cửa nhìn thấy người khác thì nói chuyện mùa xuân, nói những lời như thời tiết thật là ấm áp.
Ngay hôm sau, nhóm của bố đến thôn Lão Hà Khẩu cách thôn Minh Vương không xa. Bố để ba chiếc xe chở quan tài dừng lại ở chỗ không có người, cách xa mấy dặm ngoài thôn, bố vào thôn đi một vòng trước, ngắm nhìn đường phố và nhà cửa trong thôn, thấy đường thôn đều là đường xi măng được rải từ năm năm, tám năm trước, các nhà đều là nhà lầu và nhà ngói xây từ năm năm, tám năm, mười năm trước, liền biết tình hình bán máu mười năm, tám năm trước trong thôn, biết độ giàu có của họ. Biết rằng thôn họ hôm nay tuy rằng nhà nhà đều bị bệnh nhiệt dày vò, nhưng chắc chắn mỗi nhà đều có tiền để dành mua quan tài, thế là, bố liền tìm đến nhà của Bí thư chi bộ thôn, nói tôi là Phó chủ nhiệm Ủy ban bệnh nhiệt huyện. Bố nói xong lấy thư giới thiệu trên huyện ra, đưa cho vị Bí thư trẻ tuổi xem, vị Bí thư vội vã mời bố ngồi uống nước. Bố liền uống nước, hỏi tình hình lây nhiễm bệnh nhiệt và tỉ lệ tử vong trong thôn, cuối cùng cũng hỏi một câu thăm dò, nhà anh có ai bệnh nhiệt không?
Bí thư trẻ tuổi cúi đầu, có nước mắt chảy trên mặt anh ta.
Bố liền hỏi một cách thông cảm, có mấy người?
Bí thư nói, anh tôi chết rồi. Em tôi vẫn đang nằm trên giường, mấy hôm nay tôi cũng phát sốt theo.
Bố liền trầm ngâm, lấy khăn tay ra, đưa cho Bí thư lau nước mắt, cuối cùng hạ quyết tâm nói, Bí thư, không phải nói điều gì nữa, chính tôi đã chủ trương chở chỗ quan tài này đến thôn Cổ Hà chúng ta, trước hết cần quan tâm đến người bệnh của thôn Cổ Hà chúng ta. Bố tôi nói, Bí thư à, để ngăn những người không có bệnh mua được quan tài rẻ, trái lại những người có bệnh lại không mua được quan tài, anh phải ra mặt thay tôi kiểm định - chỗ quan tài này cũng như cháo ít sư nhiều, chẳng đủ chia đâu, bên trên cho người dân được mua giá gốc, ngoài thị trường một cỗ quan tài anh biết rồi đấy, ít nhất phải bán năm trăm đồng, nhưng tôi chủ động chỉ lấy của thôn Cổ Hà chúng ta hai trăm đồng. Còn nhà anh, bố lại nghĩ một lát, thong thả chậm rãi nói, bệnh em trai anh đã đến giai đoạn cuối rồi, quyền lực của tôi chỉ có thể sau khi đưa quan tài trợ giúp cho em trai anh, chỉ thu bằng một nửa giá gốc, một trăm đồng một cỗ mà thôi.
Bí thư nhìn bố tôi, mắt ngấn lệ cảm kích.
Thế này nhé, bố tôi nói, bên trên quy định tạm thời không trợ giúp quan tài cho người bệnh nhẹ, phát bệnh chưa đến ba tháng cũng không trợ giúp quan tài, nhưng anh dù sao cũng là Bí thư của thôn này, xét cho cùng là lãnh đạo cơ sở, dù sao cũng phải có sự khác biệt, chờ chia quan tài xong, anh cũng trả một trăm đồng để dành cho mình một cỗ quan tài nhé, chỉ cần không để dân thôn biết là được.
Bí thư liền vào phòng một lát, lấy ra hai tờ một trăm đồng đưa cho bố, nở nụ cười ra cổng gõ chuông tập hợp cả thôn đến giữa thôn mua quan tài.
Lại đến giữa trưa, thôn Cổ Hà cũng như thôn Minh Vương, chỗ nào cũng bày quan tài. Mùi sơn đen cuộn chảy không ngừng trên đường phố, mùi thơm của gỗ vần vụ bao phủ khắp đất trời. Những người có bệnh hay không có bệnh của thôn Cổ Hà, có quan tài rồi thì không còn lo lắng hậu sự nữa. Trong hai năm, tiếng cười nói cơ hồ đã tuyệt chủng nay lại quay trở về trong thôn.
⚝ 3 ⚝Ông đã hai tháng không gặp bố tôi rồi. Ông muốn gặp bố tôi, muốn nói mấy câu với bố tôi, nhưng không biết khi gặp mẹ tôi, nên cười hay không cười. Cả một ngày, ông đều nghĩ chuyện gặp bố tôi.
Chạng vạng tối, chú tôi đến.
Chú đi vào phòng của ông, câu đầu tiên chính là:
“Bố, anh con mời bố đến nhà anh ấy ăn cơm, anh ấy có chuyện muốn nói với bố.”
Ông không hề do dự cùng chú đi đến nhà tôi. Ánh nắng giữa xuân ở nhà tôi như ngọn lửa nhỏ ấm áp. Nắng vàng chiếu lấp lánh trên bức tường ốp gạch trắng, giống hệt nhà và sân ở thôn Minh Vương và Cổ Hà mà ông đã nằm mơ. Điều không giống là chỗ trước đây là ổ gà, chuồng lợn ở góc sân phía nam nhà tôi giờ không còn nữa, bố và mẹ đã trồng ở đó một vạt kinh giới xanh um, cao như chiếc đũa, lá kinh giới có hình dáng giống lá hòe, nhưng dày hơn lá hòe, mặt trên không sáng như lá hòe, vân to và gân non chi chít. Chúng cây nọ lấn cây kia, mọc tốt um tùm nửa khoảnh sân, cả sân đều là mùi kinh giới tê tê thơm mát. Mùi kinh giới gần gần như mùi bạc hà. Nhưng mùi bạc hà tinh tế hơn mùi kinh giới, mùi kinh giới thô hơn mùi bạc hà. Chính bởi vị thô tháp này, Huyện trưởng Cao thích ăn cái mùi của nó.
Bố và mẹ đã vì Huyện trưởng Cao mà trồng vạt rau có vị thô này.
Chú phía trước, ông phía sau, vừa vào trong sân ông đã nhìn vào vạt kinh giới to đùng đang mọc um tùm đó.
Mẹ bưng một bát mì trắng đi vào bếp: “Bố, buổi trưa chúng ta ăn mì trộn kinh giới nhé.”
Ông và mẹ giống như chưa từng có chuyện bất hòa. Giống như bao nhiêu năm trước mẹ mới được gả đến Đinh Trang. Còn bố, cũng như chưa từng có chuyện bất hòa, hai người đứng ở cửa nhìn nhau, thoáng chút kinh ngạc, nhưng mặt bố lập tức nở nụ cười, vừa cười vừa đưa cho ông chiếc ghế có chỗ tựa và còn có đệm êm, sau đó cùng với chú tôi, ba người ngồi ba góc. Những điều này khiến ông có chút ngượng nghịu, con trai, con dâu vẫn nhiệt tình như cũ với ông, còn ông trái lại, tỏ ra xa lạ với họ. Mặt ông khẽ nóng lên, quay đầu nhìn ra chỗ khác. Trong phòng vẫn như trước đây, tường vôi trắng, dưới tường chính bày một chiếc án đỏ, hai bên tường một bên bày sô pha, một bên bày ti vi. Tủ để ti vi màu đỏ, trên cánh tủ trạm hoa mẫu đơn màu vàng. Trong góc tường có mạng nhện, bình thường mẹ nhìn thấy mạng nhện là quét, nhưng bây giờ, cái mạng nhện đó giăng từ chân tường đến tủ lạnh, to như cái quạt.
Có mạng nhện, ngôi nhà này đã không giống với trước kia nữa rồi. Ông đã nhìn thấy điểm khác thường từ chiếc mạng nhện đó. Đưa ánh mắt rời khỏi chỗ mạng nhện ở góc tường, ông liền nhìn thấy góc tường bên này phía sau cửa có mấy chiếc hòm lớn được bó lại, vừa nhìn đã biết là bố sắp chuyển nhà.
Ông liền đặt ánh mắt lên trên mấy chiếc hòm gỗ.
“Nói thẳng nhé,” bố hít một hơi thuốc: “Con chuẩn bị chuyển nhà rồi.”
Ông liền chăm chăm nhìn bố:
“Chuyển đi đâu?”
Bố đưa mắt sang phía khác:
“Trước hết là chuyển vào thành phố, sau có nhiều tiền rồi thì sẽ chuyển đến Đông Kinh.”
Ông liền hỏi:
“Có phải con đã làm Phó chủ nhiệm Ủy ban bệnh nhiệt huyện rồi không?”
Bố có chút kinh ngạc.
Ông lại hỏi: “Có phải mấy ngày trước con bán mấy xe quan tài ở thôn Minh Vương và Cổ Hà không?”
Bố lấy điếu thuốc đang hút ra khỏi miệng:
“Bố nghe ai nói vậy?”
Ông tôi nói:
“Đừng quan tâm việc bố nghe ai, con hãy nói rốt cuộc có những chuyện này không?”
Bố liền để mặc ông không nói gì.
Ông lại tiếp tục nói:
“Có phải con đã bán hai xe tám mươi cỗ quan tài đen ở thôn Minh Vương? Bán ba xe một trăm mười cỗ quan tài ở Cổ Hà?”
Bố càng lúc càng ngạc nhiên, vẻ ngạc nhiên trên mặt như chớp mắt một cái thì sự ngạc nhiên sẽ rơi tuột xuống, thế là trong lúc kinh động đó mặt bố đanh lại, mặt như bị đông cứng, vĩnh viễn không thể tan ra. Ba bố con họ cứ ngồi ba góc đối nhau như thế, từ nhà bếp vọng lại tiếng mẹ cán mì, tiếng cán mềm mại từ trong sân vọng lên trên nhà, như ai đó dùng bàn tay mập mạp vỗ lên bức tường sau lưng họ. Bố ngồi ở bên trong, bất giác dụi điếu thuốc trong tay, rồi lại dùng chân vặn đoạn thân thuốc vẫn còn dài dưới chân khiến sợi thuốc và giấy bọc tách ra, nhìn ông tôi một cái, để ánh mắt rơi trên mặt ông, và trên mái đầu đã bạc của ông.
“Bố,” bố tôi nói, “cho dù bố có đối xử không tốt với con hơn nữa, xét đến cùng bố vẫn là bố đẻ của con - ở Đinh Trang này, nhà chúng ta nói gì cũng không thể tiếp tục ở đây nữa. Con cũng đã thương lượng với mẹ Anh Tử rồi, sau khi nhà chúng ta chuyển đi, chú hai nay sống mai chết, tất cả nhà cửa, đồ đạc này đều cho chú hai. Ngoài quần áo ra, những thứ khác chúng con đều không mang theo. Có căn nhà và đồ đạc này, con không tin Tống Đình Đình sẽ không từ nhà mẹ cô ấy chuyển về, có thể không cần chỗ gia sản này. Còn bố…” bố tôi ngừng lại một lát rồi nói, “theo chúng con chuyển vào thành phố cũng được, ở lại bên cạnh chú hai cũng được. Chờ sau khi chú hai qua đời, bố lại đến thành phố để con nuôi bố cũng được.”
Bố nói xong rồi.
Mặt chú hai đầm đìa nước mắt.
⚝ 4 ⚝Quá nửa đêm, ông không thể nào ngủ được, trong đầu chất đầy việc bố bán quan tài. Nghĩ đến việc bán quan tài, trong lòng ông lại một lần nữa có suy nghĩ “thằng cả này chết thì tốt biết mấy.” Có suy nghĩ ấy, ông không thể ngủ nữa. Đầu hơi đau. Ông ở trên giường trằn trọc trở mình, đột nhiên nghĩ đến trên bình nguyên, nhà nào hận nhà nào sẽ chôn sâu một thanh gỗ đào hoặc gỗ liễu trước cửa nhà kia, vót nhọn một đầu gỗ, viết lên tên kẻ mà mình muốn chết, đập xuống trước cửa nhà hắn, chôn thanh gỗ xuống, nguyền rủa cho hắn chết. Dù biết người đó không thực sự chết, nhưng vẫn làm như vậy. Làm như vậy, có thể người đó sẽ chết sớm, cũng có thể sẽ bị tai nạn gãy tay, gãy chân hoặc ngón tay.
Ông liền xuống giường, bật đèn lên, tìm một cây gậy liễu trong phòng, vót nhọn một đầu, rồi đi tìm một mảnh giấy, trên mảnh giấy đó ghi mấy chữ “Con trai Đinh Huy của tôi sẽ chết thảm”. Rồi suốt đêm chôn cây gậy liễu ấy trước cửa nhà tôi.
Chôn gậy xong, trở về phòng, ông cởi nhanh quần áo, lên giường không lâu thì ngủ.
Chôn cây gậy gỗ liễu xong, bố vẫn sống rất tốt, nhưng Triệu Đức Toàn lại chết rất nhanh.
Trong mùa xuân, khi vạn vật sinh sôi nảy nở, theo lí dù anh bệnh nặng thế nào, dù vô phương cứu chữa, thì sau khi đã chịu đựng được mùa đông khốc liệt, vào xuân rồi, mệnh căn sẽ vượng, có thể chịu qua mùa hạ, mùa thu, và sẽ lại có thêm một năm thọ nữa.
Thế nhưng, Triệu Đức Toàn lại không qua nổi mùa xuân. Cái ngày ông vác tấm bảng đen của trường học đó, tấm bảng cũ gỗ du, khi đi vào trong thôn, đi một đoạn lại nghỉ một đoạn, nhưng vào đến thôn rồi, người trong thôn lại đều hỏi ông: “Triệu Đức Toàn, ông lấy bảng đen để dạy ai học thế?” Hỏi: “Thật không ngờ, có bệnh sống trong trường, lại được phân chia tài sản của trường sao.” Hỏi: “Trời ơi, ngay cả bảng đen cũng vác về nhà, ông chết rồi con cái ông sẽ không đọc sách, đi học sao?” Đều là hỏi, mà không biết trả lời thế nào, nên đi một mạch không nghỉ, từ phía tây Đinh Trang cõng một mạch đến phía đông Đinh Trang, lại rẽ vào một con ngõ nhỏ, đến nhà đặt tấm bảng dựa vào tường, người bỗng liệt ra đất không thể dậy nữa.
Trước đây, ông vác đồ hai trăm cân chỉ như vác một hòn đá, một bao gạo, có thể đi một mạch cả mấy dặm đường, nhưng bây giờ, chiếc bảng đen cũng chỉ một trăm cân, có lẽ không đến một trăm cân, mấy chục cân, cũng vác một mạch từ phía tây thôn sang phía đông thôn, mấy trăm mét, nhưng lại làm ông toát rất nhiều mồ hôi, về đến nhà, ông không ổn nữa rồi, nằm bất động giữa sân không dậy nữa, thở hổn hển như gió bị hút trong hành lang.
Vợ ông hỏi: “Anh vác tấm bảng này về nhà làm gì thế?”
“Được phân… dùng làm quan tài,” Triệu Đức Toàn nói được nửa câu, trên mặt liền nổi màu trắng bệch, không muốn nói gì nữa, như có đờm tắc trong cổ họng, cứ thế thở dốc, không nói ra lời, mặt lại bị xung huyết thành màu đỏ máu. Trong màu đỏ đó, nốt mụn trên mặt trở thành màu tím đen, lồi lên rất to, như sắp rơi xuống. Vợ ông vội đi đến đấm lưng cho ông, đấm ra một cục đờm như máu, một cục máu như đờm, Triệu Đức Toàn liền ngã xuống không dậy nữa.
Vác bảng đen về nhà, và không bao giờ trở lại trường học nữa.
Mấy ngày sau, vợ ông đến trường, tìm Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến nói: “Chủ nhiệm Giả, Chủ nhiệm Đinh, khi chồng tôi đến trường học có thể đi lại được, nhưng bây giờ anh ấy nằm trong nhà chỉ còn một, hai hơi nữa thôi. Người sắp chết rồi, nhưng người khác được phân bàn phân ghế, hai anh lại chỉ phân cho anh ấy một tấm bảng đen.” Nói: “Tôi một đời làm vợ anh ấy, một đời ở Đinh Trang, người khác đánh vợ, mắng vợ, nhưng cả đời anh ấy chưa hề đánh tôi, chưa hề mắng tôi, anh ấy sắp chết, tôi không thể không cho anh ấy một cỗ quan tài. Anh ấy khi sống đã bán máu để xây cho tôi và các con tôi ngôi nhà ngói to tốt như vậy, anh ấy chết rồi tôi không thể không chuẩn bị cho anh ấy một cỗ quan tài.”
Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến liền dẫn chị và mấy người trẻ tuổi, đi một vòng quanh trường, nhìn các phòng học trống không, nói chị ưng cái gì thì lấy cái đó, chỉ cần có thể làm quan tài thì chị cứ mang đi. Cứ thế đi hết gian phòng này đến gian phòng khác, phòng học này đến phòng học khác, lúc này mới nhìn thấy trường học đã sạch bách, không còn đồ gì nữa cả. Tất cả bàn học, ghế tựa, ghế băng, cả bảng đen và giá bảng, giường của giáo viên, khung gương treo trong phòng giáo viên, giá gỗ giáo viên dùng để treo quần áo và để sách vở. Tất cả đều không còn nữa. Phòng nào cũng trống hoác, cả một đám hỗn loạn, khắp nơi đều là vở bài tập của học sinh và bít tất rách. Trong mỗi gian phòng học cũng đều trống không như thế, giấy khắp nơi, bụi phấn khắp nơi, khắp nơi trống huếch trống hoác chất đầy tro bụi. Trong trường học, trừ phòng ở của người bệnh là còn đồ họ vẫn dùng ra, những thứ khác đều không còn nữa. Trong bếp ngoài đồ ăn ra, cũng không còn gì nữa.
Đều bị chia sạch rồi.
Đều bị trộm sạch rồi.
Giá bóng rổ trong sân trường, giá vẫn còn, nhưng tấm gỗ trên giá thì không còn nữa. Cái giá trống không đứng đó, bên trên vừa đủ phơi quần áo. Căn Trụ và Dược Tiến dẫn chị đi khắp trường học, khi mặt trời sắp về tây, họ tay không đứng giữa sân trường.
Dược Tiến nói: “Muốn lấy thì chị lấy cái ghế tôi đang ngồi ấy.”
Căn Trụ nói: “Không được thì đi tìm thằng chó Đinh Huy, có thể sẽ lấy được một cỗ quan tài.”
Liền đi tìm bố tôi.
Cả đám người kéo đi tìm bố tôi. Đến cổng nhà tôi, ầm ĩ như cãi vã, đều nói nghe nói bố bán quan tài ở thôn khác, bán quan tài đen làm cho bệnh nhân bệnh nhiệt. Chính là quan tài đen mà Chính phủ cấp cho mỗi người bệnh không lấy tiền. Bố chỉ nhìn người trong thôn không nói gì, để họ nói ầm ĩ, nói đến sùi bọt mép, Căn Trụ gào lên một tiếng: “Cãi cọ cái gì!”, chờ sau khi yên tĩnh trở lại, Giả Căn Trụ liền kéo Đinh Dược Tiến, hai người đứng phía trước đám người nói: “Hai chúng tôi thay mặt cho dân Đinh Trang đến chỗ anh đòi quan tài, anh chỉ cần nói anh có từng bán quan tài hay không?”
Bố tôi nói: “Bán rồi.”
Căn Trụ nói: “Bán cho ai?”
Bố tôi nói: “Ai cần thì tôi bán cho người đó. Các anh cần thì tôi cũng bán cho các anh.”
Nói xong những lời này, bố liền về nhà lấy ra cái túi da bò lớn, từ trong túi đó lấy ra thẻ công tác của bố. Là thẻ công tác ghi bố làm Phó chủ nhiệm Ủy ban bệnh nhiệt huyện. Lấy ra rất nhiều công văn, có công văn quan trọng in tít đỏ, có con dấu của Ủy ban huyện, Chính phủ huyện đóng, còn có công văn quan trọng in tít đỏ có con dấu của thành phố và tỉnh. Hai công văn của tỉnh một công văn có tiêu đề là “Thông báo khẩn về việc ngăn chặn tuyên truyền rộng rãi tình hình bệnh nhiệt tức bệnh AIDS ở nông thôn”, phía sau công văn đóng con dấu là dấu tròn của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh. Công văn còn lại tiêu đề là: “Thông báo về việc chiếu cố bệnh nhân bệnh nhiệt mua quan tài giá thấp để yên tâm hậu sự”, sau văn kiện đóng dấu tròn lớn của Ủy ban bệnh nhiệt tỉnh. Công văn của thành phố và của huyện, đều là thông báo về việc chuyển báo cáo cấp trên, phía sau thông báo đều đóng con dấu của Ủy ban bệnh nhiệt thành phố và trên huyện. Bố đưa những công văn đó cho Căn Trụ và Dược Tiến xem. Xem xong rồi, bố liền hỏi họ:
“Hai anh là Chủ nhiệm Ủy ban bệnh nhiệt Đinh Trang à?”
Họ nhìn nhau, ngầm đồng ý.
Bố liền cười cười: “Tôi là Phó chủ nhiệm Ủy ban bệnh nhiệt huyện, chuyên phụ trách việc bán quan tài cho bệnh nhân bệnh nhiệt và đồ cứu trợ cho bệnh nhân trong toàn huyện.”
Bố tôi nói: “Dạo trước hai anh lĩnh trên xã về khoản trợ cấp cho bệnh nhân, mỗi người bệnh mười cân gạo, mười cân mì đều do tôi phê chuẩn cho Đinh Trang, các anh không nhìn thấy tên tôi kí trên công văn phê chuẩn sao?”
Bố tôi nói: “Công văn quy định bán quan tài trợ cấp cho người bệnh mỗi chiếc không thấp hơn hai trăm đồng, nhưng tôi là người Đinh Trang, tôi lo việc nhà mình, ai cần thì mỗi chiếc là một trăm tám mươi đồng. Trước mắt mọi người ai muốn thì báo lên, ngày mai tôi sẽ phái người đem quan tài về thôn.”
Mặt trời đã chìm xuống phía tây. Trong hoàng hôn đầu xuân, có mùi thơm ấm áp bay đến từ nơi nào trên đồng ruộng, phảng phất trên đường thôn, bảng lảng tỏa hương thơm. Bố hỏi Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến, nhìn hết cả đám người bệnh nhiệt đang đứng trước cửa, vì bố đứng trên bậc thềm ngoài cửa, giống như đứng trên đài chủ tịch. Vừa hỏi, vừa nhìn mặt người trong thôn, bố lại nói lớn:
“Kì thực quan tài không hề rẻ, nếu mỗi người các anh tự làm thì cũng cái giá ấy, nếu rẻ lẽ nào tôi lại không bán sớm cho các anh?”
Bố tôi nói: “Em trai tôi muốn mua, tôi cũng không cho nó mua, toàn gỗ không khô, chẳng mấy bữa kẽ quan tài sẽ rộng ra to như những ngón tay.” Nói: “Mua quan tài không bằng mua lấy cái cây, mình muốn quan tài như thế nào thì đẽo cây làm như thế.”
Bố tôi nói: “Đều là người cùng thôn cùng xóm, không cần phải phùng mang trợn mắt thế này. Nếu muốn so sánh ai lợi hại hơn, hai anh là người phụ trách Ủy ban bệnh nhiệt Đinh Trang, tôi là người phụ trách Ủy ban bệnh nhiệt huyện, các anh nói rốt cuộc ai lợi hại hơn? Rốt cuộc ai phải nghe ai? Nếu như phải cãi nhau đánh nhau, chỉ cần một tin tôi bắn lên trên, lập tức cảnh sát, công an bên trên sẽ tới, nhưng như vậy Đinh Huy tôi còn có thể xem là người Đinh Trang sao? Tôi còn là người sao?”
Không nói gì nữa.
Đều không có gì để nói nữa.
Mọi người cứ thế tản đi trước cổng nhà tôi, đi vào trong trường học. Mặt trời đã nặng nề chìm xuống như một khối chì nung đỏ. Đỏ, và nặng nữa, từ trên trời đắm xuống đất. Từ trong ngõ nhìn ra, ở nơi xa trên bình nguyên phía tây, cả một vùng lửa đang cháy, dường như có tiếng lép bép của lửa, giống tiếng lửa bén khi đốt một rừng cây bách.