THÁNG HAI
Những xấp giấy tờ công việc, nếu không được ai thu vén, có thể nhân lên theo cấp số mũ, với tốc độ chóng mặt như đám thỏ và lộn xộn như móc treo quần áo ngoặc vào nhau. Cau có nhìn những tập tài liệu mới nhất trên bàn, Đặc vụ Brandon Eddison không thể ngừng băn khoăn trông chúng sẽ ra sao khi cháy. Sẽ không tốn nhiều thời gian để đống giấy tờ này hóa thành tro bụi. Chỉ một cú đánh diêm, gạt bật lửa vào góc của một, hai trang giấy nằm giữa là ngọn lửa sẽ cháy đều, và rồi tất cả đám giấy tờ kia sẽ cháy rụi.
“Nếu anh đốt chúng, anh vẫn phải in lại và rồi anh sẽ có thêm giấy tờ về vụ hỏa hoạn này nữa,” một giọng cười vang lên ngay bên phải anh.
“Im đi, Raimrez,” anh thở dài.
Mercedes Ramirez - cô bạn thân và cũng là đồng nghiệp của anh - chỉ tiếp tục cười lớn và ngả ra ghế của mình, kéo căng chiếc ghế thành một đường cong dài. Chiếc ghế của cô rên lên cót két phản đối. Bàn làm việc của cô cũng bề bộn giấy tờ. Không phải được xếp thành từng chồng mà là vứt ngổn ngang. Nhưng nếu anh hỏi cô về bất kỳ thông tin nào, cô cũng sẽ tìm thấy nó mà chẳng cần tốn đến một phút và anh chẳng bao giờ hiểu nổi tại sao cô có thể.
Ở trong góc, đối diện với những chiếc bàn chữ L của họ là hang ổ của sếp, Quyền đặc vụ cấp cao Victor Hanoverian. Có một điều khiến Eddison vừa sợ vừa ngưỡng mộ đó là giấy tờ trên bàn làm việc của Victor dường như đều được xử lý và phân loại trong những tệp tài liệu có màu sắc khác nhau. Là sếp của bộ ba gan dạ này, số giấy tờ mà Vic phải xử lý nhiều hơn cả, nhưng lúc nào ông cũng là người hoàn thành chúng đầu tiên. Ba mươi năm trong ngành đã biến ông thành người như vậy, Eddison đoán, nhưng đó là một suy nghĩ đáng sợ.
Anh quay lại phía bàn làm việc của mình và nhìn chồng giấy mới nhất, càu nhàu khi đọc những trang trên cùng. Anh có một hệ thống, và hệ thống của anh khiến Ramirez phát điên như phong cách làm việc của cô khiến anh mệt mỏi, và bất kể chồng giấy tờ có cao đến đâu, anh cũng không tốn nhiều thời gian để sắp xếp chúng vào đúng những chồng giấy phía cuối bàn, phân loại theo chủ đề và cả mức độ ưu tiên. Chúng được sắp đặt gọn gàng, vuông vức với cạnh trong và các góc của bề mặt, xen kẽ nhau theo chiều dọc và chiều ngang.
“Đã có vị bác sĩ tài ba nào nói chuyện với anh về vấn đề này chưa?” Ramirez hỏi.
“Thế A&E đã bao giờ cố gắng can thiệp vào vấn đề của cô chưa?”
Cô cười khúc khích rồi quay về bàn làm việc của mình. Sẽ thật hay ho nếu trong một khoảnh khắc bất cẩn nào đó, cô sập bẫy. Cô tuyệt nhiên không hề bình tĩnh nhưng thật kỳ lạ, cô luôn miễn nhiễm với những lời trêu đùa.
“Mà này, Vic đâu nhỉ?”
“Trên đường quay lại phòng hỏi cung; Bliss yêu cầu ông ấy phải có mặt ở đó.”
Eddison băn khoăn liệu có nên chỉ ra rằng cách đây ba tháng rưỡi, sau khi họ cứu những cô gái khỏi khu vườn đang cháy, cô vẫn đang sử dụng tên của những loài bướm để gọi những nạn nhân, những cái tên do chính kẻ bắt cóc đặt cho họ.
Nhưng anh không nói ra. Có lẽ cô cũng tự biết. Phần lớn thời gian, công việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều nếu họ có thể sắp xếp mọi thứ gọn gàng vào những chiếc hộp nhỏ trong đầu, và việc sắp xếp được tên các cô gái này trước khi họ bị bắt cóc còn khó hơn nhiều.
Anh cần phải bắt tay vào công việc. Anh sẽ dành hôm nay, hoặc phần lớn hôm nay, để giải quyết giấy tờ và anh thật sự nên thanh toán xong ít nhất một trong những chồng giấy kia vào cuối ngày. Mắt anh dừng lại ở chồng tài liệu màu mè nằm ở góc trong cùng bên phải bàn làm việc, chồng giấy tờ cứ cao lên theo năm tháng mà không hề nhận được câu trả lời. Chồng tài liệu này chẳng bao giờ biến mất.
Anh ngả người ra ghế và nghiên cứu hai tấm ảnh lồng khung nằm ngay trên đầu trong chiếc tủ đựng tài liệu trơ ì chứa văn phòng phẩm và những biểu mẫu còn trống.
Một trong những bức ảnh là ảnh chụp anh và em gái mình vào dịp Halloween cách đây nhiều năm, một trong những lần cuối cùng anh trông thấy con bé trước khi nó bị lôi đi trên phố trên đường đi học về. Khi đó con bé mới tám tuổi. Logic mách bảo anh rằng chắc hẳn con bé đã chết. Đã hai mươi năm kể từ ngày đó và anh vẫn thấy mình điều tra bất kỳ cô gái nào trạc hai mươi tuổi trông giống em gái mình. Hy vọng là một điều lạ lùng và luôn thay đổi.
Nhưng rồi, cả Niềm tin cũng thế, lạ lùng và dễ lung lay, khi đó cô chỉ là em gái anh, chứ không phải một đứa trẻ trong danh sách trẻ mất tích.
Bức ảnh còn lại mới hơn, được chụp cách đây chỉ vài năm, một món quà lưu niệm từ chuyến dã ngoại phiền toái và bất ngờ nhất không liên quan tới công việc mà anh từng tham gia. Priya và mẹ cô đã lôi anh tham gia hàng tá những chuyến thưởng ngoạn kỳ cục trong thời gian khoảng sáu tháng họ sống ở D.C., nhưng chuyến đi đó đầy những cơn ác mộng. Anh thậm chí còn không chắc bằng cách nào họ đã tới được cánh đồng đặt tượng bán thân của các đời Tổng thống Mỹ. Nhưng mà thật sự họ đã tới được đó và trong một khoảnh khắc Eddison và Priya đã thật sự leo lên tới vai của ngài Lincoln, cả hai cùng chỉ vào một lỗ lớn đằng sau đầu của bức tượng. Là thật? Đúng vậy. Do người ta cố ý tạo ra? Nếu dựa trên những vùng méo mó khác của những bức tượng cao tới hai mươi foot này thì… không, không hẳn là do cố ý. Ngày hôm đó họ còn chụp nhiều bức ảnh khác - chúng đã được cất giữ an toàn trong hộp giầy đặt ở đáy tủ quần áo của anh - nhưng đây là bức ảnh anh thích nhất. Không chỉ vì bức tượng khiến người ta bối rối của một vị tổng thống bị ám sát, mà bởi đó là bức ảnh mà Priya tự khiến nàng ngạc nhiên bằng một nụ cười.
Anh chưa từng thấy Priya cười vô tư. Priya đó đã vỡ vụn chỉ vài ngày trước khi anh gặp cô gái tái sinh từ những mảnh vỡ. Priya mà anh biết gai góc, sắc lạnh, lúc nào cũng hằm hè và nụ cười thì như tát vào mặt người khác. Bất kể điều gì mềm mỏng hơn, nhân hậu hơn ở con người ấy đều chỉ là ngẫu nhiên. Mẹ cô có lẽ đã thấy được những lần dịu dàng đó, nhưng người khác thì chắc chắn không, nhất là kể từ khi chị gái cô chỉ tồn tại trên những bức ảnh và ghi chép trong một tệp tài liệu giữa vô số tệp tài liệu màu mè nằm nơi góc bàn trong cùng của anh.
Eddison dám chắc rằng anh sẽ chẳng bao giờ có thể làm bạn với cô nàng Priya của ngày xưa. Ngay cả với Priya mới này, anh vẫn cảm thấy có chút sợ sệt. Cô lẽ ra chỉ nên làm em gái của một nạn nhân trong một vụ sát hại, một người để anh thực hiện những cuộc phỏng vấn và thấy cảm thương mà không hề hiểu rõ, nhưng những ngày sau vụ án của chị gái mình, Priya đã vô cùng tức giận. Cô nổi điên với tên sát nhân, với chị gái mình, với cảnh sát, với cả thế giới đáng nguyền rủa này. Eddison đã quá quen thuộc với kiểu giận dữ này.
Và vì anh đang nghĩ tới cô, chính vì hôm nay là ngày giải quyết công việc giấy tờ sau một chuỗi ngày tồi tệ phải chiến đấu cật lực để ngăn chặn sự can thiệp của truyền thông tới vụ Vườn Bướm Đêm, anh kéo ngăn tủ cá nhân của mình ra, chụp nhanh một tấm ảnh được đóng khung và gửi tin nhắn cho cô. Anh không hy vọng cô sẽ trả lời - lúc này là chín giờ và anh biết cô đang ở đâu, nếu không phải dậy đi học, có lẽ cô vẫn đang cuộn tròn trong chăn.
Thế nhưng, chỉ một giây sau, điện thoại anh rung lên với một dòng tin nhắn. Bức ảnh là một cú máy dài chụp lại một tòa nhà bằng gạch đỏ đáng lẽ phải vững chắc nhưng lại trông rất giả tạo, một mảng tường được quây lại bằng những tấm lưới sắt gỉ mà có lẽ đã là giàn thường xuân trong những tháng ấm áp. Những ô cửa sổ cao, hẹp, mang phong cách thời Trung cổ được xây rải rác dọc bức tường.
Cái quái gì thế này?
Điện thoại anh lại rung lên.
Đây là ngôi trường mà tôi từng mắc kẹt trong suốt những năm tháng học ở đó. Anh nên nhìn đồng phục của nó.
Tôi biết ngày trước anh chỉ học trực tuyến nên có thể mặc pyjama cả ngày.
Ồ, không CHỈ pyjama. Anh có biết ngài hiệu trưởng đã cáu tiết khi mẹ tôi nói với ông ta rằng chúng tôi sẽ không nhập học? Tôi đã bảo bà rằng bà đang làm một việc sai trái khi bắt tôi học tập trong một môi trường giáo dục kém cỏi như thế.
Anh nhăn mặt.
Tôi không thể tưởng tượng rằng mọi việc lại tốt đẹp.
Tôi đoán ông ta đã quen với việc uốn cong dương vật của mình để có được thứ mình muốn. Cái đó của mẹ tôi còn ấn tượng hơn nhiều.
Một sức nặng đè lên vai anh và anh lùi lại, nhưng đó hóa ra chỉ là Ramirez. Định nghĩa về không gian riêng tư của cô khác hoàn toàn với định nghĩa của anh, và chắc chắn là anh hiểu không gian riêng tư nghĩa là gì. Thay vì tranh cãi, nó chẳng mang lại điều gì tốt đẹp, anh nghiêng màn hình để cô có thể đọc được.
“Uốn cong… Eddison!” Cô búng tai anh một cái thật mạnh đủ để làm anh đau điếng. “Anh đã dạy con bé điều này sao?”
“Con bé gần mười bảy tuổi rồi, Ramirez. Nó hoàn toàn có khả năng tự mình ngu ngốc.”
“Anh là một kẻ có ảnh hưởng xấu.”
“Thế nếu tự con bé là ảnh hưởng xấu thì sao?”
“Ai mới là người lớn cơ chứ?”
“Chắc chắn không ai trong số hai người,” một giọng nói khác cất lên.
Cả hai cùng co rúm lại.
Nhưng Vic không hề dừng lại nhắc nhở họ rằng lẽ ra không được dùng điện thoại cá nhân trong giờ làm việc hay họ còn có những việc khác lẽ ra phải làm ngay. Ông chỉ đi qua họ, mùi cà phê mới bao quanh ông và ông quay lại nói qua vai mình, “Gửi lời chào của tôi tới Priya.”
Eddison miễn cưỡng gõ lại những lời đó trong khi Ramirez âm thầm quay về bàn mình. Anh cười lớn vì dòng tin nhắn phản hồi của Priya.
Aww, thế anh có bị giam giữ không?
Mà thôi, thế lúc tỉnh táo anh làm gì?
Đi dạo à. Cuối cùng thì trời cũng chuyển mùa rồi.
Trời lạnh lắm đúng không?
Vâng, nhưng mà tuyết ngừng rơi rồi, cũng không còn ảm đạm và mưa lạnh ẩm ướt nữa. Để xem ở đây có gì.
Gọi cho tôi sau nhé. Kể cho tôi về những việc ở đó.
Anh đợi câu khẳng định của cô, rồi trượt điện thoại lại vào ngăn kéo đựng chung khẩu súng và huy hiệu, cùng hàng tá những thứ khác mà anh thường chơi khi ngồi tại bàn làm việc. Trong suốt khoảng thời gian chết tiệt gần như không thuyên giảm chứa đầy những nỗi kinh hoàng, chính là công việc mà anh đang theo đuổi, Priya như một tia sáng lóe lên trong cuộc đời.
Anh đã công tác trong ngành này đủ lâu để cảm thấy biết ơn vì điều đó.
Huntington, Colorado tháng Hai trời lạnh đến run người. Thậm chí khi đã khoác đủ áo trong áo ngoài đến mức người tôi như to ra tới ba lần thì cái lạnh vẫn bằng cách nào đó len lỏi vào giữa những thớ vải. Chúng tôi đã ở đây một tuần rồi, và hôm nay là ngày đầu tiên mà thời tiết có vẻ đẹp để ra ngoài khám phá.
Tới giờ, tất cả mọi thứ ở nơi đây đều rất giống những địa điểm chúng tôi từng sống trong suốt bốn năm qua. Công ty của mẹ đã đảo lộn cuộc sống của chúng tôi, đẩy chúng tôi tới khắp mọi miền trên đất nước này để bà có thể chóng vánh giải quyết công việc. Trong vòng ba tháng tới, chúng tôi lại chuyển nhà tiếp và nếu mọi chuyện tốt hơn, bà có thể sẽ đảm nhiệm bộ phận Nhân sự tại chi nhánh Paris. Không nhất thiết nước Pháp là địa điểm cuối cùng, nhưng tôi nghĩ cả tôi và mẹ đều hy vọng như thế. Priya ở Paris nghe thật thú vị làm sao. Trong khi đó, Huntington cũng cách Denver đủ gần để mẹ có thể dễ dàng đi lại và cũng đủ xa để nó giống một cộng đồng hơn là một thành phố, đó là những gì người đại diện công ty nói với chúng tôi khi đưa chúng tôi vào nhà mới trong ngày đầu tiên tới đây.
Sau năm ngày tuyết tan, tuyết lại rơi suốt dịp cuối tuần, để lại trên những bãi cỏ lớp tuyết trắng mềm như tơ còn viền xung quanh thì xám xịt và bẩn thỉu. Nơi đây trông còn có phần xấu xí hơn cả đống tuyết được cào. Nhưng những con đường đã sạch sẽ và các vỉa hè đều nhuốm màu xanh của muối. Nó khiến người ta có cảm giác đang đi bộ qua những tàn dư của một cuộc thảm sát Xì trum.
Tôi thọc mạnh tay vào túi áo khoác trong lúc đi bộ, một phần là để tận hưởng chút hơi ấm trên cùng của đôi găng tay, phần còn lại là để giữ những ngón tay mình không ngứa ngáy với một chiếc máy ảnh tốt hơn cái điện thoại tôi đang có. Tôi đã để máy ảnh ở nhà, nhưng Huntington lại có phần thú vị hơn những gì tôi tưởng tượng.
Ngang qua trường tiểu học gần nhất là một ngôi nhà mùa đông cho sóc được dựng lên ở một phía sân chơi; về cơ bản thì đó là một cái chuồng gà dựng cao chót vót và được sơn màu đỏ tươi. Có một cái lỗ dưới đáy để lũ sóc chui ra chui vào và một cái đèn nháy màu đỏ từ máy quay bên trong giúp lũ trẻ ở trường để mắt tới lũ sóc trong mùa đông lạnh giá. Bây giờ đang có vài con sóc ngủ ngon lành trên những miếng mền bông và mùn cưa vỡ vụn. Vâng, đúng là tôi đang liếc trộm chúng. Đó là một ngôi nhà cho sóc.
Cách đó chừng một dặm, có một khu vực trống trơn nằm sâu trong góc ngã tư, khoảnh đất này quá nhỏ để có thể đỗ một thứ gì, nhưng lại có một ban công rèn sắt tuyệt tác nằm ngay chính giữa. Kiểu như là ban công, nó chẳng có tầng, chỉ có những chiếc cột đóng sâu xuống nền đất lạnh cóng, những chiếc cọc chống sẽ trông như được bọc lại lùm xùm bằng băng gạc, còn phần đỉnh có hình dáng giống củ hành trông mong manh như đăng ten. Nó giống một nhà thờ nơi người ta tổ chức đám cưới, nhưng bao quanh là những quầy bán đồ ăn nhanh và một văn phòng đo mắt đứng một mình một góc.
Quay về trên cung đường vòng rộng lớn, tôi phải chạy xe qua một ngã bảy, một nửa số ngã rẽ là đường một chiều và mọi biển báo đều chỉ sai hướng. Chẳng có chiếc xe nào chạy trên bảy ngã rẽ trong tầm nhìn. Đúng, bây giờ mới là mười một rưỡi sáng và người ta chủ yếu đang đi làm hoặc đi học, nhưng tôi lại có cảm giác rằng ngã bảy này được nối với nhau chỉ bởi những tài xế đầy cam chịu định mệnh của cái chết và sự diệt vong.
Thế nhưng tôi vẫn chụp ảnh mọi thứ; mặc dù khi xem trên điện thoại những bức ảnh đều trở nên vô dụng, nhưng tôi vẫn chụp vì đó là nghề của tôi. Thế giới dường như ít đáng sợ hơn một chút, bằng cách nào đó, khi tôi có thể giữ ống kính máy ảnh giữa mình và vạn vật. Thế nhưng chủ yếu tôi sẽ gửi các bức ảnh mình chụp cho Chavi, để chị cũng được thấy những điều tôi thấy.
Chavi đã mất gần năm năm rồi.
Tôi vẫn gửi ảnh cho chị.
Cái chết của Chavi chính là duyên cớ cho tôi gặp những đặc vụ FBI, và họ là những đặc vụ của tôi theo một cách rất quan trọng, Eddison, Mercedes và Vic. Vụ của chị gái tôi Chavi lẽ ra cũng phải được họ giải quyết, nhưng nó mãi chỉ nằm trên giấy tờ, dù vậy họ vẫn thường xuyên kiểm tra tôi sau này qua những tấm thiệp, email và những cuộc điện thoại. Có thời điểm tôi đã không còn oán hận những điều nhắc nhớ về vụ án của Chavi và cảm thấy biết ơn vì chúng tôi không ngừng chuyển chỗ ở, tôi đã có một nhóm bạn lạ lùng ở Quantico.
Tôi đi bộ qua một thư viện trông giống nhà thờ, được bao quanh bởi những tấm kính đã lấm bẩn và một tháp chuông, cùng một quán rượu được những nhân viên luật chuyên giải quyết mấy vụ lái xe khi dùng chất kích thích cọc giữ. Xa hơn một chút là trung tâm thương mại với một phòng gym to tướng hoạt động 24/7 ở một đầu và một cơ sở chăm sóc giáo dục ngoài giờ ở đầu còn lại, giữa chúng là bảy quán bán bảy loại đồ ăn nhanh khác nhau. Nơi này đủ kỳ dị để tôi cảm thấy thích nó, với đủ sự mâu thuẫn và lộn xộn, nhận thức được những ý định của chúng tôi có thể gây rắc rối cho chúng và bản chất xấu xa của chúng tôi đang ở ngay đó chờ được bộc lộ.
Một trung tâm thương mại lớn hơn nhiều - hai tầng với đống đồ trang trí quá sức trau chuốt so với bất kỳ khu mua sắm nào nên có - là đại bản doanh của cái được gọi là niềm yêu thích quốc gia Kroger. Một tấm biển treo bên ngoài quảng cáo cho quán Starbucks bên trong, nhưng còn một quán Starbucks khác nằm trong trung tâm và một quán nằm bên đường, trông thì có vẻ giống một trò hề, nhưng không, đó là sự thật đấy.
Có lẽ tôi nên ăn trưa, nhưng tôi cố gắng không ăn một mình nếu có thể chịu được cơn đói. Điều đó không liên quan gì tới sức khỏe; cho tôi đồ ăn trưa mẹ nấu mang đi thì tôi sẽ xơi tái chúng. Vấn đề là ăn một mình. Sau vài năm cố gắng cân bằng nhu cầu của cơ thể và cảm xúc, tôi vẫn chưa thể làm tốt chuyện này. Đôi khi - hầu hết là vào những ngày tâm trạng tồi tệ, còn gì tệ hơn thế - tôi vẫn tự ăn một mình và chán ghét cuộc đời khi nhận ra Chavi không ở đây, chị không còn ở đây, và điều đó đau lòng tới mức không thể hiểu nổi, bởi vì bất kể thứ gì gây tổn thương nhiều nhường ấy lẽ ra đều khiến máu chảy, lẽ ra đều có thể giải quyết, nhưng điều này thì không. Vậy nên tôi chọn cách nhồi nhét đống bánh Oreo cho tới khi bụng no căng, người ngợm thì chuột rút và nôn thốc nôn tháo để tạo ra một lý do cho cơn đau trong lòng.
Đã một vài tháng kể từ khi tôi đu đưa giữa hai bên lằn ranh mà mình tự vẽ ra rồi sụp đổ trước cửa nhà vệ sinh - và bánh Oreo thì chắc chắn không còn ngon nữa kể từ lần thứ hai tôi dùng cách đó - nhưng tôi vẫn… nhận thức được, tôi đoán là như vậy, rằng sự kiểm soát của tôi đang không đi đúng hướng. Mẹ luôn lo ngại về tình trạng ăn tới nôn mửa của tôi hơn là cân nặng của tôi, nhưng giữa hai chúng tôi - mẹ, với tinh thần thép và tôi, với sự nhẹ nhõm phó mặc vào tinh thần thép của mẹ - luôn có cách ổn định lại mọi việc nên tôi đã không còn bấp bênh, điên loạn giữa những thái cực đáng sợ của da bọc xương và béo tròn trùng trục.
Cân nặng của tôi bây giờ khiến tôi trông giống Chavi hơn bao giờ hết. Vào những ngày tâm trạng tốt, đó chỉ đơn giản là một sự rùng mình, cẩn trọng né tránh mọi tấm ảnh hay tấm gương nào to hơn gương gấp cầm tay một chút. Còn vào những ngày tâm trạng tồi tệ, điều đó chính xác là những mũi kim đang trườn dưới da tôi, còn những ngón tay tôi thì co quắp lục tìm bánh Oreo. Mẹ gọi tôi là một công trình dang dở.
Tôi tiến vào bên trong khu Kroger. Tôi khá chắc rằng vì cái lạnh bên ngoài mà mũi tôi đang đông cứng, nên một món đồ uống nóng chắc chắn không phải là điều tồi tệ nhất. Nếu tôi không ăn gì cho tới khi về nhà, tôi sẽ khó gây rắc rối cho mình hơn.
Nhân viên pha chế là một bà lão nhỏ nhắn như chim sẻ, và chắc hẳn bà đã tám mươi tuổi, mái tóc màu hoa oải hương rực rỡ đổ xuống theo kiểu búi tóc của các cô gái Gibson với đám cặp tăm cố định màu tím. Tấm lưng và đôi vai bà đã gù xuống còn tay thì có dấu hiệu viêm khớp, nhưng đôi mắt bà vẫn sắc sảo và nụ cười hân hoan, còn tôi thì tự hỏi mình rằng liệu bà có thật sự cần công việc này hay chỉ là một trong số những người làm việc bán thời gian sau khi nghỉ hưu bởi ngôi nhà hay ông chồng khiến bà trở nên phát cáu trong một thời gian dài.
“Cô bé tên gì vậy?” Bà hỏi, cầm chai Sharpie trong tay khi với lấy chiếc cốc.
“Jane ạ.”
Bởi mải mê theo dõi mọi người, tên bán thịt priya đã gặp rắc rối.
Một vài phút sau, tôi đã có đồ uống của mình. Có một đống bàn ghế được xếp gọn gàng trong góc cửa hàng tiện lợi, và trên tầng, dàn loa đang phát âm thanh êm ái của nhạc jazz từ đĩa CD, nhưng đó là tất cả, và tất cả bị chôn vùi dưới tạp âm của mọi thứ còn lại trong cửa hàng: những cuộc gọi quang quác từ bộ đàm nội bộ, âm thanh va đập của xe hàng với nào thùng, nào hộp, tiếng trẻ con la hét, những bản pop rock - âm thanh hỗn tạp, khô cứng và khiến cho cả quán cà phê kiêm cửa hàng tiện lợi này có chút gì đó kì dị hơn.
Vậy nên tôi quay ra bên ngoài giá lạnh, một cơn gió ngay lập tức chào đón tôi, và rồi đi bộ về bãi đỗ xe. Tôi đi đến theo con đường vòng phía sau khu trung tâm, nhưng con đường trước mặt lại dẫn tôi thẳng về nhà và có lẽ đã tới lúc tôi làm thế.
Thay vào đó, tôi đông cứng trước hình ảnh của một túp lều nhỏ kỳ lạ. Nó được dựng lên trên một hòn đảo phủ đầy cỏ, một trong vô vàn điểm đỗ xe bị phân tách rải rác, đống sắt được bao quanh cả ba mặt bởi một thứ trông giống tấm vải bạt màu trắng nặng nề. Những chiếc máy sưởi, những cuộn dây lấp lánh màu đỏ tươi, treo lủng lẳng từ những giá đỡ, vừa đủ an toàn trên đầu một nhóm người mà phần lớn là những cụ ông, với những chiếc mũ bóng chày giống hệt nhau màu xanh đậm hoặc đen cùng vành mũ màu vàng, tất cả tạo nên tầng tầng lớp lớp chống lại cái lạnh ập vào từ phần vải bạt bị cuốn lên. Họ ngồi quanh một chiếc bàn đá dành cho người đi dã ngoại, với những bàn cờ và quân cờ rải đầy xung quanh. Lẽ ra điều này chẳng là gì cả, nhưng không, nó thực sự có ý nghĩa, bởi khung cảnh này quen thuộc tới mức làm người ta đau đớn.
Chẳng có gì trông giống với những cụ già tập trung đánh cờ.
Bố và tôi đã từng chơi cờ cùng nhau như thế.
Ông chơi rất tệ và tôi phải giả vờ mình cũng tệ, việc này thậm chí còn khiến ông phiền lòng nhiều hơn tôi, nhưng chúng tôi vẫn chơi với nhau vào mỗi sáng thứ Bảy ở công viên gần nhà hoặc ở nhà thờ bỏ trống gần đó trong suốt những mùa đông dài đằng đẵng ở Boston. Đôi khi ông muốn chơi cả những ngày trong tuần, nhưng có điều gì đó về truyền thống ngày thứ Bảy đặc biệt hấp dẫn tôi.
Ngay cả khi không còn chơi với bố nữa, tôi vẫn tìm kiếm những đám người tụ tập chơi cờ ở khắp nơi chúng tôi từng chuyển tới. Trận nào tôi cũng thua, và ít nhất một nửa trong số đó là do tôi cố tình, nhưng tôi vẫn muốn chơi. Mặc dù mọi điều khác về Bố đã được cất giữ cẩn thận, nhưng vì tôi đã khiến tất cả tin rằng tôi chơi cờ dở tệ, tôi vẫn phải tiếp tục vờ vịt.
Một chiếc ô tô đỗ cạnh đó kêu rít lên khi mở cửa, kéo sự chú ý của tôi ra khỏi những cụ già kia và bàn cờ của họ. Cách đó vài bước, một phụ nữ trẻ, khoảng hơn hai mươi tuổi, đang ngồi bên ghế lái, với những cuộn len đan đặt trong lòng, và mỉm cười với tôi. “Cô có thể tới nói chuyện với họ, cô biết đấy,” cô nói. “Họ không cắn đâu. Ít nhất bởi vì họ không còn răng nữa.”
Tôi không còn quá giỏi trong việc tươi cười nữa - điều đó với tôi còn có chút đáng sợ là đằng khác - nhưng tôi vẫn cố gắng nặn ra một nét mặt thân thiện đúng mức. “Tôi chỉ không muốn tự dưng chen vào. Họ có cho người khác chơi cùng không?”
“Đôi khi. Họ sẽ cho phép, tùy người, nhưng hỏi xin một lần thì cũng chẳng mất gì. Ông tôi cũng đang chơi ở đó.”
Điều này lý giải cho những cuộn len kia. Tạ ơn Chúa - nếu không phải vì thế, khu đỗ xe Madame Defarge có lẽ là vô cùng kì dị.
“Tới hỏi đi,” cô giục, ngón tay cái gần như mất hút trong khi đang móc những vòng len đỏ xung quanh những vòng len hồng. “Điều tệ nhất họ có thể làm là từ chối.”
“Cô khuyến khích tất cả mọi người đang dừng chân nơi này và nhìn họ sao?”
“Chỉ những người trông cô độc thôi.” Cô đóng cửa lại trước khi tôi kịp đáp lời nào.
Sau một vài giây đứng chôn chân như một tên ngốc, cảm giác như một tòa nhà chất đầy nỗi đau trong mọi ngõ ngách con người tôi mà chưa bị đông cứng, tôi bước tới, đi trên bãi cỏ hướng vào căn lều gần như ấm áp. Những cụ già đang chơi cờ đều ngừng lại và nhìn chằm chằm vào tôi.
Hầu hết những người đàn ông này đều đã già, và rõ ràng họ là những cựu binh, tôi biết điều đó dựa vào dấu vết của những cuộc phẫu thuật và dấu hiệu đơn vị trên mũ của họ. Khu dừng chân chơi cờ là địa điểm mà những cựu binh thường lui tới, cho nên mặc dù tôi không thể gọi tên các loại phẫu thuật, tôi vẫn biết đủ để xếp họ vào từng nhóm. Hầu hết những người này đều phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, một vài người trở về từ Hàn Quốc, một vài người từ trận Bão Sa mạc, và có một cụ đã rất già, người quấn đầy khăn khố và chăn và ngồi gần máy sưởi nhất, đội một chiếc mũ với dòng chữ Operation Neptune thêu trên vành, chỉ thêu đã phai thành màu mù tạt rách rưới.
Chết tiệt.
Ông cụ đã tham gia trận đánh trên Biển Normandy trước cả khi ông bà tôi ra đời.
Một trong những cựu binh trong chiến tranh Việt Nam, một người đàn ông luộm thuộm với khuôn mặt như đeo một chiếc túi phình to ra, với chiếc mũi có những mạch máu đã vỡ, khiến tôi nhận ra chơi cờ có lẽ là điều giữ ông tránh uống rượu cả ngày, bỗng buông lời nạt tôi. “Chúng ta không cần tiền ủng hộ, cô gái ạ.”
“Không, cháu không có ý đó. Cháu chỉ đang tự hỏi liệu các ông có cho phép người khác cùng chơi cờ không.”
“Cháu chơi ư?” Nghe có vẻ như ông chẳng tin tôi chút nào.
“Cháu chơi tệ thôi, nhưng vâng. Bất cứ nơi nào cháu chuyển tới, cháu đều tìm một nơi để chơi cờ.”
“Hừm. Ta nghĩ đó là lý do vì sao người trẻ dùng Internet.”
“Không giống nhau đâu ạ.”
Ông cụ già nhất hắng giọng, và những người khác quay lại nhìn cụ. Cộng đồng nào cũng có tôn ti trật tự, cộng đồng cựu chiến binh cũng vậy, và khi trật tự thực sự được thiết lập, những cựu binh trở về từ Thế chiến II rõ ràng luôn là thủ lĩnh. Ông cụ này đã vượt qua cả địa ngục và mang những vết sẹo trên mình lâu hơn bất kỳ ai ở đây. Trật tự này không bao giờ dừng lại hay bị xóa bỏ. “Tới đây nào.”
Tôi đi vòng qua bàn và ngồi ghé vào mép ghế thò ra bên cạnh ông. Ông quan sát tôi - vì điều gì tôi không rõ - và cái mùi ngọt tới mức phát ốm từ hơi thở của ông khiến tôi không ngừng tự hỏi liệu ông có bị tiểu đường không và ông có thấy ổn không khi ngồi ngoài trời trong thời tiết này, với một đống máy sưởi và tầng tầng lớp lớp khăn khố bên cạnh. Da ông mỏng như giấy và nhăn nheo, nước da không đều màu do tuổi tác, mang một mạng lưới gồm những mạch máu xanh mỏng trên hai thái dương và dưới mắt. Một miếng sẹo lượn quanh một bên thái dương, chạy sâu ra tận đằng sau tai. Một trái phá từ trận Normandy? Hoặc một trận chiến khác hoàn toàn?
“Cháu cũng có một cuộc chiến của riêng mình, đúng không, cô gái?”
Tôi nghĩ về điều đó, khiến cho ý nghĩa đằng sau ngôn từ trở nên rõ ràng. Câu hỏi mang bóng hình Chavi, tất cả những sự giận dữ, sầu muộn và tổn thương mà tôi đã mang từ khi chị ra đi. “Vâng,” cuối cùng tôi cũng cất tiếng. “Cháu chỉ không biết bên kia chiến tuyến là ai.” Cuộc chiến nào cũng cần kẻ thù, nhưng tôi không chắc chắn kẻ thù nào có thể ra tay tàn độc hơn chính mình.
“Chúng ta đều có lúc băn khoăn về điều này,” ông đồng tình, đôi mắt nhấp nháy với những ông cụ khác. Tất cả mọi người đều đang nhìn chúng tôi, trừ một người, một người duy nhất đang nghiên cứu bàn cờ của mình với một nét nhăn nhó nhẹ nhàng và bất ngờ nhận ra quân Tướng của ông đang gặp nguy hiểm. “Thế tên cháu là gì?”
“Priya Sravasti. Còn ông?”
“Harold Randolph.”
“Gunny!” Hầu hết những cụ ông còn lại đều ho vào tay họ. Chỉ có một người duy nhất ngưng lại và trông ông không giống một cựu chiến binh chút nào. Ông trẻ hơn, mềm mỏng hơn và có điều gì đó trong mắt ông - hoặc điều gì đó không ở trong mắt ông - nói rằng ông không giống những người ở đây.
Ông Gunny đảo mắt. Ông từ từ tháo chiếc găng len để lộ ra bàn tay bên dưới, đó là một bàn tay đã cụt hết các ngón và nước da vàng vọt đã phai mờ như những con chữ trên chiếc mũ ông đội. Khi ông khẽ đưa tay lên, bàn tay ông run nhẹ - tôi nghĩ đây là chứng bại liệt chứ không chỉ do trời lạnh - và chạm một ngón tay lên đầu mũi tôi. “Cháu có cảm nhận được không?”
Tôi gần như đã cười, nhưng tôi không muốn khiến ông sợ hãi, cũng như khiến tôi ít được chào đón hơn. “Không ạ, thưa ông.”
“Thế thì hôm nay cháu hãy về nhà đi và quay lại bất cứ khi nào cháu muốn. Nhưng chúng ta không chơi nhiều vào cuối tuần, những ngày đó nơi đây thường rất đông.”
“Cháu cảm ơn ông,” Tôi nói. Tự nhiên, tôi hôn lên một bên má ông, cảm nhận được những cọng râu mềm cù trên môi. “Cháu sẽ quay lại ạ.”
Một người đàn ông với chiếc mũi to tổ chảng cười hề hề. “Nhìn kìa, ông Gunny vừa có thêm một cô vợ cũ trong tương lai.”
Đa số những người còn lại đều gật đầu với tôi, cái gật đầu ghi nhận chứ không có vẻ thân thiện cho lắm, nhưng cũng không sao. Tôi phải kiếm được một vị trí ở đây, để họ thấy rằng tôi không nhạt nhẽo và ù lì. Tôi đứng dậy và đi dọc theo mặt sau khu chơi cờ, đắm mình vào những làn hơi ấm trước khi về thẳng nhà và chăm chú quan sát người đàn ông ngồi ở góc xa những bàn cờ, cái người không có vẻ thuộc về nơi đây. Ông không đội mũ lưỡi trai mà chỉ đội một chiếc mũ len bị kéo tuột ra sau để lộ mái tóc sáng màu mà tôi không thể gọi là nâu hay vàng.
Ông nở một nụ cười vô vị với tôi.
“Trông ông rất quen,” đột nhiên tôi buột miệng nói ra.
Nụ cười của ông vẫn không thay đổi. “Ta cũng thấy thế?”
Ôi không. Ông rõ ràng trông chẳng giống ai cả cho nên chắc chắn là ông giống với bất kì ai ở một nét nào đó. Cũng chẳng có lấy một nét nào điển hình ở ông, không một nét nào khiến tôi có thể nhận ra ông giữa đám đông. Ông không đẹp, cũng chẳng xấu, ông chỉ… bình thường. Thậm chí màu mắt ông trông cũng âm u, một sắc độ không phân biệt nổi.
Và ngay cả nụ cười cũng không khiến gương mặt ông thay đổi. Điều đó thật kì lạ. Bình thường khi cười gương mặt người ta sẽ thay đổi, với gò má nghiêng nghiêng, hình dáng khuôn miệng, những nếp nhăn quanh mắt. Nhưng gương mặt ông hoàn toàn không chút gì khác biệt so với trước khi ông cười. Đó không hoàn toàn là vì gương mặt trông rất giả, mà chỉ là, bạn biết đấy, không được tự nhiên. Nhưng thú thực, khu chơi cờ là nơi trú ẩn của những kẻ dị biệt trong xã hội. Có lẽ tôi chỉ nên cảm thấy ấn tượng vì ông đã cố gắng giao tiếp bằng ánh mắt.
Tôi gật đầu với ông, trong lòng vẫn cảm thấy có chút gì đó bất ổn, và rồi tôi thẳng tiến về nhà. Tôi không cảm thấy quá lạnh nhưng cảm giác chỉ như lời cảnh báo “Này tên ngốc hãy vào nhà ngay trước khi bị đông cứng ngoài trời” hơn là dấu hiệu của một ngày ấm lên.
Khi đã ở trong khu nhà mình, tôi dừng lại trước phần mái nhô ra của bức tường đặt những hòm thư của khu phố. Có cả một chiếc thùng rác được xích lại quanh một hòm thư để người ta bỏ thư rác. Mỗi khi tâm trạng trở nên nhạy cảm, tôi thường nhớ hòm thư nhà mình ở Boston, với hình một bàn tay sáng màu được in lên nền sơn vàng đầy tươi vui. Bố không muốn chỉ có hình bàn tay của ông được in lên, vì ông cho rằng thế là không công bằng nên ba người chúng tôi đã tấn công ông bằng chổi sơn và kết thúc là một hình vẽ bộ ria nhiều màu sắc được in trên mặt nắp phía ngoài.
Tôi tự hỏi liệu chúng tôi có còn giữ hộp thư ấy không. Tôi đã không nhìn thấy nó trong một, hai lần chuyển nhà gần nhất. Và đương nhiên, đó là số phận chung cho ít nhất một nửa số đồ đạc của chúng tôi - công việc dỡ ra rồi đóng lại chưa bao giờ đáng để làm.
Tôi lấy ra đầy tay một xấp thông tư và postcard to vật vã đề người nhận là “Những bạn hàng xóm của chúng tôi” hoặc “Gửi cư dân…” và quẳng chúng vào thùng rác, kèm theo là tấm postcard nhắc lịch hẹn khám răng gửi từ Birmingham. Có một tấm thiệp chào mừng được đặt trong bì thư màu xanh đầy tươi vui, một màu sắc của mùa xuân, với chữ viết tay của Mercedes ở mặt trước. Tôi không mấy bất ngờ khi thấy thiệp của cô; thực ra hôm nay tôi bắt đầu học một khóa học trên mạng, với một gia sư ở Pháp để tôi có thể tập tư duy và làm việc bằng một ngôn ngữ khác, Mercedes thì luôn luôn gửi cho tôi một tấm thiệp vào ngày đầu tiên tôi đi học, bất kể một năm có bao nhiêu ngày đầu tiên như thế.
Điều khiến tôi ngạc nhiên là hai bì thư còn lại, gần như giống hệt nhau về kích cỡ. Một tấm được đề chữ in hoa toàn bộ, chữ viết sạch sẽ và dễ đọc mà dường như người viết chẳng cần nhọc công nắn nót, kiểu chữ viết gắn kết với nhau chặt chẽ kể cả khi giấy hay mực bắt đầu phai đi, chữ viết bằng mực đen trên nền giấy hồng rực. Phong thư còn lại màu xanh nhạt, nét chữ nguệch ngoạc nhưng ngăn nắp, và người ta có thể đọc được chỉ với vài cái liếc mắt.
Thiệp của Mercedes luôn luôn đúng lịch, còn của Vic và Eddison thường khác biệt một chút.
Chỉ có tấm thiệp họ sẽ gửi vào tháng Năm là đặc biệt, tấm thiệp mà họ cùng nhau ký tên phía dưới. Tấm thiệp không có lấy một lời chúc, kể cả loại lời chúc in sẵn. Chỉ có chữ ký của họ. Tấm thiệp chỉ với một ý nghĩa duy nhất rằng vụ án mạng của chị tôi vẫn chưa rơi vào quên lãng. Và người gửi thiệp ắt phải lên kế hoạch cẩn thận lắm, cùng với ý thức tuyệt vời từ dịch vụ bưu điện để đảm bảo tấm thiệp đó không tới cùng những tấm thiệp sinh nhật tôi.
Bởi chẳng có gì tệ hại hơn là chúc mừng sinh nhật một người bằng lời nhắc rằng FBI vẫn chưa tìm ra hung thủ giết chị gái bạn cùng một loạt các cô gái khác trong hàng năm trời.
Vào nhà, tôi cởi bỏ lớp áo khoác ngoài cùng và treo trong tủ quần áo đầu tiên, sau đó đi thẳng lên tầng vào phòng, vừa đi vừa cởi nốt những lớp quần áo tiếp theo. Những tấm thiệp nằm vương vãi trên giường, còn đống áo quần ngổn ngang trên chiếc ghế mà tôi đã kéo từ căn phòng ăn bị quên lãng lên phòng mình để chứa những mớ hỗn độn. Nước tắm nóng hổi khiến mũi và những đầu ngón tay tôi bắt đầu có cảm giác trở lại, tôi quay xuống bếp và pha cháo yến mạch đóng gói, thêm một chút quế, mật ong và sữa, sau đó mang lên tầng.
Đó là lần đầu tiên tôi thật sự nằm trên giường trong bộ đồ ngủ, món cháo yến mạch thật sự phát huy tác dụng tuyệt diệu của nó khi làm ấm cơ thể tôi từ bên trong khiến tôi đủ sức với tới đám phong thư ngổn ngang kia.
Tấm thiệp của Mercedes chính xác là những gì tôi mong đợi, một dòng thông điệp “Chào mừng quay lại trường học” được viết bằng bút màu neon, một nửa trong số đó là tiếng Tây Ban Nha bởi khi tôi viết thư cho cô bằng tiếng Pháp cô đã cười ngặt nghẽo. Tôi lấy ra tấm thiệp tiếp theo của Vic, một bức ảnh đen trắng chụp ba con mèo đeo kính râm to vật vã. Thông điệp bên trong cũng không có gì đặc biệt, một vài dòng về những lá thư được gửi từ chị gái lớn nhất của ông trong những năm đại học và về tiết trời mưa gió não nề ở Bắc Virginia. Tấm thiệp của Eddison, với một bức tranh được chia ranh giới cẩn thận giữa kinh dị và hài hước, chẳng có một chữ nào trong đó.
Nhưng tại sao lại là cả ba tấm thiệp cùng tới một lúc?
Sau đó tôi xem lại tấm thiệp của Mercedes, mặt ngoài trang hoàng lấp lánh đủ để khiến một con kỳ lân trông nhố nhăng vô cùng với vẻ mặt tươi vui và tôi nhận ra có một phần lấp lánh không giống những phần còn lại. Những phần nhũ còn lại mịn màng tinh xảo và được phối cùng tông màu pastel. Tuy nhiên ở đâu đó có những vòng xoáy trông như được làm từ nhũ lấp lánh, dày, không đều và khô lại thành những cái chóp nhỏ sáng màu. Tôi trượt móng tay cái bên dưới một trong những vòng xoáy đó, nhẹ nhàng tách nó ra. Tấm giấy rách ở một góc và sau đó lộ dần ra. Một thoáng sau, tôi đã tách ra được một vòng tròn keo thô ráp trên một ngón tay và nhìn thấy một góc rõ ràng của tấm thiệp gốc.
Cô ấy đã che đi hình những chú bướm.
Tên cô là Zoraida Bourret, và đó là ngày Chủ nhật Phục sinh.
Chắc hẳn anh thích tham dự lễ Phục sinh trong những nhà thờ truyền thống, nơi những bé gái và những người phụ nữ vẫn mặc váy trắng đăng ten và đội mũ gắn kim tuyến hoặc hoa lá. Có điều gì đó hết sức hấp dẫn khi được ngồi gần phía sau nhà thờ và ngắm nhìn biển mũ Phục sinh này.
Và năm nay, anh thấy Zoraida.
Đương nhiên, anh đã thấy cô từ trước, đang phụ giúp mẹ chăm sóc bầy em nhỏ. Anh từng nghe những lời đồn đại và những lời đó thực chất chẳng giống lời đồn, cũng chẳng giống tin tức. Bố cô là một quân nhân đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, và mặc đù Zoraida chắc chắn có một suất vào đại học và nhận được nhiều điều tốt đẹp, cô vẫn từ bỏ mọi hoạt động ngoại khóa và có lẽ là cả cơ hội học cao học của mình để ở nhà giúp đỡ mẹ, trong khi thậm chí không ai đòi hỏi cô phải làm thế.
Thật là một cô gái tốt bụng, một phụ nữ nói.
Thật là một đứa con ngoan.
Thật là một người chị tuyệt vời.
Cô trông không hề giống Darla Jean, nhưng có điều gì đó ở cô gợi nhớ cho anh về nàng. Đã gần một năm trôi qua kể từ khi Darla Jean phản bội anh, kể cả như thế thì anh vẫn yêu nàng, nhớ nàng và thương tiếc nàng.
Nhưng Zoraida thực sự là một cô gái tốt bụng. Anh đã theo dõi cô đủ lâu để dám chắc về điều đó. Cô về thẳng nhà sau khi tan học, đón các em trên đường về, giúp chúng giải quyết mọi việc từ ăn uống tới bài tập và các hoạt động, và gần như lúc nào cô cũng hoàn thành bữa tối trước khi mẹ đi làm về. Cô giúp các em nhỏ tắm rửa và cho chúng đi ngủ, tới khi mọi việc xong xuôi cô mới có thời gian ngồi vào bàn và học bài của mình. Cô phải thức khuya để làm xong bài vở và sáng hôm sau vẫn dậy thật sớm, đảm bảo tất cả mọi người đều ăn sáng, thay quần áo xong xuôi và tới trường.
Và khi đám con trai vây quanh tán tình - đương nhiên chúng sẽ vây quanh cô, vì cô xinh đẹp và ơn Chúa, cả thế giới đều sáng bừng lên vì nụ cười của cô - cô lịch sự từ chối họ, bởi với cô gia đình quan trọng hơn rất nhiều.
Bởi cô là một cô gái ngoan.
Khi nghi lễ kết thúc, thật dễ để Zoraida có thể lấy hai chiếc ví nhựa của một cặp chị em trẻ hơn cô để quên trên băng ghế. Cặp sinh đôi này, họ lúc nào cũng để quên ví và chỉ nhớ ra chúng khi đã đi được nửa đường về nhà, và vì họ đi bộ một quãng xa tới nhà thờ để tiết kiệm xăng xe, lúc nào cũng là Zoraida mang ví trả cho họ. Lần nào cô cũng lắc đầu than phiền nhưng vẫn mỉm cười, bởi cô yêu quý cặp sinh đôi này và có thể làm mọi việc vì họ.
Và anh biết anh phải giúp cô.
Vì cô, anh phải đảm bảo rằng cô mãi là cô gái tối bụng, ngây thơ, thuần khiết này.
Cho nên khi biết cặp sinh đôi quên ví, anh đã lấy chúng và đợi đến khi cô quay lại. Nhà thờ hôm nay vắng người nhanh hơn bình thường, mọi người đều đi thẳng về nhà để tham gia cuộc săn trứng Phục sinh hoặc tận hưởng bữa tối với đại gia đình. Anh ngồi dưới bóng râm và chờ đợi, còn cô đang bước tới, tay cầm mũ phe phẩy cho đỡ nóng. Chiếc mũ của cô được phủ đăng ten trắng muốt, vừa cứng vừa cố định, những chiếc ruy băng màu đào được thắt lại quanh vành mũ và đế vương miện. Màu đào của ruy băng và màu trắng tinh của chiếc mũ trông lại thành ra quá mềm so với nước da bánh mật của cô. Một đóa hoa ly tím được cài trên váy cô để trang trí, nhưng lại gần như cao bằng vai.
Anh đi ngay sau cô, bước nhẹ nhàng trên tấm thảm mỏng và dùng tay bịt miệng cô lại. Cô thở hắt ra một cái và bắt đầu hét lên, nhưng cánh tay anh đã kịp đưa lên chặn ngay họng cô. Cô cố gắng thoát ra nhưng anh biết cần giữ chặt cô bao lâu là đủ, và cô đã ngất đi.
Chiếc váy của cô trắng tinh và sạch sẽ. Quá đỗi ngây thơ, thuần khiết. Anh không thể cưỡng lại suy nghĩ sẽ hủy hoại nó.
Cho nên khi một đứa em trai của cô trở lại một lúc sau đó, lo lắng khi không thấy cô trở về nhà sau buổi lễ hôm nay, nó đã tìm thấy cô nằm ngoài trời ngay trước án lễ, những đóa ly trắng được xếp thành vòng thánh ngay trên đầu cô, quần áo của cô đã được gấp lại gọn gàng ngay ngắn và xếp chồng trên một băng ghế, với chiếc mũ được đặt trên đầu và đôi ủng nằm ngay bên cạnh. Vết cắt qua cổ cô là một đường thẳng tắp, bởi vì khi đó cô đã không còn chống cự được nữa.
Không đau đớn, không sợ hãi.
Cô không có cơ hội để ngã xuống như Darla Jean, không phải đối mặt với cơn thịnh nộ và sự phản trắc.
Zoraida sẽ mãi mãi là một cô gái ngoan.
Căn hộ của Eddison không bao giờ là loại có thể được trao giải thưởng ngôi nhà trang trí đẹp nhất. Nó trông chẳng dễ chịu mà cũng chẳng ấm cúng. Nếu có chút gì thẩm mĩ thì có lẽ trông nó hơi giống với một văn phòng. Nơi đây vô cùng ngăn nắp - ngay cả những chồng đĩa trong bồn rửa cũng đã được tráng sạch và xếp gọn, đợi được cho vào máy rửa - nhưng chẳng có lấy một dấu vết cho thấy sự hiện diện cá nhân trong căn hộ này. Toàn bộ tường vẫn giữ nguyên sơn màu vỏ trứng từ trước khi anh chuyển vào. Thật ra anh đã mua thêm rèm cửa sổ, một phần là bởi tấm chắn vẫn để lọt nhiều ánh sáng, một phần là bởi anh không muốn ai có thể nhìn thấy căn hộ của mình qua cửa sổ. Điểm nhấn duy nhất trong căn hộ này là chiếc bàn ăn kỳ quái được phủ đá và sơn màu tươi sáng mà Priya và mẹ cô đã lấy về từ một nhà hàng đồ Mexico đang sập tiệm và tặng cho anh như một trò đùa, còn lại tất cả nội thất trong nhà đều tối màu và có tính ứng dụng cao. Những bộ phim và cuốn sách trú ngụ trong những ngăn tủ ngẫu nhiên cạnh ti-vi.
Nhìn chung Eddison thích cách bài trí này. Mỗi khi trở về sau một nhiệm vụ nơi anh phải điều tra nhà của mọi người, quan sát mọi cách người ta bài trí không gian sống, anh lại cảm thấy biết ơn khi anh có một chốn hoàn toàn trung lập để có thể tập trung vào chính mình. Có lẽ một phần là do chứng bệnh hoang tưởng. Anh không dám chắc anh biết người nào làm trong mấy ngành liên quan đến luật pháp và thực thi công lý này lại không có điểm yếu, đó gần như là một nỗi sợ không thể nói thành lời, rằng một ngày nào đó sẽ có ai theo dõi chính người mà họ yêu thương để báo thù. Nếu anh không có ai để yêu thương, cũng không để lại bất cứ dấu vết gì về những điều mong manh, dễ tổn thương nhất cho người khác nắm bắt, ngay trong chính căn hộ của mình, anh sẽ cảm thấy an toàn hơn.
Anh không mất dấu em gái mình vì đã gia nhập FBI - anh gia nhập FBI vì đã đánh mất em gái mình - nhưng anh không thể chịu đựng nổi suy nghĩ rằng bố mẹ anh, cùng rất nhiều cô, dì, chú, bác và anh chị em họ mà anh vẫn giữ liên lạc cũng đang gặp nguy hiểm.
Thế nhưng hôm nay, sau một ngày dài cắm mặt vào đống giấy tờ tương đương lượng công việc anh phải giải quyết trong cả tuần, anh đã không thể chịu đựng nổi khi nhận ra hóa ra nơi anh sống hoàn toàn vô trùng.
Sau khi cởi bỏ bộ vest đang mặc, anh trở ra và ngồi yên vị trên xô pha với một hộp đồ ăn gói mang về. Vợ và mẹ của Vic không khác gì những vị thánh tốt bụng khi đã nhiều lần dạy anh cách nấu nướng nhưng đến cuối cùng, món anh có thể nấu mà không để lại một đống lộn xộn chỉ là mì ramen và mì ống phô mai hộp xanh. Trái ngược với những lời chế giễu của Ramirez, việc này không do anh là đàn ông, tất cả đều vì anh tự cảm thấy chán nản giữa chừng.
Anh dám chắc chủ nhà sẽ không hài lòng chút nào khi cứ phải sơn đi sơn lại những vết ám khói trên trần bếp.
Những bức ảnh cá nhân, bất cứ thứ gì liên quan đến anh và những người anh yêu thương hay một nơi có kết nối với anh, tất cả đều được gói ghém kỹ càng trong những hộp giày giấu ở một khoang ít ai ngờ tới trong tủ quần áo tại phòng ngủ. Chúng ở đó để anh có thể xem lại khi muốn và khó có ai có thể tìm ra. Một vài tấm hình đủ an toàn để được treo lên và anh thường ngắm nhìn chúng khi có thời gian rảnh thay vì tìm một trò chơi trên ti-vi.
Anh không có chút ý niệm gì rằng mình đã kể cho Priya lý do anh không có ảnh treo trong nhà khi cô và mẹ cô ghé qua đón anh đến bữa tiệc nướng ngoài trời ở nhà Vic trong những ngày tháng họ sống ở D.C. Anh chỉ hơi nhớ rằng hình như mình đã kể chuyện này cho mẹ cô, mặc dù anh không hề kể những lý do thật sự. Thật ra thì Deshani Sravasti là một phụ nữ khá sắc sảo với khả năng tuyệt vời (và có phần đáng sợ nữa) là đọc vị người khác. Bà có lẽ đã nhận ra sự thiếu vắng của những bức ảnh trong căn hộ của anh trước khi anh kịp nói gì và đã đoán trúng phóc lý do cho việc này. Vậy nên có lẽ chính bà đã kể lại cho Priya.
Và đó cũng là lý do mà những cuộc phiêu lưu của Đặc vụ Ken bắt đầu. Eddison không biết Priya lấy con búp bê Ken đó ở đâu - anh đoán là cô xin từ một cô con gái nhà Vic - nhưng cô đã may cho nó một bộ vest với áo khoác gió nhỏ xíu màu xanh navy có thêu dòng chữ FBI to tướng bằng chỉ vàng ở sau lưng. Giờ đây cô và mẹ đi đâu, Đặc vụ Ken cũng đi cùng, và luôn có những tấm ảnh của riêng mình với bối cảnh nổi tiếng hoặc đặc biệt thú vị. Những bức ảnh mà Eddison đã cẩn thận đóng khung được sắp xếp thành hình vòng cung ngay trên ti-vi.
Bức ảnh yêu thích của anh được chụp ở Berlin, trong đó con búp bê gần như bị bẻ cong thành hai nửa, mặt úp xuống một chiếc bàn cạnh một chai bia còn khoảng một phần tư và còn to hơn cả Ken khi nó đứng. Anh có thể nhìn thấy chiếc quần ngố kiểu Đức bé xíu thò ra từ dưới chiếc áo khoác gió. Anh khá chắc rằng Priya là người duy nhất anh biết cảm thấy bình thường khi khiến cho một con búp bê trông có vẻ say xỉn để chụp ảnh ở một địa điểm công cộng. Cô không ký cũng không ghi ngày chụp đằng sau bức ảnh, chỉ viết địa điểm khiến cho bối cảnh càng trở nên mờ ảo. Rất cá nhân trong cảm xúc, nhưng lại rất khó nhận ra nhân dạng.
An toàn.
Điện thoại anh đổ chuông, rung và xoay tròn trên bàn cà phê. Anh thận trọng nhìn nó cho tới khi anh nhớ ra Priya sẽ gọi. “Thế cuộc sống của cô ở thành phố mới thú vị chứ?” Anh hỏi, thay vì chào cô.
“Thú vị là một cách miêu tả hơi quá dành cho nó,” cô đồng tình. “Những trung tâm thương mại là sự pha trộn kỳ quặc nhất của những ý tưởng tuyệt vời và sự cam chịu.”
“Cuối cùng tôi cũng có cơ hội đọc lý lịch của mẹ cô trên tờ Economist số tháng Mười hai,” anh nói. “Đó là một bản thảo ấn tượng.”
“Buổi phỏng vấn ban đầu hơi khó khăn, anh ta cứ liên tục hỏi tôi về Chavi và bố, còn mẹ thì vô cùng khó chịu.”
Khó chịu đối với Deshani Sravasti thường có nghĩa là nạn nhân của bà may mắn trốn thoát khỏi đó mà không tè ra quần. Rõ ràng là tờ Economist đã gửi tới một người rất khó nhằn, và vô cùng kiên định, bất kể phần cuối của cuộc nói chuyện đi về đâu.
“Khi anh ta ít hỏi mấy chuyện cá nhân hơn, buổi phỏng vấn đã trở nên thoải mái hơn,” cô nói. “Mẹ thích nói về việc dập lửa ở những cành khác nhau.”
“Tôi mừng là họ nhận ra đặc điểm đó của bà ấy.” Anh đã giật mình khi vào nhà sách và thấy hình Deshani trên trang bìa tạp chí, với ánh nhìn thẳng và đầy thách thức hiện rõ ngay cả trên ảnh. Trong bài viết còn nhiều ảnh hơn, một tấm được chụp ở văn phòng của bà tại Birmingham, tấm còn lại chụp cùng Priya trên ghế băng dài.
Anh không bất ngờ khi thấy dòng chữ in xác nhận Priya là người chụp những tấm ảnh không có cô trong đó.
Cuộc điện thoại bỗng gián đoạn một chút, ít hơn một giây lưỡng lự, và đó là điều chưa từng xảy ra ở Priya. Đó là cô gái mà chỉ trong vòng mười phút gặp nhau đã ném con gấu bông vào đầu anh và bảo anh đừng có kỳ dị như thế nữa. Họ đã trở thành bạn bè từ đó.
Thường thì anh không thích phải điều tra những gì hiện tượng đó nói về anh.
“Gì thế, Priya?”
“Các anh chị ổn chứ?”
Câu hỏi khiến anh lạnh sống lưng, vì lý do gì đó mà anh không thể gọi tên, và đâm lại chiếc dĩa nhựa vào món mì. “Hả, cả đội ư? Chúng tôi ổn.”
“Ổn ư? Bởi vì tôi nhận được thiệp từ cả ba người vào hôm nay.”
Chết tiệt.
Anh không hề biết Vic có ý định gửi tấm thiệp, nhưng lẽ ra anh nên nhớ Ramirez sẽ gửi một tấm. Nếu chỉ có hai tấm thiệp, liệu chuyện này có ít thu hút sự chú ý hơn không?
Nhưng đó là Priya, và cô là con gái của mẹ cô, và cả hai người đều chưa từng cần đến một gợi ý để có thể đi từ điểm A tới điểm M.
“Anh không cần phải kể cho tôi chuyện gì đang diễn ra đâu. Tôi biết anh có lẽ không muốn, hoặc không thể. Tôi chỉ hơi lo lắng thôi.” Lại thêm những giây phút lưỡng lự, như thể đang thăm dò tảng băng trước khi đặt chân bước tới. “Mercedes đã rắc nhũ lấp lánh lên những con bướm trên tấm thiệp của mình.”
Ôi chết tiệt.
Nhưng thứ Ba tuần trước - cái ngày anh gửi thiệp đi - là một ngày tồi tệ đối với cả ba người bọn họ. Anh lẽ ra không nên ngạc nhiên.
“Thế để tôi nói lại một chút nhé,” cô tiếp lời. “Các anh chị ổn chứ?”
Eddison im lặng một lúc, để cho tất cả lắng sâu xuống tận xương tủy như thể anh sẽ tìm thấy câu trả lời ở đó. Priya không nói gì thêm, không ép buộc, kích thích hay giục giã anh phải đưa ra câu trả lời. Cô khá giỏi chờ đợi.
Những cô Bướm luôn giỏi chờ đợi, một số người giỏi hơn hẳn. Hầu hết những người còn sót lại thì không còn giỏi nữa.
Anh đã không ở Vườn khi họ lôi thi thể các cô gái chết trong những giây phút ngay trước trận nổ lớn hoặc ngay trong lúc diễn ra vụ nổ. Anh đang trên đường quay lại Quantico, giận dữ lao vào những địa điểm đã bị làm trống rỗng bởi những gì anh nhìn thấy.
Khi họ biết chuyện gì đã xảy ra với những cô gái, toàn bộ cơ thể anh đã đầy chật những sự thật rằng vụ án này sẽ không bao giờ kết thúc. Không phải vì nó chưa được giải quyết, cuối cùng nó cũng sẽ được phá mà thôi. Nhưng đây không phải một vụ án phá xong là xong và chuyển qua vụ mới. Thậm chí không phải một vụ để vô cảm nhìn lại khi nhớ về sự nghiệp của ai đó.
Đây là một vụ án có sức phá hủy bạn, tàn nhẫn vùi dập cả phần đời sau đó của bạn bởi bạn không thể tin nổi sao lại có người dám làm điều này?
Và bởi vì Priya đang hỏi, Priya - người biết rõ cảm giác không ổn là như thế nào - hiểu rằng cảm thấy không ổn là hoàn toàn bình thường nên anh phải cân nhắc giới hạn những điều anh được phép và không được phép kể cho cô, sau đó quyết định dù thế nào những sự việc này vẫn sẽ lên mặt báo, nhưng cô không phải là người chia sẻ chúng.
“Một trong những nạn nhân sống sót trong vụ án Vườn Bướm Đêm đã tự vẫn vào tuần trước.”
Phía cô có một tiếng thở khẽ, giống như suy nghĩ hơn là hồi âm.
“Điều đó không quá bất ngờ,” anh tiếp lời. “Không phải một bất ngờ đối với cô gái ấy. Chúng tôi thậm chí còn ngạc nhiên hơn vì cô ấy đã không tự tử sớm hơn.”
“Do gia đ?