THÁNG BA
Nhiệt độ không tăng quá nhiều khi trời dần đỡ lạnh. Đó là một loại thay đổi mà bạn không thực sự nhận ra, bởi lạnh là lạnh cho đến khi nó rơi hẳn xuống trạng thái đóng băng hoặc leo hẳn lên trạng thái man mát, cho nên liệu khoảng nhiệt độ thay đổi có thật sự quan trọng? Nhưng những con số thì khẳng định thời tiết đang ấm dần lên.
Mẹ giấu kín khuôn mặt mình sau lớp áo khoác cổ cao cho tới khi đôi mắt bà hé ra và bà thề rằng những con số báo nhiệt độ đang lừa phỉnh.
Còn tôi đã quen với tiết trời này, bởi vì những lần đi bộ, đi chơi cờ và một vài cuộc khám phá nữa với chiếc máy ảnh của tôi. Tôi vẫn mặc đủ dày để cảm thấy mình như một con búp bê matryoshka nhiều lớp, nhưng thật sự thời gian để đầu mũi tôi tê liệt đã dài hơn. Tôi chui gọn vào vòng tay mẹ, dựa vào mẹ để trao cho bà bất kỳ chút hơi ấm nào tôi có thể san sẻ.
“Hãy nhắc mẹ xem vì sao mẹ lại làm thế này?” Bà hỏi, giọng nghèn nghẹn vì quấn khăn quanh miệng.
“Bởi vì đó là ý tưởng của mẹ ạ?”
“Thế thì thật là ngu ngốc. Con biết rõ hơn, vậy tại sao con không ngăn mẹ lại?”
“Nếu con biết rõ hơn, tại sao con vẫn làm thế hẳn vài lần mỗi tuần?”
“Khá lắm. Chúng ta đều là những kẻ ngốc.” Bà nhảy tại chỗ trong khi chúng tôi đợi đèn tín hiệu sang đường, khiến người tôi cũng đu đưa theo bà. “Mẹ nhớ những thứ màu xanh - tình yêu của Priya.”
“Con đã bảo mẹ trồng một cái cây mà.”
“Nếu nó được làm từ vải hay nhựa, nó có phải cây đâu.” Bà nhìn xuống đôi găng tay nặng nề của mình và thở dài. “Mẹ cần cảm nhận vết bẩn dưới móng tay mình như trước.”
“Chúng ta sẽ mua nhiều hạt giống để trồng ở Pháp.” Tôi dừng lại suy nghĩ hồi lâu… “Sau khi kiểm tra và chắc chắn rằng chúng ta có thể mang theo hạt giống một cách hợp pháp ra nước ngoài.”
“Đó là một điều luật ngu xuẩn.”
“Mẹ à, đó là những sinh vật ngoại lai. Đó thật sự là vấn đề đấy.”
“Hoa trường thọ là vấn đề ư?”
“Hoa trường thọ luôn là vấn đề.”
Chúng tôi dừng ở chỗ mô đất nhô lên như một hòn đảo nhỏ phủ cỏ ngay giữa bãi đỗ xe. Túp lều nơi tôi chơi cờ vẫn ở đó, một phía bị cuốn lên và quất tung ra. Có lẽ người ta làm thế để ngăn lũ nhóc tuổi teen hay đôi mươi hứng tình không có không gian riêng tư ở đây. Những chiếc máy sưởi đã bị mang đi, cả máy phát điện nhỏ để cắm máy sưởi nữa. Đó là một chiều Chủ nhật, và không ai trong số những người cựu binh lưu lại.
“Con ngồi ngoài trời trong thời tiết này á?” Mẹ hỏi với vẻ kinh ngạc. “Con thậm chí còn không thích thay đồ.”
“Pajama cũng là quần áo ạ.”
“Để đi ra ngoài sao?”
“Ồ không, nhưng vấn đề không phải quần áo mà là con người.”
“Ôi cô con gái chống đối xã hội của tôi.”
“Con không chống đối xã hội; con chống đối sự ngu xuẩn.”
“Như nhau cả thôi.”
“Thế mẹ sống thế nào ở môi trường Nhân sự vậy?”
“Mẹ giỏi nói dối.”
Tôi không kể cho mẹ những câu chuyện ở chỗ chơi cờ bởi với sự tận tụy dành cho công việc của mẹ, chính xác là bà không có lấy một chút hứng thú với trò chơi. Tôi vẫn thông báo đầy đủ cho mẹ rằng tôi đi đâu lúc nào, và đó là phần mở rộng của chủ đề trò chuyện này.
Tôi đã kể cho mẹ nghe về Landon, vì ông ta cứ lẽo đẽo theo sau tôi vào Starbucks. Nhưng ít nhất là ông không theo tôi rời khỏi đó, đó là vấn đề. Tôi ngờ rằng mẹ đã kể cho Eddison về Landon, bởi tôi đã nhận được một tin nhắn hỏi rằng liệu xanh dương có thật sự là màu tôi yêu thích không hay tôi có chỉ đơn giản cảm thấy nó là đại diện, điều mà bình thường sẽ rất kỳ lạ, ngoại trừ việc Landon cứ đi theo màu xanh để đảm bảo tôi vẫn thuận tay phải. Tôi bảo anh rằng ánh nắng mặt trời màu vàng, không phải bởi nó vốn dĩ có màu vàng, mà bởi tôi thật sự muốn nhìn thấy anh cố gắng tìm một khẩu súng chích điện màu vàng sáng.
“Mẹ nghĩ là ngực mình sắp đóng băng tới nơi rồi.”
Tôi cười khúc khích, kéo mẹ đi xuống bãi cỏ và hướng thẳng về phía cửa hàng. “Đi nào mẹ. Chúng ta sẽ đi ăn.”
Sau bữa trưa, chúng tôi đi thẳng tới Kroger để lấy một vài thứ. Mẹ đang cân nhắc sẽ mang tới những món quà bất ngờ cho đám nhân viên chuyên bợ đỡ của mình. Chuyện này cũng ổn thôi nếu như nó không cần tới quá nhiều lò nướng, bát trộn, cốc đo lường và hộp thiếc.
Chavi và tôi luôn gần gũi với mẹ. Nhưng luôn có một ranh giới rõ ràng giữa mẹ và bạn bè, và nếu có tình huống nào chúng tôi lại gần ranh giới này, mẹ sẽ luôn quay về với vai trò là mẹ. Nhưng đối với những tình huống khác trong ranh giới, mẹ vẫn luôn là cả hai. Sau khi Chavi đi, hay có lẽ đúng hơn là sau khi bố rời đi, ranh giới này có chút thay đổi. Nó vẫn ở đó, rõ ràng và không thể mặc cả, nhưng dường như có nhiều không gian hơn nơi mẹ giống như một người bạn, một người chị và một kẻ chủ mưu. Tôi không nghĩ Vic tin tôi quá nửa khi tôi thề rằng mẹ chính là lý do lớn nhất khiến tôi gặp rắc rối ở trường. Ông thích nói rằng đó là do ảnh hưởng của mẹ, chứ không phải do bà ấy.
Tôi hiểu rõ hơn. Trong mười lần thì phải có ít nhất bảy lần, theo nghĩa đen, chính mẹ là người đã làm loạn lên ở trường. Tôi thường sẵn lòng để những lời sỉ nhục trôi tuột đi nhưng mẹ thì không, đặc biệt nếu lời lăng mạ đến từ các giáo viên.
Nhưng xét cho cùng, một trong những điều tôi thích nhất ở mẹ đó là…
“Hai quý cô đẹp như nụ cười của con!”
“Một người đàn ông phiền phức tới mức con nên đấm cho anh ta một phát!”
Bà không thỏa hiệp với mấy điều chết tiệt. Không chừa một ai, kể cả bà. Vấn đề không phải vì bà là đồ khốn, mặc dù bà có thể nếu bà nghĩ đó là cách phản ứng đúng đắn, vấn đề nằm ở sự trung thực.
Có lẽ mẹ là lý do lớn nhất khiến tôi có thể nói rằng mình vụn vỡ, cũng là lý do khiến tôi biết điều đó là bình thường.
Chúng tôi nhặt lấy bánh Oreo, đường, phô mai kem, bánh sô cô la, kem đặc và giấy nến, sau đó, khi quyết định rằng mọi thứ đã đủ, chúng tôi mua thêm một cái bát trộn mới mà không cảm thấy ngu ngốc khi không tìm lại cái bát chúng tôi đang có, rồi lại thỏa hiệp nuông chiều mình lần nữa và mua thêm một cái bát đựng bỏng ngô to đùng với những đường thẳng và chấm bi màu sắc được thiết kế bởi ai đó rõ ràng đang phê thuốc. Đó là cái bát xấu xí nhất mà chúng tôi từng mua, tính cả những chiếc bát gốm mà tôi tự làm trong thời gian đi cắm trại.
Việc đó khá hay ho.
Chúng tôi cũng mua thêm sữa, mặc dù chúng tôi sẽ hối hận sớm thôi khi bắt đầu đi bộ về nhà.
Mẹ phàn nàn suốt dọc đường, thêm cả những tiếng rên rỉ khiến tôi không thể ngừng cười rúc rích và biết bao thứ ngớ ngẩn được nói nữa. Tôi nghĩ lần đầu tiên tôi thấy mẹ như thế này là khi tôi lên tám, chúng tôi đang ở trong một nhà hàng và nghe một cô bé hơi lập dị đang than vãn không kiểm soát. Bố đưa ra một vài bình luận rằng bố mẹ của cô bé đó cần quản con mình cho tốt, mẹ thì cứ thế đi vào phố với những lời rên rỉ giả tạo, cho tới khi bố cuối cùng cũng đành bỏ cuộc và gọi một món đồ uống.
Cuộc hôn nhân của họ không phải lúc nào cũng suôn sẻ, nhưng ngay cả khi họ hòa hợp, cách họ hòa hợp vẫn luôn là một bí ẩn.
Hộp thư - bởi cả mẹ và tôi đều không muốn ra ngoài kiểm tra nó hôm qua - đã chứa đầy thư rác, nhưng trong đó có một phong bì lớn đựng giấy tờ gửi từ trường học ở Paris của tôi, cộng với một phong thư bình thường từ Inara. Tôi cất phong thư đó vào túi áo để đọc sau. Tôi không nhắc với mẹ về những lá thư, bởi có lẽ bà sẽ lại kể cho Eddison, điều này sẽ khiến anh cứ thế đâm đầu vào một hướng thất bại.
Khi anh nói rằng có hai cô Bướm sẵn sàng hủy hoại thế giới thay vì để chính mình bị hủy hoại, tôi đã thanh thản chấp nhận rằng Inara là một trong số họ.
“Priya, nhìn kìa.”
Mẹ và tôi đều nhanh chóng dừng lại và nhìn chăm chú về phía trước. Có một bó hoa trường thọ ở đó, gói trong giấy mỏng màu xanh lơ. Bó hoa gồm nhiều loại, một vài đóa thuần màu vàng, những đóa khác có nhụy vàng và cánh hoa trắng xòe ra như một chiếc quạt ở phía sau. Chúng được bó lại với nhau ở phần cuống bằng một đoạn ruy băng trắng được uốn cong, một miếng ruy băng trắng được buộc lỏng lẻo thành nơ nơi bó hoa xòe rộng ra. Trông có vẻ như bó hoa chỉ gồm sáu cành, nhưng lại có vô số đóa hoa nên nhìn khá to.
Đây không phải lần đầu tiên chúng tôi nhận được hoa trước cửa nhà. Sau khi Chavi mất, trước cửa nhà chúng tôi từng có rất nhiều hoa. Mọi người mang tới hoa và đồ ăn. Cứ như thể chúng tôi ăn hết chừng ấy đồ ăn trước khi chúng hỏng. Chúng tôi phải vứt đi hầu hết số hoa nhận được, vì ngay cả khi giữ lại chút xíu thì mùi hương của chúng quá nồng và đối chọi lẫn nhau, khiến chúng tôi khó thở. Thật ra là khó thở hơn. Vì vài tuần đầu sau sự ra đi của Chavi, ai nấy đều khó thở. Bầu không khí ngập hương hoa khiến mọi việc trở nên tệ hại hơn.
Dù sao thì đã gần một năm rồi. Lần cuối cùng chúng tôi bất ngờ nhận được hoa là ở Omaha, ai đó trong công ty mẹ tôi ở Omaha đã biết về sự việc của Chavi. Người đó đã nhanh chóng gửi hoa mà không nói với bất kỳ ai, ít nhất là với tôi hoặc mẹ: nhưng người duy nhất ở đây tôi kể cho nghe về việc của Chavi là Gunny, ông thì không có địa chỉ của tôi. Cho nên tôi không nghĩ người gửi là ông. Trước đó là… ở San Diego. Và cũng là những đóa hoa trường thọ.
“Mẹ, đợi đã.”
Bà ngừng lại trước khi đến gần những bông hoa, đôi lông mày nhướn lên khi tôi lôi điện thoại từ trong túi ra. “Con nghiêm túc đấy à?”
“Nó khiến con buồn cười.”
Bà nhảy lùi lại và hất túi sữa lên, ra hiệu cho tôi tiến về phía trước.
Túi đồ được đặt cẩn thận trên lối đi. Tôi bỏ một bên găng tay ra để có thể chụp vài tấm ảnh trước khi ngồi xổm xuống cạnh bó hoa. Có một tấm thiệp được cột lại giữa những cuống hoa. Gần như là một tấm thiệp; bởi trông nó không hơn gì một miếng bìa trắng nhỏ gần giống hình chữ nhật được cắt ra một cách cẩu thả. Tôi giật tấm thiệp bằng bên tay vẫn đeo găng. Trong thiệp chỉ viết Priya, bằng mực màu xanh dương nhạt. Chữ viết tay trông không quen nhưng khá ăn nhập với tấm thiệp như miếng bìa này và có những vệt lấp lánh mà tôi thường cho là được viết bởi loại bút rẻ tiền, mà bạn có thể mua một tá chỉ với ba xu và đinh ninh rằng bạn sẽ làm mất chứng hoặc chúng bị trộm mất.
Không có thẻ giao hàng. Bình thường, khi cửa tiệm giao hoa, sẽ có một tấm thiệp hoặc thẻ giao hàng với hướng dẫn chăm sóc. Đó là cách chúng tôi nhận diện người gửi ở Omaha.
Tôi chụp thêm vài tấm ảnh trong đó tôi giơ tấm thiệp trước bó hoa, sau đó nhặt bó hoa cùng túi đồ lên. Mẹ có vẻ vẫn bối rối cho tới khi chúng tôi vào bếp và tôi cho bà xem tấm thiệp.
Sau đó gương mặt bà vẫn không hề biến sắc, mọi suy nghĩ được giấu kín cho tới khi bà quyết định nghĩ gì về nó. “Vậy là hắn ta đang ở đây.”
“Có lẽ thế,” tôi lí nhí đáp. “Chúng ta từng nhận được hoa trường thọ rồi.”
“Đúng, ở San Diego,” bà nói, hơi nhướn một bên mày. “Mẹ chắc là con còn nhớ điều gì đã xảy ra ở San Diego.”
Tôi nhìn mẹ với vẻ căng thẳng.
Mẹ chỉ nhún vai. Bà cũng ghim lại những ghi chú cho công việc nhưng kể cả thế, bà cũng chỉ làm khi bị bắt buộc. Bà không chú tâm lắm đến những sự kiện trong cuộc sống cá nhân của mình.
“Chúng ta cũng nhận được hoa ở Boston,” tôi nhắc bà. “Ngay khi Chavi được kết nối với những vụ án khác, chúng ta đã sớm nhận được một đống hoa.”
“Vậy con nghĩ đó là một tên sát nhân kiểu hâm mộ cuồng nhiệt sao?”
“Con nghĩ là chúng ta phải thừa nhận khả năng này.”
Bà nhăn mặt nhìn những đóa hoa khi tôi ném chúng, cả bó, vào bồn rửa. “Chúng ta có kể cho Bộ ba Đặc vụ không?”
“Chúng ta đã có gì để kể cho họ sao?” Tôi trượt ngón cái dọc theo cạnh của chiếc điện thoại, cố gắng nghĩ cách thoát khỏi những lựa chọn này. Giống như khi chơi cờ, bạn không thể chỉ nghĩ về nước đi tiếp theo. Bạn phải nghĩ thêm ba, năm, thậm chí tám nước sau đó, và đặt quân cờ vào bối cảnh của cả trận đấu. “Chúng ta còn chưa biết nó có ý nghĩa gì cơ mà.”
“Có lẽ nào đó là Landon không?”
“Có thể chăng? Con đoán những đóa hoa trường thọ chỉ là sự trùng hợp.”
“Điều này sẽ mở rộng định nghĩa cho những đóa cúc, đúng chứ?”
“Mẹ à, con gái mẹ đã bị một tên giết người hàng loạt sát hại cách nhà chưa đầy một dặm đó.”
“Mẹ hiểu rồi,” bà thở dài. Bà bắt đầu cất những túi đồ tạp hóa và cho mình một cơ hội để suy nghĩ. Mẹ gần như không bao giờ thiếu lời để nói nhưng nếu có cơ hội cân nhắc mọi việc trước, bà sẽ luôn nắm lấy. “Kể cho Eddison đi,” bà lên tiếng khi mọi thứ đều đã được cất đi hoặc sắp xếp cẩn thận cạnh bếp để chúng tôi tiện sử dụng. “Bất kể đó là người theo dõi lén lút hay kẻ sát nhân, FBI cũng sẽ phải tham gia giải quyết. Nếu họ ở đây ngay từ đầu sẽ tốt hơn rất nhiều.”
Tôi dựa vào bà, gối đầu lên vai bà và chờ đợi.
“Nếu đó là hắn ta,” bà nói, “nếu hắn ta tìm ra con một lần nữa… điều đó khiến mọi việc chưa được giải quyết nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.”
“Thế điều gì khiến mẹ nghĩ bây giờ chúng ta đang kiểm soát mọi thứ?”
“Mẹ không nghĩ thế, nhưng nếu đó là hắn ta thì đây là cơ hội của chúng ta. Chúng ta có nhiều khả năng thành công hơn nếu các đặc vụ tham gia. Một phần,” mẹ tự sửa lời. “Mẹ khá chắc rằng họ không nhất thiết phải biết mọi thứ.”
Đó là vì ý tưởng của mẹ về việc giải quyết vụ án này là được nhìn thấy kẻ sát hại Chavi chết dưới chân bà. Ý tưởng của tôi thường là được nghe thấy câu Anh đã bị bắt, theo sau đó là lời trích dẫn luật Miranda (Luật cho phép bị cáo được giữ im lặng).
Thường là như thế.
Một nhận thức chắc chắn về những vụ án khác mà tôi không thể thoát ra được, một phần bởi những câu hỏi mà FBI đã đặt ra cho chúng tôi về Chavi và một phần bởi truyền thông cứ khăng khăng bắt chúng tôi phải biết về chúng. Trong một khoảng thời gian, chúng tôi không còn muốn biết thêm điều gì khác.
Sau đó, sự kiện ở San Diego xảy ra.
Tôi đã cho rằng chúng tôi có thể tiếp tục ngó lơ, nhưng tại thời điểm đó, sự kiện đó không chỉ ngu ngốc mà còn độc hại. Cho nên mẹ và tôi đã nghiên cứu cả những tên giết người khác, tỉ mỉ lọc ra điều gì là đúng từ những lý thuyết được đưa ra bởi những vị thám tử hay người hâm mộ trinh thám suốt ngày ngồi bàn giấy và tưởng tượng.
Không phải chúng tôi đang giấu diếm những gì mình học được từ các đặc vụ, chỉ là hơn thế. Họ luôn quá cẩn trọng trong những câu hỏi để không tiết lộ cho chúng tôi mức độ của những cái chết khác. Chúng tôi có trách nhiệm với cái chết của Chavi, nhưng thật dễ để cảm thấy bạn đang nắm giữ toàn bộ sợi dây kết nối các nạn nhân của một vụ giết người hàng loạt. Bạn cũng dễ cảm thấy tội lỗi sau khi chứng kiến thêm nhiều cái chết khác sau người thân của mình - chúng tôi đã nhận được những tấm thiệp chia buồn từ gia đình Zoraida Bourret, Mandi Perkins và Kiersten Knowles khi tin tức về vụ án của Chavi tràn lan trên truyền thông cả nước. Đó là khi bạn cảm thấy tội lỗi, vô lý nhưng vô cùng mãnh liệt, rằng Vì sao tôi không thể cung cấp thông tin để bắt được hắn ta? Cảm giác đó không phải kiểu Tôi đã làm gì để con gái/chị gái mình bị giết? mà là kiểu Tôi đã làm gì sai đến mức hắn ta vẫn chưa bị bắt?
Cảm giác tội lỗi không nhất thiết phải có lý, nó chỉ cứ thế xuất hiện.
Tôi luôn ghi nhớ tên các nạn nhân khác, nhưng không phải do cảm giác tội lỗi. Điều đó xuất phát từ nỗi buồn, thường thế, và cả sự giận dữ. Những đặc vụ đã cố gắng bảo vệ chúng tôi khỏi phải hứng chịu thêm nhiều vết thương thường có trong các vụ giết người hàng loạt, nhưng việc chúng tôi - những tâm hồn đã vỡ vụn - thường không thể cư xử theo cách mọi người kỳ vọng thì không phải lỗi của họ.
“Thế con định xử lý nó như thế nào?” Mẹ hỏi.
“Việc chúng là loài hoa gì không quan trọng; vấn đề là người gửi chúng biết chúng ta ở đâu.”
“Vậy là bây giờ con đang nói ra sự thật. Một cách mới mẻ để xử lý vấn đề.”
Chỉ có mẹ cân nhắc đến việc chia sẻ một phần thông tin là nói ra sự thật mà thôi.
Tôi gửi đi những tấm ảnh rõ nét nhất, với cả hoa và thiệp rồi nhắn cho Eddison: Chúng được đặt trước cửa khi chúng tôi đi xử lý mấy việc lặt vặt về.
Khi Eddison chưa thể nhắn lại ngay, cả mẹ và tôi đều đi thay đồ và trở lại bếp để bắt đầu ăn bánh Oreo. Khoảng một giờ sau, khi chúng tôi đã yên vị trên ghế và đợi chờ những điều đủ thú vị để tiến hành bước tiếp theo, nhạc chuông tôi dành riêng cho Eddison vang lên. Bad Reputation của Joan Jett, tôi cảm thấy nó rất phù hợp.
“Chào.”
“Đó là hoa trường thọ ư?” Anh hỏi với giọng hổn hển.
Tôi nhìn mẹ, rồi quyết định bật loa ngoài. “Vâng, đó là hoa trường thọ. Nhưng điều đó có quan trọng không?”
“Có lẽ.”
“Anh đang thở hổn hển.”
“Tôi vừa ra ngoài chạy bộ. Có ai từng gửi hoa trường thọ cho hai người chưa?”
Anh đã lấy lại giọng nói của một đặc vụ, cái kiểu cho phép anh đặt câu hỏi trước khi tôi cố gắng giải thích. Không phải lúc nào tôi cũng thích kiểu đó, nhưng tôi hiểu vì sao nó quan trọng.
“Ở San Diego và Boston.”
“Thế hai người có nhận được loài hoa khác ở San Diego không?”
Mẹ và tôi trao đổi một ánh nhìn. “Có. Nhưng tôi không thể nhớ chúng là loài nào.”
Đôi lông mày của mẹ hơi nhướn lên phía tóc mái, nhưng bà cũng không hề phản đối tôi. Tôi chưa từng nói dối Eddison một cách trắng trợn bao giờ và không nghĩ tôi lại thích nói dối.
“Cô từng viết về điều này cho Chavi chưa?”
“Rồi, nhưng tôi phải lục lại đống nhật ký cũ để tìm xem đó là loài hoa gì.”
“Làm ơn, khi nào có cơ hội, hãy tìm lại nhé. À thế chẳng nhẽ không có thiệp gửi hoa hay sao?”
“Chỉ có một tấm thiệp cẩu thả. Tôi đã để nguyên găng tay khi cầm nó,” tôi nói thêm.
“Tôi sẽ cử người từ văn phòng Denver qua lấy bó hoa, phòng trường hợp nào đó xảy ra. Cô vẫn chưa vứt chúng đi đấy chứ?”
“Chưa, chúng vẫn ở trong bồn rửa.”
“Trong bồn có nước không?”
Mẹ phá lên cười. “Làm ơn. Anh cứ làm như chúng tôi có rửa bát không bằng.”
Cuộc nói chuyện dừng trong chốc lát khiến tôi có suy nghĩ rằng Eddison đang cố quyết định xem liệu nên đáp lại câu nói vừa rồi của mẹ không. Cuối cùng anh cũng không trả lời, đó có lẽ là một lựa chọn đúng đắn. “Cô nghĩ mình cần bao lâu để tìm ra đúng cuốn nhật ký?”
“Tôi cũng không biết nữa. Chúng tôi có hàng thùng chứa đầy nhật ký và chúng không hề được sắp xếp theo quy luật nào cả.”
“Có lý do gì đặc biệt không?”
“Chavi và tôi thường đọc lại chúng nhiều lần nên khi để lại thì chúng tôi đã để linh tinh. Có những quyển mà chúng tôi thích giữ lại gần hơn những quyển khác. Bây giờ tôi vẫn giữ thói quen này.”
Chúa ban phước cho trái tim tội nghiệp của anh, tôi nghĩ tôi vừa bóp nát nó, nếu như đoạn im lặng quá dài này được coi là một dấu hiệu. Tôi đã thấy bàn làm việc của anh, của Mercedes và của Vic nữa, mấy thùng nhật ký có thể gần giống mớ hỗn độn mà Mercedes tạo ra. “Cố gắng tìm ra nó thật nhanh nhé,” cuối cùng anh cũng lên tiếng. “Nếu cô có thể gửi danh sách các loài hoa mà cô nhận được trước đây cho đặc vụ tôi cử đến thì thật tốt. Nếu không hãy gửi nó cho tôi sớm nhất có thể.”
“Anh có định nói cho chúng tôi điều đó có nghĩa là gì không?”
“Năm năm trước, cô nói cô không muốn biết về những vụ khác. Bây giờ điều này còn đúng chứ?”
Bàn tay mẹ nắm quanh cổ chân tôi và siết hơi chặt. Tôi cũng không bảo bà bỏ ra.
Tôi không chắc vì sao bây giờ tôi lại hơi lưỡng lự, trừ khi tôi đang lo lắng việc kể cho anh một chút thông tin có thể bị hiểu thành kể cho anh nghe tất cả, và có những việc anh thật sự không cần biết. Có những việc mẹ và tôi cần tự tìm ra, những kế hoạch chúng tôi cần lập và chúng tôi đã nghĩ mình cần thêm thời gian.
Chúng tôi từng kỳ vọng chuyện gì đó xảy ra - có lẽ cả hy vọng nữa - nhưng chúng tôi không hề kỳ vọng chuyện đó xảy ra sớm như thế này sau khi chúng tôi chuyển nhà.
“Để tôi nói chuyện với Vic,” Eddison lên tiếng khi tôi đã im lặng một lúc lâu. “Dù sao ông ấy cũng cần biết về những bước tiến mới. Cô hãy nghĩ về điều đó nhé và nói với tôi bất cứ khi nào cô sẵn sàng. Nếu cô quyết định cô muốn biết, chúng tôi sẽ đến nói chuyện trực tiếp. Nguyên tắc bất di bất dịch.”
“Tôi hiểu rồi,” tôi thì thầm, đóng vai cô gái nhỏ đang run sợ mà tôi nên đóng. Có lẽ là sẽ đóng, nếu tôi tinh ranh hơn chút xíu.
“Ngay sau khi có tên đặc vụ mà họ sẽ cử xuống, tôi sẽ nhắn cho hai người. Hãy yêu cầu họ cho xem thẻ công vụ. Và nhớ tìm cuốn nhật ký nhé.”
“Tôi đã nghĩ đó là một cậu bé ở San Diego,” tôi nói với anh và cảm thấy ghét vì giọng tôi bỗng dưng nhỏ lạ thường. “Tôi từng đi gia sư và cậu bé hơi quý tôi, chúng tôi đã nghĩ rằng cậu ta nửa đáng sợ, nửa ngọt ngào. Cậu ta nói rằng mình không làm chuyện đó, nhưng chúng tôi chẳng thể nghĩ ra ai khác và chuyện đó cũng dừng lại khi chúng tôi chuyển nhà. Chúng tôi không nghĩ nó quan trọng, có kết nối với những vụ khác hoặc…”
“Priya, tôi không hề buộc tội cô vì điều gì cả.” Giọng anh nhẹ đi và dịu dàng theo cái cách mà anh thề là anh không thể. “Cô không lý nào biết rằng nó có thể mang ý nghĩa nào đó. Nhưng tôi rất vui vì cô đã kể cho tôi nghe. Tôi cần gọi cho Vic và văn phòng ở Denver. Tôi sẽ nhắn cho cô tên người đặc vụ, được chứ? Tối nay tôi gọi lại cho cô nhé?”
“Vâng, được ạ.”
Cuộc gọi kết thúc và một lúc sau, tôi với mẹ vẫn cứ ngồi trên ghế, nhìn chăm chăm vào điện thoại. Trên màn hình ti-vi, Leonardo DiCaprio đang chết đuối. Sau đó mẹ lắc đầu, tóc bà rủ những lọn tết hời hợt ôm trọn lấy khuôn mặt bà. “Đã tới lúc quyết định rồi Priya, con yêu. Trong lúc đó, hãy lôi những chiếc thùng xuống và sắp xếp lại đống nhật ký. Họ sẽ cần ngày giao hàng, ít nhất là thế, nếu không họ sẽ chỉ hỏi xin lại bản sao của toàn bộ số nhật ký đó.”
“Mẹ nghĩ con nên làm gì bây giờ?”
Mẹ im lặng một lúc lâu. Sau đó bà đứng dậy khỏi ghế, kéo tôi đứng lên theo rồi ôm tôi thật chặt. Chúng tôi cứ thế lắc lư và thở đều. “Mẹ sẽ không bao giờ đưa ra quyết định hộ con. Con là con gái mẹ, mẹ sẽ luôn luôn lắng nghe và cho con lời khuyên nhưng mẹ không thể bảo con phải làm cái này cái kia. Không thể như vậy. Con có cuộc đời riêng và con phải đưa ra lựa chọn mà con có thể sống với nó.”
“Nhưng con nghĩ chúng ta cần biết chính xác điều đó là gì trước khi đưa ra quyết định. Có quá nhiều thứ mà những đóa hoa này có thể tượng trưng cho.”
“Vậy chúng ta sẽ chờ.” Bà hôn lên má tôi và thì thầm vào tai tôi. “Chúng ta sẽ thu thập mọi thông tin mà chúng ta có thể, sau đó sẽ đưa ra quyết định.”
Có rất nhiều loại người tọc mạch, nhưng việc tôi có vẻ hy vọng đó là một kẻ giết người khiến tôi phiền lòng theo một cách mà tôi thậm chí không thể gọi tên.
Anh có thể cảm thấy ánh mắt Vic đang nhìn chằm chằm vào mình, nặng nề, nghi ngại, suy tư và hơi buồn cười. Bất kể sự việc có tang thương thế nào, Vic dường như luôn thấy bộ dạng đi đi lại lại của Eddison rất khôi hài.
Nhưng Vic chưa từng nhận ra chính ông hoàn toàn bất động khi nhận được một thông tin quan trọng nào đó, hoặc gần như thế. Vic bất động, còn Eddison đi đi lại lại.
Ramirez điên cuồng gõ bút xuống bàn, tiếng gõ như giáng thẳng vào bộ não đang căng thẳng của anh.
Khi tới gần bức tường, anh xoay người khá mạnh, nhìn thấy Ramirez đang rón rén và thận trọng đặt bút xuống bên cạnh tập tài liệu của mình. Sau đó, anh sẽ cảm thấy tồi tệ về những biểu cảm chắc hẳn đang hiện hữu trên mặt anh. Có thể anh sẽ xin lỗi cô. Nhưng bây giờ, anh cảm thấy biết ơn vô cùng vì rốt cuộc âm thanh đó cũng dừng lại.
Họ tập trung ở phòng họp lớn, cùng đợi thông tin từ văn phòng Denver. Eddison vẫn mặc chiếc áo thun đẫm mồ hôi và quần thể thao, còn chiếc áo khoác gió thì anh vắt lên sau ghế. Vic mặc quần jean, hôm nay ông mặc thường phục, nhưng cũng đã kịp thay chiếc áo flannel bị vấy sơn bằng chiếc áo polo sạch sẽ trong vòng vài phút trước khi tới văn phòng. Còn Ramirez…
Chết tiệt, anh thật sự sẽ cảm thấy vô cùng có lỗi với cô, bởi rõ ràng hôm nay cô đã đi hẹn hò, mặc dù khi Vic gọi cô thì đã là giữa chiều. Chắc chắn cô đã uốn tóc, bởi anh có thể thấy những lọn sóng tóc tự nhiên tương phản với những lọn tóc được xoắn gọn gàng, cô đang mặc một chiếc váy và đi đôi giày gót nhọn mà cô không bao giờ diện tới công sở kể cả khi cô chỉ loanh quanh với công việc giấy tờ và nghe điện thoại mỗi ngày. Thế nhưng cô chưa hề lên tiếng phàn nàn, cũng chưa từng nhắc một lời đến việc cô phải bỏ rơi bạn trai mình giữa buổi hẹn chỉ vì phản ứng thái quá của Eddison.
Làm ơn hãy để anh phản ứng thái quá.
Bảng điều khiển điện thoại ở giữa bàn kêu ré lên và Vic nhoài người ra để ấn vào nút loa ngoài. “Văn phòng Hanoverian xin nghe.”
“Vic, tôi là Finney đây. Họ đều ổn. Chỉ dao động một chút, có thể họ hơi say nếu tôi đoán đúng, nhưng nhìn chung vẫn ổn.”
Cả ba người cùng thở hắt ra. Đương nhiên họ vẫn ổn. Đó chưa hẳn là một mối đe dọa, chỉ là một khả năng.
Cũng chẳng có gì ngạc nhiên rằng sau khi có thời gian để nghĩ về sự kiện đó, một hoặc cả hai người phụ nữ nhà Sravasti này có khả năng say rượu thật.
“Thế trông tấm thiệp như thế nào?” Vic hỏi sau một thoáng. Ông quen biết Finney, thật ra họ đã từng là cộng sự. Eddison không hề nhận ra điều đó, nhưng ngay sau khi những người phụ nữ nhà Sravasti biết họ sẽ chuyển nhà tới Huntington, Vic đã tóm tắt cho Takashi Finnegan về vụ án, để có ai đó đủ gần khi họ cần giúp đỡ trong trường hợp mọi việc tồi tệ hơn.
Nhưng rõ ràng là không ai trong số họ mong muốn mọi việc trở nên tồi tệ.
“Tấm thiệp được in rõ ràng. Giống như mặt bên ngoài của giấy ăn,” đặc vụ kia báo cáo. “Bây giờ chúng tôi đang gửi nó tới phòng thí nghiệm, họ sẽ mở nó ra và kiểm tra thêm. Thật không may, những đóa hoa có thể đến từ bất cứ nơi nào: tiệm hoa, tiệm tạp hóa, nhà vườn tư nhân, một thành phố khác, anh biết đấy. Hãy kiểm tra email vì tôi đã gửi anh một bức ảnh chụp những cuốn nhật ký của cô gái ấy.”
Ramirez nhoài người để quay chiếc laptop của cô về phía Vic cho ông đăng nhập. Eddison chạy vòng qua bàn để dựa vào. “Chết tiệt, cô ấy không hề nói đùa,” anh lẩm bẩm khi vừa thấy bức ảnh hiện lên.
Anh chắc chắn trong đời mình anh chưa từng thấy nhiều chồng sách tập trung lại một chỗ như thế bao giờ.
“Đó mới chỉ là của cô em thôi đấy,” Finney nói, thậm chí Vic còn hơi nghẹn vì choáng ngợp trước đống sổ. “Còn chồng sổ của cô chị đã được họ xếp gọn gàng bên cạnh.”
“Thế là anh cũng không có danh mục các loại hoa khác mà cô ấy đã nhận được,” Vic đoán.
“Không, nhưng cô ấy đang sắp xếp lại đống nhật ký theo thứ tự. Tôi cũng không chắc họ làm thế nào. Các cuốn nhật ký trông có vẻ khác nhau và tôi không thấy có nhãn dán nào. Cũng chẳng có ngày tháng, ngoại trừ ngày đầu tiên của mỗi năm.”
“Không phải mỗi cuốn sao?”
“Mỗi năm.”
“Chúng ta có thể lắp camera trước cửa chính nhà họ không?” Ramirez hỏi. Những ngón tay của cô chạm vào chiếc bút, nhưng sau đó cô quay sang nhìn Eddison và đặt tay lên laptop.
“Bà Sravasti sẽ thử yêu cầu xem sao. Vì căn nhà họ đang ở thuộc sở hữu của công ty và bà ấy chỉ được ở tạm thời thôi nên cần xin phép để sửa sang bất cứ cái gì. Nhân tiện, nhà họ đã có sẵn hệ thống báo động cửa sổ và cửa ra vào, họ đang bắt đầu sử dụng nó.”
“Bắt đầu ư?” Vic nhắc lại với một cái cau mày.
“Đó là một vùng có tỉ lệ tội phạm thấp; người dân hầu như đều cảm thấy chỉ cần khóa cửa là đủ an toàn. Một trong những đặc vụ của tôi tới từ Huntington; tôi sẽ bảo anh ta liên hệ với nhà Sravasti và dõi theo họ. Nếu họ đồng ý sử dụng camera, anh ta có thể giúp lắp đặt.”
Vic hắng giọng. “Hãy cẩn thận với cách anh đưa ra lời đề nghị cho Deshani.”
“Thật ra tôi đã nói với họ rồi,” Finney cười khúc khích. “Archer đã làm việc như một chi nhánh trong suốt thời đại học; anh ấy có thể lắp đặt mọi thứ trước khi hầu hết mọi người kịp đọc xong phần hướng dẫn. Chính anh kể với tôi rằng nhà Sravasti đã trải qua một giai đoạn khó khăn vô cùng và giờ vẫn đứng vững. Tôi sẽ không cho rằng khả năng chống chọi của họ là thấp đâu.” Qua điện thoại, những đặc vụ Quantico có thể nghe rõ tiếng gõ phím và tiếng báo hiệu thêm email trên máy tính. “Lần sau tới chơi cờ, Priya sẽ cố gắng chụp ảnh người đàn ông đã bám theo cô. Chúng tôi sẽ xử lý ngay khi cô ấy gửi cho chúng tôi bức ảnh. Hy vọng chúng tôi sẽ tra được họ và một chút lai lịch của ông ta.”
“Để xem liệu ông ta có từng ở đâu đó gần San Diego không à?” Vic hỏi một cách vô cảm, và Finney vừa thở vừa cười.
“Chính xác. Những phụ nữ này có cái đầu lạnh; tôi thật sự cảm thấy ấn tượng đấy.”
Vic cười và lắc đầu. “Họ sẽ không gây sự nhưng họ sẽ chơi đến cùng nếu chúng còn tiếp tục gây sự với họ.”
“Deshani có lẽ sẽ gây sự trước đấy,” Eddison và Ramirez đồng thanh sửa lại.
Sự tức giận của người đồng nghiệp đã bị dập tắt bởi một tràng cười nữa từ loa. “Anh biết đấy, tôi có ấn tượng như thế. Một phụ nữ đáng sợ, và bà ấy biết điều đó.”
Eddison đưa tay xoa xoa mặt, cuối cùng anh thả mình xuống một chiếc ghế. Da anh ngứa ngáy, mồ hôi sau khi chạy khô lại thành muối và đọng thành những vệt bẩn.
“Còn một điều nữa mà anh cần chú ý,” Finney nói một cách nghiêm túc.
Vic càu nhàu: “Đằng sau câu nói này chắc chắn chẳng phải điều gì tốt.”
“Đương nhiên là không; đó là lý do mà tôi phải cảnh báo trước.” Đầu dây bên kia truyền đến tiếng lục cục và âm thanh giấy tờ đang bị xáo trộn.
“Vào thẳng vấn đề đi, Finney.”
“Tôi có thể nhập cuộc ngay lập tức vì hôm nay là Chủ nhật và tôi không phải hỏi xin phép ai cả, nhưng có thể tôi sẽ gặp rắc rối lớn vì chuyện này, và chúng ta sẽ có một vài chướng ngại đấy.”
“Tại sao?”
“Tôi đã kể chuyện vài tháng trước chúng tôi có sếp mới chưa?”
“Đó là…”
“Martha Ward.”
“Chết tiệt.”
Cả Eddison và Ramirez đều nhìn chằm chằm vào sếp của mình. Rất hiếm khi họ thấy Vic chửi thề, thậm chí trong lúc làm việc; ông hầu như không chửi thề từ khi những cô con gái của ông đủ lớn để không nhắc lại những từ ngữ thú vị đó một cách ngây thơ.
“Thôi được,” Vic thở dài. “Tôi sẽ nói chuyện với sếp của anh, để xem liệu chúng tôi có thể tác động gì tới việc này không.”
“Anh nghĩ việc này có ích gì không?”
Vic hơi do dự.
“Tôi sẽ cập nhật tình hình cho anh,” Finney nói. “Chúc may mắn nhé.”
Cuộc gọi kết thúc, sau đó ba người bọn họ cứ ngồi như vậy trong sự im lặng lạ lùng. Cuối cùng, Raimrez nhặt cây bút của mình lên và làm động tác gì đó phức tạp tới nỗi mái tóc của cô được quấn chặt lại và ghim gọn gàng ra sau gáy, chiếc nắp bút thì chồi ra như một chi tiết trang trí. “Martha Ward?” Cô thận trọng hỏi lại.
Vic gật đầu xác nhận.
“Thế… tại sao cô ta lại là một chướng ngại? Ý tôi là, tiếng tăm của cô ta cho thấy cô ta khá giống một nhân vật phản diện.”
“Một kẻ khó ưa thì đúng hơn,” Vic sửa lại. “Martha Ward chính xác là một kẻ khó ưa, cô ta luôn coi việc thu thập thông tin về người khác thiêng liêng như một thứ tôn giáo và luôn chối từ mọi sự khác biệt. Đối với cô ta, khuôn mẫu là tối thượng.”
Eddison chính là người kết nối các dữ kiện lại với nhau, giờ đây anh đang lẩm bẩm chửi thề cho tới khi Ramirez ném chiếc bút dạ vào người anh. “Kẻ sát nhân mà chúng ta đang theo đuổi chưa từng gửi hoa cho cô gái nào trước khi hắn ra tay; vì thế việc Priya nhận được hoa là một điều khác biệt so với khuôn mẫu. Ward sẽ không dễ bị thuyết phục rằng việc đó là do kẻ sát nhân làm.”
Vic lại gật đầu, tỏ rõ vẻ lo lắng. “Mười bốn năm trước, Finney và tôi đang theo đuổi vụ án về những đứa trẻ mất tích ở Minnesota. Chúng ở các độ tuổi khác nhau, có cả nam và nữ, nhưng đều có điểm chung là tóc nâu, mắt nâu và da trắng. Chỉ có ba đứa trẻ được tìm thấy.”
“Trong tình trạng tử vong?”
“Được quấn trong nhựa cứng, sau đó là những lớp chăn, và chôn một nửa. Chúng đều được đặt nằm nghiêng, giống như đang ngủ, với thú bông trong lòng.”
“Ông cảm thấy tội lỗi ư?” Ramirez hỏi.
“Đó chính là những gì chúng tôi cảm thấy. Giả thuyết đầu tiên của chúng tôi, bởi tất cả những đứa trẻ mất tích trông giống nhau và hiển nhiên đều bị bắt trong một thời gian, kẻ bắt cóc mà chúng tôi truy lùng đang cố gắng tạo ra một gia đình. Hồ sơ thu thập được cho thấy số lượng bé gái bị bắt cóc nhiều hơn, nhưng chưa đủ để khẳng định điều gì.”
“Khi ấy Ward khăng khăng dựa vào sự phân biệt về giới tính ư?”
“Không hẳn, khi ấy cô ta đang theo một vụ khác trong cùng khu vực. Những quý cô tầm ba mươi tuổi liên tục mất tích, mỗi người một thời điểm, và được tìm thấy trong tình trạng tử vong, được chôn trong hoặc gần những công trình xây dựng.”
“Hai vụ trên có liên quan đến nhau, đúng chứ? Chúng ắt hẳn phải có liên quan.”
Sau tất cả những gì đã xảy đến trong đời, Ramirez vẫn là một người lạc quan. Eddison thì không. “Ward sẽ không bao giờ điều tra khả năng này,” anh đoán, khá tự tin về phán đoán của mình. “Và các anh đã phải ‘tiền trảm hậu tấu’ à?”
“Chúng tôi không có lựa chọn nào khác,” Vic lại buông mình xuống chiếc ghế êm ái, cau mày hồi tưởng. “Cô ta cứ khăng khăng rằng hai vụ án này không có mối liên hệ nào với nhau. Đối tượng của chúng tôi chắc chắn là phụ nữ, còn đối tượng cô ta cần truy lùng chắc chắn là đàn ông; vì nạn nhân trong vụ của chúng tôi là trẻ con, còn vụ của cô ta là phụ nữ trưởng thành và vì sự khác biệt hoàn toàn trong nguyên nhân tử vong cùng những bằng chứng khám nghiệm tử thi.”
“Những đứa trẻ bị giết là ngẫu nhiên, nhưng hắn ta đang thử nghiệm trên những người phụ nữ, đúng không? Hắn đang cố gắng tìm ra người mẹ hoàn hảo cho gia đình hoàn hảo của mình.” Ramirez thở dài sau cái gật đầu xác nhận của Vic. “Vậy nên cách tốt nhất để tìm ra tên sát nhân là điều tra những điểm chung từ cả hai vụ.”
“Trong khi chúng tôi tranh cãi với Ward về hướng điều tra, đã có thêm một phụ nữ được phát hiện tử vong, một người khác trình báo mất tích. Hai đứa trẻ đã bị bắt cóc, một đứa trẻ khác đã được tìm thấy. Finney và tôi phải đệ trình vượt cấp và nhận được sự chấp thuận của cấp trên để tham gia vào vụ của Ward rồi phá giải được nó. Điều mà chúng tôi không ngờ tới là sếp của sếp chúng tôi lại thân thiết với Ward. Khi cô ta được chuyển sang làm các nhiệm vụ trong văn phòng và tạm ngưng điều tra, anh ta đã thăng chức cho cô ả. Finney sau đó bị chuyển về Denver; ba ngày sau đó, Eddison tốt nghiệp học viện với quân hàm trên vai và tên tôi trong đống giấy tờ của cậu ấy.”
Eddison không cho phép Vic thỏa mãn khi thấy mặt mình đỏ lên vì ngượng. “Thế ý ông là tôi chính là hình phạt?”
“Không hề; cậu đã được phân công về với chúng tôi từ trước. Việc Finney bị thuyên chuyển mới là hình phạt. Ward, nhờ sự khôn khéo về chính trị cùng những mối quan hệ của mình, mà liên tục được thăng chức, nhưng nếu cô ta có thể biến cuộc sống của chúng ta thành địa ngục, cô ta sẽ làm ngay. Thật xui cho Finney khi cô ta lại quản lý trực tiếp khu vực anh ấy công tác.”
“Thế nên cô ta sẽ trừng phạt Priya vì đã gây khó khăn cho cô ta à?”
“Đúng ra thì cô ta sẽ chẳng mảy may quan tâm tới Priya; Ward luôn rộng lượng với những kẻ yếu đuối.”
Ramirez nghiêng đầu. “Ward đối đầu với Deshani: ai sẽ chiến thắng đây?”
Vic nháy mắt, nghĩ về giả thiết này, sau đó nhún vai.
Eddison không muốn thấy bất cứ điều gì khiến Victor Hanoverian phải khúm núm như thế này.
Chồng tài liệu nhiều màu ở trên bàn cạnh máy tính của Ramirez đã sẵn sàng để được nghiên cứu theo một hướng mới. Bên cạnh nó, một tập chứa còn trống đang nằm đợi. Sớm thôi, sẽ có một cái tên được dán lên đó, có lẽ Vic sẽ là người viết, bởi Ramirez quá đỗi xinh đẹp để làm cái việc đau lòng này và Eddison cần thời gian để giải mã.
PRIYA SRAVASTI.
Anh tự hỏi liệu có phải ngẫu nhiên mà tệp tài liệu kia lại có màu xanh hay không.
Không tệp nào trong đống tài liệu kia có màu đỏ, riêng tập tài liệu của Chavi màu vàng tươi, điều đó khiến anh nghĩ về súng trường Taser và không biết liệu Priya có đang trêu đùa anh về màu sắc không. Anh ấn mạnh hõm tay lên mắt như thể áp lực đó có thể dừng mọi suy nghĩ của anh. Thậm chí chỉ trong một nhịp thở thôi cũng tốt rồi, bởi anh đã chạy xong cách đây vài giờ mà vẫn còn cảm thấy hổn hển.
Khi bỏ tay ra và ngước lên, anh thấy Vic đang chăm chú nhìn mình. “Chúng ta sẽ đảm bảo lịch làm việc của anh được linh hoạt.”
“Làm sao tôi có thể thông báo với cô ấy rằng những người chịu trách nhiệm bảo vệ cô ấy đang bị ngăn cản bởi những yếu tố chính trị?”
“Cứ nói như thế đi, tôi đoán vậy.”
“Cô ấy sẽ điên lên mất.”
“Tốt. Nếu cô ấy và Deshani đủ tức giận, có lẽ họ sẽ đẩy vụ án cho sếp của Ward.”
Anh vẫn còn nhớ lần đầu tiên gặp Priya, cảm giác nhẹ nhõm trước cơn thịnh nộ của cô, điều đó có nghĩa là cô ấy gần như đã khóc, bởi anh không thể chịu nổi việc làm cho các cô gái phải khóc trong lần đầu tiên gặp nhau nếu người đó không phải Faith. Nhưng đã năm năm kể từ ngày đầu họ gặp nhau và trong khi cô Priya bừng bừng tức giận đang tập trung nhìn mọi việc một cách vui vẻ, anh không hề muốn cơn thịnh nộ ấy lại bùng lên. Đặc biệt không phải khi anh đã biết sẽ phải đánh đổi điều gì khi cô chuyển từ cáu kỉnh (trạng thái vốn có) sang thịnh nộ (mệt mỏi đến kiệt sức). Không phải khi anh biết cô sẽ rơi vào trạng thái tồi tệ như thế nào vì nỗi tức giận kia và điều đó có thể khiến cô yếu đuối ra sao trong một thời gian dài đến đâu.
Anh đã hứa với cô rằng anh sẽ không bao giờ nói dối, thậm chí ngay cả khi để cô cảm thấy tốt hơn, và cô đã nói rằng cô không hề muốn biết bất cứ điều gì liên quan tới những cô gái khác trong vụ này, nhưng đâu đó giữa hai khía cạnh, việc tôn trọng yêu cầu này bắt đầu trở nên giống một lời nói dối. Hai năm trước, lời hứa này đã bắt đầu giống một lời nói dối nhưng anh vẫn giữ im lặng, bởi cô không muốn biết và anh không muốn dọa cô sợ, nhưng không phải là khi nỗi tức giận cuối cùng cũng dần dần phai nhạt.
Đôi giày lười méo mó của Vic khiến cổ chân ông đau nhói. “Cô ấy sẽ ổn thôi. Cô ấy luôn vượt qua được mọi chuyện.”
Nhưng anh biết rõ hơn Vic điều mà Priya luôn phải đấu tranh khi cô cố gắng khiến cho mọi chuyện trở nên có lý, khi cô cố gắng đóng khung vụ án của chị mình trong một bức tranh toàn cảnh hơn. Bởi Vic đã có rất nhiều điều phải lo lắng, và Eddison chưa có đủ chuyện để bận tâm nên anh giữ bí mật này cho Priya và Deshani, cũng chưa từng đề cập tới những món ăn khiến chị cô đổ mồ hôi và nôn khắp sàn nhà tắm bởi dù sao chị cô cũng mất rồi - sẽ không có cách nào lý giải nổi điều này.
Khi Faith bị bắt đi, anh bắt đầu hút thuốc, không phải bất chấp những cảnh báo sức khỏe nói chung mà vì chính chúng, vì anh biết thuốc lá sẽ khiến anh chết dần và khi anh chết đi, ít nhất sẽ có một lý do hợp lý. Anh không hề có ý định bỏ thuốc cho tới vài năm trở lại đây, sau khi Vic nhận anh vào đội, và anh vẫn còn hút cho tới khi Priya nhăn mũi bảo rằng anh có mùi tệ hơn cả tủ đựng đồ của lũ con trai ở trường cô.
Đâu đó trong khi cố gặng hỏi sao cô lại biết được tủ đựng đồ của hội con trai có mùi như thế nào, anh đã quên tìm kiếm một điếu thuốc. Đôi khi nó vẫn ở đó, cử chỉ, nhu cầu, đôi khi thậm chí là cả những điếu thuốc, nhưng không còn giống như trước đây. Có lẽ là vì Priya. Đúng hơn là vì mỗi lần anh thấy sự thôi thúc đó ở một người khác, việc hút thuốc không còn mang lại cảm giác thoải mái nữa. Nói tóm lại, vẫn là vì Priya.
Lần này tới lượt Ramirez đá cho anh một cái - nhẹ nhàng thôi, bởi phần mũi nhọn hoắt của đôi cao gót lênh khênh mà cô đang mang sẽ khiến anh đau chết đi sống lại nếu cô đá mạnh - và gật đầu với anh. Chiếc bút được rút ra, nhưng tóc cô vẫn nằm gọn thành búi trên đầu. “Bất kể họ có suy sụp bao nhiêu lần, họ vẫn luôn vực nhau dậy. Deshani vẫn luôn ở đó để nhặt từng mảnh vỡ nếu bà ấy có tan nát cõi lòng.”
Đó có phải điều Vic đã từng nói với anh hồi tháng Mười một? Có người sẽ chấp nhận để mình suy sụp mãi, có người sẽ mạnh mẽ vực dậy và phô ra những khía cạnh gai góc nhất?
Anh đang muốn nói tới Inara, nhưng dù sao đó cũng là một biểu hiện tốt.
Hít một hơi thật sâu, anh lấy điện thoại ra khỏi túi áo khoác gió và mở tin nhắn của cô. Không còn bánh Oreo? Anh muốn thử chứ?
Chưa đầy một phút sau, anh nhắn lại: Chúng tôi đã nghiền nát hết chỗ bánh Oreo để trồng nấm. Như thế là tệ hay là tốt? Và tôi sẽ thử.
Anh chẳng hề ngạc nhiên khi điện thoại mình rung lên trong chưa đầy một phút, lần này là số của Deshani. Tôi sẽ để mắt đến con bé, trong phòng nó thậm chí còn không có bim bim nên tôi có thể nghe thấy tiếng con bé gãi ngứa ngay từ cầu thang.
Chắc chắn bà có thể, bởi có lẽ bà sẽ ngồi ngay trên sàn phòng ngủ của con gái mình, tựa lưng vào cửa và lắng nghe cả đêm từng tiếng kẽo kẹt của cầu thang hay tiếng loạt xoạt của tấm thảm. Deshani có lẽ là hình mẫu bà mẹ bao bọc con quá mức mà Chúa tạo ra.
“Ở Colorado, pháp luật không cho phép người dưới mười tám tuổi tàng trữ và sử dụng súng điện,” ông nói, và cả hai đồng nghiệp của ông đều quay sang nhìn với vẻ nghi ngại xuất phát từ niềm tin sụp đổ. “Cô ấy đã có lọ xịt hơi cay, chúng ta còn có thể cho cô ấy điều gì nữa?”
“Một cây gậy bóng chày?” Ramirez gợi ý.
Vic day day sống mũi và chậm rãi lắc đầu.
Tên nàng là Libba Laughran và lần đầu tiên anh nhìn thấy nàng, chiếc đầm dạ hội nhiều tầng của nàng được nâng lên vừa đủ để thấy rõ tấm vai của chàng trai và gương mặt kẹp giữa hai đùi nàng. Nàng đang ngồi trên nóc một chiếc ô tô, một tay nâng váy lên, tay kia luồn vào tóc của anh chàng, những tiếng rên từ trong cổ họng lấp đầy đêm đen như thể họ đang ở chốn không người, như thể không ai có thể nghe thấy và tới xem.
Chiếc váy của nàng sáng bừng và hồng rực trong đêm tối, nhưng trên cổ tay đang luồn vào tóc anh chàng, anh có thể thấy một chùm hoa cưới với một bông cẩm chướng trắng, rìa cánh hoa đỏ rực như thể vừa nhuộm máu.
Anh thấy nàng nắm tay anh chàng kia trong nhà thờ, cơ thể họ cách nhau một khoảng hợp lý nhưng bàn tay họ luôn hướng về nhau mỗi khi họ bước ra xa. Anh có thể thấy họ tại rạp phim, trên đường đi học và trên đường về.
Họ đang làm tình trên võng ở sân sau nhà nàng và cười lớn mỗi lần họ suýt rơi khỏi võng.
Họ yêu nhau, anh nghĩ vậy, ít nhất là yêu nhiều tới mức họ hiểu được tình yêu khi họ đang còn quả trẻ. Họ thì thầm cho nhau nghe, trong điện thoại cũng như những cuộc trò chuyện. Cả hai thậm chỉ còn không để ý đến ai khác.
Điều đó cũng tốt thôi nhưng có lẽ sẽ không thể bảo vệ nàng. Những cô gái ngoan không làm thế, bất kể họ có đang yêu say đắm tới mức nào. Hành động ấy là bất kính, là sai trái. Nàng còn quả trẻ nên cũng dễ hiểu cho hành động ngu dại kia, nhưng anh không thể cứ để yên cho mọi việc trôi qua không dấu vết. Anh không thể để bạn bè nàng nghĩ rằng hành động đó là tha thứ được, chấp nhận được.
Không cần đợi đến lúc bọn họ bị bắt tại trận - mẹ nàng về nhà sớm hơn dự tính vài giờ và họ vẫn còn trần trụi quấn lấy nhau trong sân sau - để biết nàng còn trẻ như thế nào.
Mới mười bốn tuổi, nhưng nàng đã như một cô gái điếm.
Mẹ nàng khóc lóc om sòm trong khi đuổi theo cậu trai bạn thân trần truồng qua sân nhà và ra khỏi nhà họ, mặc kệ con gái bà đang khóc lóc sau lưng bà. Anh dựa vào phía bên kia hàng rào và lắng nghe hết bài giảng của người mẹ, bao gồm tất cả các cách dạy con mà bà và chồng bà dạy dỗ con gái để tốt hơn bây giờ.
Anh chẳng ngạc nhiên khi thấy Libba chuồn khỏi nhà vào ban đêm để đi tìm chàng trai mà cô yêu.
Anh chẳng ngạc nhiên khi nàng chống cự mình, bởi rõ ràng nàng là kiểu con gái sẽ theo đuổi những gì nàng muốn, và nàng yêu chàng trai đó, nàng muốn được sống.
Nhưng anh không thể để chuyện đó xảy ra.
Cậu trai kia có thể đối xử dịu dàng với nàng, nhưng nàng còn quả trẻ để biết cánh đàn ông sẽ làm gì nên anh phải dạy cho nàng biết.
Anh phải cho nàng thấy nàng có ý nghĩa gì đối với cánh đàn ông khi nàng không còn là một cô gái ngoan. Và đó là điều mà nàng có thể lấy lại.
Anh bắt đầu để nàng ở lại đó, trên sàn nhà thờ, nhưng vì nàng mới mười bốn tuổi nên anh quấn những tấm áo quần xung quanh nàng, đủ để che đi những phần quan trọng và đặt những đóa cẩm chướng lên trên đó.
Những đóa hoa trắng muốt, với rìa cánh đỏ rực như máu chảy ra qua những đường gân chằng chịt trên cánh hoa vào tim.
Anh nhớ rất rõ.
Khoảng một giờ sáng, mẹ xua tôi lên phòng ngủ. Tôi ngồi trên giường, chơi trò múa bóng qua những bức tường từ ánh sáng lập lòe của cây nến trà bằng điện trước bức ảnh Chavi. Đây cũng chính là bức ảnh mà chúng tôi để ở dưới lầu, mặc dù chiếc khung này được làm từ những mảnh kính nhiều màu và những mảnh vụn kim loại. Đó cũng là vòng hoa cúc đại đóa bằng lụa màu vàng.
Cuốn nhật ký mà tôi đang viết hiện nằm trong ngăn kéo tủ đầu giường, chiếc bút được kẹp ở trang bìa. Thú thực, cuốn sổ được trang trí bằng tổ hợp cắt dán mặt của các tổng thống khắc trên đá, tất cả những bức ảnh giống hệt nhau được chụp trong chuyến đi chơi của mẹ và tôi cùng Eddison khi chúng tôi còn sống ở D.C. Bức ngoại lệ bé xíu, gần như vô hình trong khoảng trống giữa Kennedy và Taft, một con thằn lằn nhỏ màu xanh dương với tấm áp phích kẹp ở miệng, những con số La Mã trên một ô vuông nhỏ màu ghi. Con thằn lằn xuất hiện đâu đó trên mọi cuốn nhật ký mà tôi viết. Đôi khi ở ngoài bìa, đôi khi ở bên trong, đôi khi nó nằm ngay trên góc của một vài trang giấy.
Những cuốn nhật ký của Chavi dễ sắp xếp hơn, bởi chị luôn có quy tắc. Góc dưới bên trái của bìa trong luôn có một bức vẽ của tôi đang cầm ngày tháng. Cũng có thể là một bức ảnh toàn trang - một tấm lịch ngày, hoặc một tấm lịch tháng với một ô được khoanh tròn, hoặc hình vẽ nguệch ngoạc đại diện cho những ngày lễ. Mỗi cuốn sổ đều bắt đầu vào ngày thứ hai của năm mới nên tất cả những gì bạn cần làm để sắp xếp chúng đúng thứ tự chỉ là nhìn vào bìa trong, chỗ có tấm lịch.
Chavi đã viết cho tới gần tháng Tám.
Còn giờ đây, tôi dường như chẳng thể ngủ nổi.
Tôi đợi cho tới khi có lẽ mẹ đã ngủ ở bên kia sảnh, tôi hy vọng thế, để có thể xuống lầu. Từ trên gác xuống, có một bậc thang mà ba phần tư sẽ kêu lên răng rắc trừ khi bạn bước vào góc trái, nhưng bậc ngay dưới nó thì bạn lại phải bước sang góc phải nếu không nó sẽ rên lên kẽo kẹt. Tôi nín thở lấy đà và bước một bước dài qua cả hai bậc.
Ánh nến trước khung ảnh của Chavi đã tắt. Chúng tôi phải thổi tắt ngọn nến cuối cùng trước khi đi ngủ phòng khi nó có thể thiêu rụi cả ngôi nhà. Tôi muốn - có lẽ tôi cần thì đúng hơn - thắp lại nến. Nhưng tôi đã không làm thế. Ánh sáng len lỏi từ bên ngoài vào qua cửa kính là đủ để giúp tôi nhìn thấy bức ảnh, cho dù không rõ ràng lắm. Ánh đèn đường, vàng vọt và nhạt nhòa, chiếu thẳng lên tường và dọc theo mép cầu thang. Nó gấp khúc nơi trần nhà, tạo thành một góc kỳ dị để tiếp tục chạy dọc và kết thúc nơi lan can.
Một chiếc xe chạy ngang qua bên ngoài, khiến ánh sáng chiếu vào dữ dội hơn và trong một giây ngay trước khi tôi phải nhắm mắt lại vì chói, những chiếc bóng khiến tôi có cảm giác như có vật gì đang nhảy múa từ lan can.
Tim tôi đập loạn xạ và tôi lắc đầu trong khi đi từ sảnh lớn xuống phòng khách. Có thứ gì đó phẩy qua vai tôi và khiến tôi giật nảy mình, sau đó tự gọi mình bằng những từ ngu ngốc nhất khi nhận ra đó chỉ là tóc mình. Chúng tôi đã kiểm tra từng ngóc ngách trong nhà và lắp đặt thiết bị cảnh báo. Chẳng có ai khác ở đây ngoài tôi và mẹ. Tôi có thể kể ra hàng ngàn lý do khiến tôi lại lo lắng như thế này. Tôi có thể kể từng lý do, và việc liệt kê chúng lẽ ra sẽ giúp tôi cảm thấy ổn, nhưng đâu đó giữa trạng thái lo lắng về người nào sẽ chết và liệu có ai đang theo dõi ngôi nhà không, có một ký ?