← Quay lại trang sách

Phần I - Y SĨ LÊ THU

Y sĩ Lê Thu làm việc ở khoa hậu phẫu này đã trên hai chục năm. Có thể đến cả ngàn bệnh nhân sau khi mổ đã qua tay chị săn sóc. Chị là y sĩ chính giúp việc bác sĩ trưởng khoa. Chị phụ trách việc điều trị khẩn trương những người bệnh mới mổ xong khi liều thuốc gây mê chưa hết tác dụng, người bệnh còn chìm sâu trong giấc ngủ. Chị phân công các y tá trong khoa truyền máu, truyền huyết thanh, tiêm thuốc cho từng bệnh nhân theo chỉ định của bác sĩ. Chị theo dõi nhiệt độ, mạch đập, nhịp thở, huyết áp của từng người bệnh cho đến khi tỉnh hẳn, rồi cử người theo dõi và điều trị tiếp trong một vài ngày đầu, đến khi các thông số sinh học của người bệnh ổn định hẳn, hết giai đoạn điều trị khẩn trương mới chuyển bệnh nhân về các buồng bệnh.

Từ ngày tốt nghiệp y sĩ trung cấp vào năm 1961 đến nay là năm 1987 đã tròn hai mươi sáu năm. Mấy năm đầu chị làm y sĩ chung ở các khoa nội, sau đó thì chuyển hẳn sang khoa hậu phẫu này. Bác sĩ trưởng khoa coi chị như cánh tay phải, bởi vì nhiều kỹ thuật cấp cứu nếu không có chị thì sinh viên thực tập gặp nhiều khó khăn. Kinh nghiệm của một y sĩ đã năm mươi tuổi đời với hai mươi sáu năm nghề nghiệp đã giúp cho khoa cứu sống được bao nhiêu trường hợp hiểm nghèo. Những thực hành kỹ thuật thành thạo của chị trong khi cấp cứu người bệnh, trong truyền máu, truyền huyết thanh, trong thao tác hút đờm rãi chống sặc cho bệnh nhân còn hôn mê, trong lúc phải mở khí quản khi người bệnh suy hô hấp cũng như sự chính xác kỳ diệu của đôi bàn tay chị khi luồn được chiếc dây thông tiêm truyền vào tĩnh mạch dưới đòn để cứu chữa kịp thời người bệnh có giá trị đối với tính mạng con người biết bao! Những công việc âm thầm đó chẳng được ai vỗ tay, nhưng thử hỏi ở cái bệnh viện gọi là tuyến cuối cùng này sẽ ra sao nếu không có những người y sĩ như chị?

Đêm nay y sĩ Thu cùng trực với y tá Mai, cô y tá chỉ đáng tuổi con chị như nhiều cô y tá khác trong khoa. Đêm nào trực ít cấp cứu thì cũng ba bốn ca vừa tiểu phẫu vừa trung phẫu, hoặc xử lí vết thương phần mềm do tai nạn xe cộ, do đánh nhau, hoặc theo dõi một bệnh cấp tĩnh ngoại khoa vùng bụng. Đêm nhiều cấp cứu thì hàng chục ca, ít ra cũng vài ba ca mổ lớn, nào thủng dạ dày, nào lồng ruột, nào ngã gãy xương, dập gan, lách, nào chửa ngoài tử cung v.v… Còn cái mục viêm ruột thừa cấp tính thì tuần nào mà chẳng có năm ba trường hợp. Chỉ cần vài ba ca nhẹ cấp cứu lúc nửa đêm, kíp trực cũng phải thức trắng chứ chẳng cần đến những ca nặng phải vất vả thâu đêm. Ấy thế mà sáng hôm sau, y sĩ Thu vẫn phải chiến thắng cái mệt rã rời để tiếp tục làm việc hết buổi sáng. Chị chỉ nghỉ buổi chiều. Y tá trong khoa thì ít, chị em lại phần đông còn trẻ, người bận con mọn, người son rỗi thì có những bận bịu của tuổi mới lớn lên, chị phải làm thay cho họ. Y sĩ Thu không kêu ca, không phàn nàn, bởi lẽ không thể để bệnh nhân sau khi mổ thiếu người săn sóc. Cũng còn một lẽ nữa là chị tìm thấy nguồn vui trong công việc chứ nếu chỉ nghĩ đến tiền phụ cấp trực đêm thì phát chán. Quên đi thì thôi chứ nghĩ đến nó lúc nào, dù chỉ một giây, con người cũng không thể giữ nổi được lòng tin tưởng đối với những người đã làm ra cái chính sách thù lao cho người y sĩ hay y tá không đủ để ăn một bát phở hôm sau. Đó là sau khi đã nghiên cứu bao năm và đã mấy lần tăng mức. Ôi, người ta đánh giá cái lao động phức tạp đầy khó khăn và âm thầm của công việc cứu chữa con người trong thực tế là thế đó. Đối với một bác sĩ lành nghề thì cũng chẳng hơn gì. Tiền phụ cấp một ca mổ ngoài giờ cũng chỉ đủ để trả công cho một miếng vá chiếc săm xe bị thủng! Miếng rách to thì lại còn đắt hơn một ca mổ lớn ở người!

Y sĩ Thu cũng chẳng bao giờ kêu ca. Người ta đã kêu chán cũng chả ai giải quyết. Thỉnh thoảng một nhà báo nhiệt tâm nào đó viết bài báo nhắc khéo cái sự trả công bạc bẽo cho những kỹ thuật lao động phục vụ con người làm cho bạn đọc xúc động, nhưng rồi tất cả lại chìm trong khó khăn chung, chìm trong sự yên lặng đáng sợ! Tham ô hàng trăm tỷ đồng, lãng phí hàng trăm tỷ khác thì bao giờ cũng có, còn tăng đồng lương, đồng trực cho phải lẽ thì bao giờ cũng khó khăn, không có tiền. Ban giám đốc bệnh viện thì không có quyền tăng lương, tăng phụ cấp cho bác sĩ, y tá còn cấp trên thì quá xa vời.

Y sĩ Lê Thu đã quen với nghề nghiệp của mình, cái nghề đơn bạc đối với xã hội đương thời, nhưng mà Bác Hồ đã dạy rằng: “Lương y phải như từ mẫu”, chị bằng lòng với đồng lương khốn khổ, gạt mọi thắc mắc để cho công việc được yên vui; vả chăng chị cũng chẳng phải nuôi ai. Vốn xuất thân từ con nhà lao động, sẵn tính cần cù chịu khó lại có kinh nghiệm trong chăn nuôi, chị còn thu hoạch thêm ở con lợn, đàn gà. Còn đối với các cô y tá còn nặng gánh gia đình, tuy rằng cái gia đình chỉ có một hoặc hai con, mà đồng tiền lương và tiền trực trả cho tay nghề của họ chẳng nuôi nổi cái gia đình nhỏ nhoi thì trách sao họ chẳng thể thấy cái vinh quang của nghề nghiệp. Y sĩ Lê Thu có dáng người tầm thước, nhanh nhẹn, chưa hiện cái gì là vẻ già. Đến cái tuổi người ta thường béo đẫy đà ra, nhưng chị vẫn thon người, có vẻ hơi gầy và xanh. Béo sao nổi khi con người phải ăn ít làm nhiều. Con người chị hình như vẫn còn giữ được những đường nét thanh tú của thời son trẻ. Mái tóc phi dê còn đen nhánh xõa xuống che một nửa vầng trán hơi gợn những nếp nhăn nhỏ. Đôi mắt chị đượm buồn và sâu thẳm như lúc nào cũng có nỗi ưu tư. Nhưng với đôi hàm răng trắng còn đều tăm tắp và đôi lúm đồng tiền khi cười làm cho mọi người liên tưởng đến cái nhan sắc tuyệt vời của chị lúc tuổi trẻ. Cái nhan sắc ấy còn hiện rõ trong dáng người uyển chuyển, nhẹ nhàng trong chiếc áo bờ lu trắng ngắn đến gối, với đôi cánh tay trần vẫn còn nõn nà và đôi bàn chân thon thả rất hợp với đôi dép da màu hạt dẻ chị đi hàng ngày. Người mới nhìn đều tưởng chị quá lắm cũng mới ở cái tuổi bốn mươi. Y sĩ Lê Thu còn khối đàn ông dòm ngó, bác sĩ có, bệnh nhân có. Họ liếc trộm chị, họ buông lời ỡm ờ ướm thử chị. Có cả một anh chàng luống tuổi chưa vợ nhưng kém chị đến đến gần mười tuổi cũng mê mệt vì cái vẻ quyến rũ mà đoan trang của chị đã đánh liều viết thư tình cho chị. Nhưng họ có biết đâu những tình cảm lạc điệu của họ chẳng hề gây được một xúc động nhỏ nào trong tâm hồn y sĩ Lê Thu. Tâm hồn của chị vẫn như mặt hồ không gợn sóng. Đã hàng chục năm nay chị yên lặng làm việc, cần cù tận tụy với mọi bệnh nhân. Trái tim chị như đã đóng kín chẳng mở cho ai. Trong khoa coi chị thật sự như người chị cả, hơn nữa như người mẹ hiền. Người ta biết chị là vợ một liệt sĩ. Nghe đâu chồng chị là một giáo viên cấp hai trường huyện. Anh đã xung phong đi B hồi năm sáu nhăm, sáu sáu và đã hy sinh trong chiến trường cực nam, hồi đồng khởi năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám, đến nay đã ngót hai chục năm. Chị mất chồng từ cái tuổi còn rất thanh xuân, năm chị mới ba mươi tuổi, lúc đứa con trai duy nhất mới lên sáu. Nay thì nó đã trưởng thành, đã là một kỹ sư địa chất công tác trong khu dầu khí phía nam, thành thử chị sống một mình trong căn hộ ở khu tập thể bệnh viện.

Chẳng ai muốn động đến đời tư của chị khi thấy mấy lần nói đến là chị khóc. Hình như vết thương tình cảm về gia đình của chị vẫn chưa lành, cứ ai động đến là nó rỉ máu, làm cho người vô tình đến đâu cũng phải hối hận mỗi khi trót gợi lại chuyện riêng của chị. Chẳng hiểu vì sao mà đêm trực bữa nay y sĩ Lê Thu như người mất hồn. Mới lúc tối chị còn vui vẻ, thoăn thoắt tiêm truyền, thay băng cho cả bốn bệnh nhân mới mổ. “Cái con Mai nó chậm lắm, để nó làm việc khác” - Chị bảo thế, rồi chị làm thay Mai mọi việc.

Chỉ từ lúc xe bệnh nhân thứ năm về phòng, một bệnh nhân mổ cấp cứu do thủng vết loét hành tá tràng cũ, là chị trở nên bối rối lạ thường, nỗi bối rối hiện ra từng cử chỉ. Người bệnh vẫn còn chịu tác động của liều thuốc gây mê chưa tỉnh. Ông ta người gầy, da bánh mật, nét mặt có cái vẻ phong sương của người từng trải, trán cao, mũi thẳng, vành môi kiên nghị ngay trong giấc ngủ say. Thấy bác sĩ trưởng ca mổ bảo: “Mổ những người như ông này dễ, thầy thuốc cũng yên tâm, đỡ vất vả hơn, vì ông người gầy, ít mỡ, tim mạch rất tốt, tinh thần lại ổn định, tin ở thầy thuốc, không quá sợ chết”.

Cũng như đối với mọi bệnh nhân, xe về phòng hậu phẫu trong phiên mình trực, y sĩ Thu có mặt ngay bên giường bệnh, nhanh chóng đo huyết áp, nhiệt độ, lấy mạch và bắt đầu ngay công việc tiêm truyền hồi sức theo chỉ định. Làm xong từng ấy công việc để cứu chữa bệnh nhân, y sĩ Lê Thu mới chú ý quan sát kỹ nét mặt người bệnh. Chị bỗng giật mình, tim đập dồn dập, tim chị chưa bao giờ dồn dập đến thế. Chị nhìn chăm chú vào nét mặt rắn rỏi và phong sương đang chìm trong giấc ngủ của bệnh nhân, quan sát mái tóc đã ngả màu muối tiêu của ông ta. Chị vội vàng cầm tờ bệnh án đang để trên đầu giường đọc lại phần lý lịch bệnh nhân. “Tên, họ: Trần Trung Ngôn; tên thật Trần Sơn”, lúc y tá Mai xe bệnh nhân về phòng chị đã không chú ý đến tên thật của bệnh nhân ghi ở dòng dưới. Chị đọc tiếp: “Năm mươi tám tuổi; Quê quán: huyện Thanh Miện, xã Tân Phong, tỉnh…”. Đọc đến đây thì y sĩ Lê Thu hoa cả mắt, tay chị cầm tờ bệnh án run lên. Chị thấy trong lòng mình xốn xang. “Sao lại thế này? Sao lại gặp ở đây?... Đã ba chục năm rồi còn gì!”. Nét mặt của người bệnh tuy đã đổi thay theo năm tháng nhưng sao vẫn cho tim chị xúc động đột ngột. Nó như có chiếc chìa khóa thần mở cửa con tim vốn đã khép kín từ lâu của chị. Phút chốc chị như muốn khóc. Y sĩ Lê Thu cầm tờ bệnh án đi vội sang buồng trực bên cạnh. Y tá Mai đang cắt bông và gạc cho vào các hộp hấp vô trùng chuẩn bị cho ngày hôm sau không chú ý đến chị. Chị bảo Mai: - Em đọc lại hộ chị tên, tuổi, địa chỉ bệnh nhân xem có đúng không, chị bỏ quên kính nên không nhìn rõ. (Thật ra chị rất ít khi phải dùng kính).

Mai ngừng tay cầm lấy tờ bệnh án, đọc: “Trần Trung Ngôn, tên thật là Trần Sơn, năm tám tuổi. Quê quán: huyện Thanh Miện, xã Tân Phong, tỉnh Hải Dương. Cơ quan: Ban nghiên cứu lịch sử tỉnh… Địa chỉ người thân hay gia đình khi cần liên hệ: không có gia đình, khi cần xin báo tin cho cơ quan… Điện thoại số…”.

Y tá Mai trả lại tờ bệnh án cho Lê Thu. Chị ngồi trước chiếc bàn trực, đăm chiêu suy nghĩ. Chị bảo Mai:

- Mai ơi, em vào chăm sóc bệnh nhân này cho chị. Chị đang cho truyền thuốc. Tự nhiên chị thấy bị nhức đầu, để chị nghỉ ngơi một lát.

- Có phải uống thuốc gì em lấy? - Y tá Mai hỏi.

- Không cần, chị chỉ cần nghỉ ngơi một lúc. Chị hay bị như thế đấy. Tự nhiên lại thấy nghẹn ở cổ, nhức đầu và hoa cả mắt.

- Hay là tại chị bị rối loạn mãn kinh đấy. Em nghe nhà em nói những người ở tuổi chị là hay có những triệu chứng rối loạn mãn kinh kiểu ấy lắm. (Chồng cô chả là bác sĩ phụ khoa mà).

Khi y tá Mai đi rồi, y sĩ Lê Thu lại đọc lại tên người bệnh. Mắt chị đăm đăm nhìn vào tờ bệnh án. Bàn tay phải chống vào một bên má, chị chìm sâu trong suy nghĩ. Biết bao kỷ niệm của thời son trẻ hiện ra trong trí nhớ. Một nỗi buồn cuộn dâng dần lên như nước thủy triều trong lòng Thu không nén nổi. Rồi những giọt nước mắt nóng hổi lả tả lăn trên đôi gò má. Chị để mặc cho con tim thổn thức. Đã lâu lắm rồi chị không khóc! Cái tĩnh lặng ban đêm của bệnh viện, nhất là ở cái khoa hậu phẫu gồm toàn những người bệnh đã bị những liều thuốc gây mê khuất phục này, đến một tiếng rên cũng hiếm, càng làm cho cái tĩnh lặng của đêm trực tăng lên đến kinh người. Nó làm thức dậy trong lòng y sĩ Lê Thu những nỗi đau buồn tưởng đã chôn sâu trong ký ức những thuở nào xa xôi, nay bỗng hiện lên tường tận từng trang, từng trang còn mới tinh, y như nó mới xảy ra ngày hôm qua hay sáng nay. Rồi hình ảnh bác Đạt, người bạn của cha Thu, lời nói từ ba chục năm về trước: “Cách mạng không phải là con đường bằng, cách mạng có những thắng lợi phải đổi bằng biết bao hy sinh, biết bao đau khổ mà con người phải chịu đựng!”. Y sĩ Lê Thu nghĩ đến chuyện cha đã hy sinh, nghĩ đến người chồng đáng thương và tội nghiệp đã bỏ mình trong chiến trường B, nghĩ đến người bệnh bị mổ cấp cứu vì thủng dạ dày mới được xe về khoa, nước mắt chị lại trào ra. Chính chị cũng không thể hiểu nổi làm sao cuộc đời của chị lại có thể chịu đựng từng ấy nỗi gian truân! Y sĩ Lê Thu khóc sướt mướt như chưa bao giờ được khóc. Y tá Mai bước vào buồng trực trông thấy Lê Thu trong tình trạng đó, cô ngạc nhiên và ngỡ ngàng không nói nên lời.

***

Y sĩ Lê Thu không thể tiếp tục làm nhiệm vụ trực tại phòng hậu phẫu, đành phải nhờ y tá Mai làm thay mình. Chị phải bỏ phiên trực đêm nay, trở về nhà trong khu tập thể gần bệnh viện để tránh những xúc động quá lớn, đột ngột thức dậy trong lòng. Trước khi về, chị đến thăm lại người bệnh, nhận người bệnh là người nhà và dặn dò y tá Mai cẩn thận giúp chị chăm sóc tiếp cho bệnh nhân. Người bệnh vẫn chưa tỉnh hẳn nhưng bắt đầu cựa mình và rên nhẹ. Vẫn con người ấy, vẫn những nét cương nghị trên vầng trán, trên làn môi. Vẫn nước da màu bánh mật và khuôn mặt phong sương. Vẫn dáng người gầy và rắn rỏi. Chỉ khác là thời gian đã điểm bạc trên mái tóc và khắc hằn lên đôi má, lên trán những vết răn. Chị đọc kỹ bệnh án biết rõ người bệnh có triệu chứng bệnh loét dạ dày tá tràng từ vài chục năm nay. Vết loét thuộc loại ít đau, các bác sĩ hay gọi là “loét không đau”. Làm y sĩ lâu năm, y sĩ Thu đã biết rõ loại bệnh không đau này chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong bệnh loét, nhưng nó lại hay gây tai biến thủng hay chảy máu nặng. Vì nó không đau nên người ta mới dễ chủ quan. “À thì trên đời này cái gì mà chả thế. Cái nó đến rầm rộ thì còn biết mà đề phòng, còn cái nó cứ gặm nhấm âm thầm thì biết đâu mà lường trước!” - Y sĩ Thu nghĩ thế. Căn nguyên gây tai biến thủng vết loét thường do thần kinh bị căng thẳng quá mức: những xúc động mãnh liệt, những lo âu thái quá, những cuộc đấu tranh tư tưởng dằng co và oan trái, kể cả những điều vô nghĩa nhưng lại gây cho con người sự lao tâm khổ tứ không đáng có. Ở bệnh nhân này thì điều gì đã là căn nguyên kích động, hay nó thuộc vào loại biến chứng tất yếu của một vết loét lâu ngày. Nhưng ruột con người đâu phải là cái săm xe đạp hãy cứ lâu ngày là nó thủng, nó rách. Nó là một cơ thể sống có thể tự hàn gắn những vết thương. Thiếu gì người loét dạ dày tá tràng đã lành, có phải ai cũng thủng đâu. Y tá Mai đã giúp Thu giải đáp thắc mắc đó. Con bé làm thì chậm như rùa nhưng tính thì hay thóc mách. Ai nói gì nó cũng nghe, ở đâu có chuyện gì nó cũng hóng. Vì vậy nó biết khối chuyện tập thể và cơ quan, chuyện riêng của nhân viên có khi cả chuyện đời tư của bệnh nhân vào khoa. Ấy cũng tại cái tính người. Chỉ được cái nó hay giúp đỡ mọi người, từ mua giúp chị em mớ rau, mớ tép, đến việc trực thay chị em không may bị ốm hay có việc đột xuất. Nhờ cái tính hay nghe chuyện và mách lẻo của Mai mà trong khoa biết khối chuyện. Buổi tối, Mai giúp bác sĩ làm bệnh án trước khi đưa bệnh nhân vào phòng mổ cấp cứu, Mai đã nghe cô bạn y tá cơ quan đi theo bệnh nhân kể: “Ông này vừa viết một bài báo ủng hộ một nhà văn nào đó phát biểu về quyền tự do sáng tác. Nghe đâu bài báo này tuy ca ngợi đổi mới, phân tích và tán thành việc thực hiện tự do hóa đời sống xã hội. Nhưng không may ông lại bị một vài người có quyền thế ghét nên ông bị phê phán là “phủ nhận quá khứ”, là “kêu gọi tự do hóa tư sản”. Ông không chịu, cãi lại. Cuối cùng quyền lực bao giờ cũng thắng. Ông bị đẩy vào cái thế phải về hưu tuy chưa đến sáu mươi. Chưa kịp bàn giao công việc thì ông bị thủng dạ dày, phải cấp cứu vào viện.

“Khổ thân ông ta! - Cô y tá Mai nói thêm. - Ai bảo cãi lại người có quyền làm gì!”.

Đáng lẽ ông có quyền đến một bệnh viện trung cao, không hiểu sao ông lại đòi đưa đến bệnh viện này. Nghe đâu ông có quen giáo sư giám đốc bệnh viện. Lại nghe nhiều người ca ngợi khoa ngoại ở đây có nhiều bác sĩ mổ dạ dày giỏi, lại ít tiêu cực hơn, có tinh thần trách nhiệm với người bệnh hơn. Ông bảo:

“Ấy là mới nghe người ta đồn thế, chứ đã biết hư thực thế nào đâu”.

Còn cái bệnh viện tiêu chuẩn của ông thì ông đã biết quá rõ vì ông đã thường xuyên đến đó khám rồi. Lúc thì họ bảo ông bị viêm dạ dày, lúc họ lại bảo ông viêm đại tràng. Trước kia thì cái bệnh viện ấy khá, bây giờ thì ông phát sợ. Sợ vì phải sắp hàng chờ phát phiếu khám bệnh, chờ đến lượt khám, khám xong lại chờ đóng dấu vào cái đơn, rồi lại chờ lĩnh mấy viên thuốc. Ôi chao, mất cả một buổi sáng, có khi lại không lĩnh được thuốc vì hết giờ phải kéo sang cả buổi chiều. Nhưng cái làm ông sợ nhất là thái độ những nhân viên, những y tá, những người tiếp đón, cả những y bác sĩ khám bệnh. Hình như họ đã thuộc mặt ông. Họ chẳng coi ông ra gì. Thái độ họ vừa cửa quyền, vừa khinh khỉnh khó chịu lạ.

Những tình cảm cũ tưởng đã chôn chặt từ thuở nào bỗng nhiên lại trào lên. Y sĩ Thu thấy thương người bệnh, một tình thương sâu sắc và da diết lạ thường. Về đến nhà, chị chẳng buồn thay quần áo, nằm vật ngay xuống chiếc giường cá nhân, suy nghĩ miên man. Đồng hồ điểm mười hai giờ đêm. Y sĩ Lê Thu trằn trọc không ngủ. Đêm tĩnh lặng dễ dàng đưa con người vào chiều sâu kỷ niệm. Chị như chợt nhớ ra điều gì. Chị ngồi bật dậy, với tay bật chiếc đèn bàn đặt trên mặt tủ đầu giường. Chị mở ngăn tủ nhỏ, lôi ra cuốn nhật ký chị đã giữ từ ba chục năm nay. Cuốn nhật ký đã bong cả bìa, rách cả gáy. Chị giở từng trang, từng trang, bỏ qua nhiều trang không đọc. Mắt chị dừng lại ở những dòng chữ, nét mực đã bắt đầu phai.