(5)
Thu bước ra khỏi ngưỡng cửa, cố trấn tĩnh, gạt hết mọi đắn đo, nhưng sao bước chân cô vẫn ngập ngừng. Thu đã khóc quá nhiều rồi nên đôi mắt cô bây giờ ráo hoảnh, mặc dù trong lòng cô đang khóc như mưa. Quang, người chồng con địa chủ kháng chiến, còn được nhiều may mắn hơn cô, nhìn Thu ái ngại, thở dài thay cho cô. Không, Thu đã quyết định rồi. Cô không muốn tạo thêm đau khổ lên đời anh, làm vợ anh, làm con dâu của gia đình anh. Không còn do dự nữa. Những ước mơ dù là tầm thường nhưng tối nay đã trở thành hão huyền, đang tan đi như mây khói. Cô không muốn tô vẽ lên cuộc đời đầy khổ não những màu đỏ, màu xanh không có thực. Cô không muốn trang hoàng cho cuộc sống bão táp của gia đình cô những hoa hòe hoa sói giả dối. Trái tim cô như bị bóp lại. Cô cắn răng chịu đựng. Nhưng cô lại như thấy nhảy múa trong đầu cô câu hỏi tàn ác: “Đám cưới hay đám ma?”.
Ông già chủ hôn, từng trải trong cuộc đời, đã chứng kiến chán vạn cảnh bất hạnh khác nhau, hình như đoán biết một phần tâm tư Thu, ông đến bên nói khẽ vào tai Thu:
- Cháu ơi, kiếp người có cái vận, cái hạn. Vợ chồng lấy nhau có cái duyên cái số. Phải theo thời thế mà xử thôi. Nghĩ ngợi làm gì cho khổ thêm. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài cháu ạ, bây giờ khối người lấy nhau chẳng có cưới xin gì còn được nữa là.
Chị Hiền nhìn đứa em gái họ tiều tụy về nhà chồng mà chị xót xa trong lòng. Khổ thân em tôi! Chị lặng lẽ lấy chiếc áo cánh màu gụ mới may mà Quang đã mang đến, khoác vào vai Thu dỗ dành: “Mặc vào em, đời người chỉ có một lần…”. Ông già chủ hôn đồng tình, cũng nói:
- Ừ, mặc vào, chị mặc vào cho em nó đỡ tủi thân. Rồi ông lên tiếng giục:
- Ta đi thôi. Chúng tôi xin chào bà - ông quay lại chào bà Phan - xin để dẫn cháu về bên ấy.
Thu ngoan ngoãn mặc chiếc áo mới chị Hiền vừa khoác lên vai, rồi như một cái máy, cô đến bên mẹ, đặt một bàn tay lên vai mẹ, cô nói giọng rắn rỏi hẳn lên:
- Mẹ! Mẹ ở lại… con đi! Mai con lại về thăm mẹ!
Bà Phan nghe con nói tự nhiên thấy người lạnh toát từ đầu đến chân. Bà muốn nói thêm với Thu nhiều lắm, nhưng bà ấp úng được mỗi một câu: - Ừ… con!... Con đi… về bên ấy…
Cổ bà nghẹn lại, bà không nói thêm được nữa. Người con gái thản nhiên như không biết mẹ khóc. Có phải nỗi đau đớn và những dằn vặt kéo dài đã làm cho tình cảm cô khô héo? Hay cô muốn nhạt nhẽo, muốn nghiêm khắc lại với mọi người! Cô quay sang đứa em bảy tuổi đang mở đôi mắt tròn thao láo nhìn chị, nói:
- Em ở nhà với mẹ… nhớ ngoan chị thương...!
Thằng bé bỗng nắm lấy áo chị, khóc òa lên:
- Chị đi đâu? Không, không! Chị ở nhà với em cơ… Mẹ, mẹ ơi… ờ… ờ… ờ… Mẹ bảo người ta đừng bắt chị Thu đi… i...!
Hình ảnh những ngày đấu tố vừa qua đã để lại trong đầu óc non trẻ của nó những hình ảnh quá khủng khiếp. Nó sợ số phận chị như số phận bố trước đây. Nó nghe chị dỗ:
- Rồi đến mai chị về với em. Chị mua bánh cho em…
- Không… không, em không ăn bánh đâu… Chị… chị đừng đi…
Nó cố giữ lấy tà áo chị, như sợ chị chạy trốn. Nó kéo chị lại gần mẹ, một tay quệt ngang dòng nước mắt, năn nỉ:
- Mẹ… Mẹ giữ chị Thu lại cơ! Mẹ đừng để người ta bắt chị Thu đi, mẹ ơi!
Bà Phan nẫu cả ruột, bà chả còn biết nói ra sao với nó. Bao nhiêu người xúm lại dỗ dành thằng bé. Trông thấy cảnh tượng ấy, ai cũng đau lòng. Có vài bà lặng lẽ kéo tà áo lên lau nước mắt. “Khổ quá! Thằng bé nó không muốn rời chị! Đấu tố làm nó sợ quá đấy mà!”.
Có bà góp ý kiến:
- Hay thế này: cháu Thu cho em nó lên trên ấy chơi vài ngày, rồi sau đưa nó về cũng được.
Thu thấy ngay cái bất tiện đối với gia đình Quang. Mọi người cũng thấy khó coi khi phải đem một đứa trẻ vừa khóc vừa mếu trong một đám cưới, dù nó là đám cưới khốn khổ như tối nay.
Thu đành gỡ tay đứa em nhỏ, cúi xuống hôn vào hai má ướt đẫm của nó rồi bước đi, không nhìn lại nữa. Đứa bé không giữ được chị, mặt nó méo xệch đi, nó ôm lấy mẹ thút thít chịu sự thất bại của tuổi thơ. Tiếng khóc của nó chìm trong tiếng chào vang lên của mọi người. Đám cưới và cuộc rước dâu lên đường. Không pháo, không hoa. Những bước chân yên lặng, âm thầm nối nhau dưới ánh trăng mờ sương. Riêng chú rể thấy thương đứa em vợ bé nhỏ, chú không đi theo đoàn người cùng cô dâu ngay. Chú còn ngồi nán lại, tìm lời an ủi bà Phan và thằng Thủy, rồi chú sẽ đạp xe theo sau. Ôi, lòng nhân đạo thường nẩy sinh ra ở những người cùng cảnh ngộ gian nan.
Những người trong họ nhà ông Cựu Minh ai không ngại “liên quan” đều lén lút đến chúc mừng đám cưới của đứa cháu con nhà địa chủ. Cũng chỉ lèo tèo năm, mười người họ gần, còn cần đến ông lúc ốm đau. Họ đến chẳng phải để ăn cỗ, đốt pháo mừng như mọi khi, mà chỉ ăn một miếng trầu, hút một điếu thuốc lào, chúc các cháu một vài câu rồi đứng dậy ra về. Họ làm cho phải đạo, không muốn a dua theo số người “dậu đổ bìm leo”. Cũng có người mừng hai cháu vài thước vải, một đấu gạo tám thơm hay vài cân đỗ xanh. Khi người đến chúc mừng cuối cùng ra về thì cũng đã đến gần nửa đêm.
Khách đã về hết, thu xếp xong Quang mới bước vào buồng cưới của mình, cái buồng hạnh phúc có Thu đang đợi trong đó. Gọi là buồng cưới trong hoàn cảnh này càng làm cho người vợ trẻ thêm tủi. Đó chỉ là gian buồng nhỏ ở đầu phía tây ngôi nhà năm gian bằng gỗ lợp ngói của ông Cựu Minh. Xưa nay, bà Cựu Minh vẫn dùng làm kho, để đầy cả chum vại, cái thì đựng thóc, cái thì đựng ngô, cái đựng thuốc lào. Còn những chiếc vò, chiếc vại to, nhỏ kia là để ông Cựu đựng các vị thuốc nam, thuốc bắc, cắt dần cho người bệnh.
Thuốc lào thì bà đã bán từ lâu (còn để đến cải cách thì họ cũng tịch thu mất), thóc lúa thì chả còn mấy. Bà đã khiêng bớt những chiếc chum to xuống nhà bếp, lấy chỗ kê vào đấy cái giường gỗ xoan cũ, trải lên một chiếc chiếu cũng cũ nốt nhưng bà đã giặt sạch làm giường cưới cho con. Đem luôn cái tủ sách to tướng ở gian ngoài vào đấy cho nó. Nghĩ nhiều bà cũng thấy tủi cho con. Làm cha, làm mẹ mà để cho con cái chịu cái cảnh cưới xin chẳng ra hồn gì, ông bà Cựu Minh cũng không yên lòng. Nhưng biết làm sao! Nó muốn cưới con Thu lúc này! Mà thực ra cũng không còn lúc nào thuận lợi. Bà đành thở dài chiều theo ý con. “Cái thằng ấy từ bé chí lớn chỉ biết có sách vở, giao thiệp kém. Năm nay nó đã hăm ba, hăm bốn rồi, lại vướng vào thành phần địa chủ, biết tìm vợ ở đâu!”. Nghĩ thế bà cũng thấy vợi được nỗi tủi nhục vì đám cưới đơn bạc của con.
Quang bước rất nhẹ vào buồng. Anh cài then cửa lại. Ước mong bao năm trời của anh đã thành sự thật. Thu đã là vợ của anh. Lòng Quang hồi hộp vô cùng. Phút chốc bao nhiêu nỗi đắng cay, tủi nhục bỗng tiêu tan hết. Hạnh phúc đã đến với Quang. Không cần lo nghĩ nhiều về thành phần nữa. Không cần thắc mắc nhiều về đám cưới bạc bẽo nữa. Tất cả những nỗi buồn phiền nhất thời ấy rồi sẽ qua đi. Chỉ còn tình yêu là vĩnh cửu mà thôi! Cuộc sống sẽ trở lại bình thường, bởi cái lẽ đơn giản là con người không thể sống mãi trong những trận cuồng phong. Xã hội không thể tồn tại trong sự thù hằn. Rồi thời gian sẽ hàn gắn hết. Thời gian sẽ xóa đi những đau thương. Quang sẽ yêu Thu đến trọn đời! Bao nhiêu ý nghĩ tốt lành đến với Quang đêm nay. Anh hy vọng: đôi vợ chồng lấy nhau trong cơn sóng gió, trong những nỗi oan nghiệt sẽ gắn bó trọn đời. Lòng Quang càng dào dạt yêu Thu. Ngọn đèn dầu hỏa tỏa một thứ ánh sáng âm ấm khắp gian buồng. Thu đang ngồi đó, trên chiếc ghế tựa bên chiếc bàn nhỏ kê cạnh giường. Lòng cô tả tơi như những tầu lá chuối sau cơn giông lớn. Cô gắng gượng ngửng đầu lên, hé một nụ cười chua chát nhìn Quang. Trời về đêm lạnh hơn. Thu đã nghe hơi thở nóng hổi của Quang sát bên mình. Anh đưa tay lên vuốt tóc Thu. “Vị ân nhân của Thu đây rồi - Thu nghĩ - ôi con người mới cao thượng làm sao! Nhưng… nhưng sao lòng Thu vẫn trống rỗng trước anh? Không, đây là chồng ta… dù xấu, dù tốt… đây là chồng ta rồi… Ta không thể học theo thói đời đen bạc… Ta phải yêu anh…”. Nghĩ thế, cô khẽ buông tiếng gọi, khẽ mà rất tha thiết: “Anh! Em… em cám ơn anh…”.
- Có gì mà cám ơn - anh đáp - anh đã yêu em từ cái hồi còn đang học lớp bảy. Chỉ cần… - anh ngập ngừng một lát rồi tiếp - chỉ cần em cũng yêu anh.
- Em cám ơn anh vì anh đã đến với gia đình em lúc hoạn nạn - Thu đáp lại sự trìu mến của anh - Nhưng anh ơi… anh đã đến… giữa lúc em… em không còn tình yêu nữa! Em sợ… không làm được anh vui lòng!
- Sao lại thế em? - Quang kéo chiếc ghế, ngồi sát vào Thu, quàng cánh tay ra ôm ngang người vợ mới cưới, thủ thỉ - Sao lại không còn tình yêu! Con tim chúng ta còn thì chúng ta còn tình yêu. Bão táp không thể dập tắt được. Em, em đừng buồn!
Thu thấy thương anh, người chồng và người ân nhân của cô. Cô không thể giấu lòng mình, càng không thể lừa dối anh. Anh đã ôm chặt Thu hơn, đã đặt những chiếc hôn nồng cháy lên má Thu, lên môi Thu. Thu chiều anh như chiều một ân nhân, nhưng sao lòng cô vẫn giá lạnh. Cô chẳng có một cảm giác gì ở những chiếc hôn ấy. Con tim cô cũng chẳng hề rạo rực trong vòng tay của anh. Mắt cô nhìn anh với lòng biết ơn, nhưng lời cô thỏ thẻ như van xin: “Anh ơi, hôm nay em… em đang… thấy “kinh”, cô nói rất nhỏ, dạo này em không ăn được, em mệt lắm…”. Quang đủ thông minh để hiểu ý vợ nói. Anh hơi ngỡ ngàng giây lát, rồi trả lời: “Em yêu quý, anh sẽ không bắt buộc em điều gì. Ôi, em hiểu lầm anh, nếu lấy anh chỉ vì nhục dục thì anh đã chọn một cô béo tốt, xác thịt hơn em”. Anh nghe Thu nói sẽ: “Em xin lỗi anh!”. Anh lại ôm lấy người Thu, nhìn vào mắt Thu âu yếm: - Em gầy lắm, hồi em còn đi học em có gầy như thế này đâu. Em còn phải nghỉ ngơi, ăn uống tốt hơn hàng tháng mới lại người được”. Thu đã thấy anh thành người lớn. Anh có vẻ chững chạc hơn trước kia nhiều, mặc dầu người anh vẫn thấp bé, trông chẳng có cái vẻ mạnh mẽ của một người đàn ông. Thu chẳng an ủi anh được lời nào thêm nữa. Gần sát anh mà lòng Thu vẫn như khô cạn. Cô lại nhớ đến lời chị Hiền bình phẩm về anh: “Nhất lé nhì lùn”, nhà cái anh ấy trông người như thế thôi, nhưng khôn phải biết! Rồi sau này anh ta khá bằng chán vạn những thằng Đội cải cách cho mà coi!”.
Thu yên lặng nghe anh tâm sự những dự định tương lại, cố gắng để anh không phát hiện ra cái cảm giác trống rỗng và hờ hững trong lòng mình. Anh nói:
- Để ít lâu nữa cho nó dịu cái không khí bất lợi này, anh sẽ lên tỉnh học cho hết lớp chín để thi vào dự bị đại học. Anh quyết tâm sẽ thi vào Đại học y, sẽ trở thành bác sĩ. Bố anh làm thuốc, anh phải theo nghiệp của bố “trị bệnh cứu người” để không bao giờ làm hại ai. Làm giàu thì anh không biết “lên gân”, cũng kém đường luồn lách, chẳng thể so sánh với người ta được.
Thu biết những mơ ước của anh còn xa vời lắm, nhưng nó trong sáng biết bao! Nó cũng đượm những chua xót của thời cuộc. Ôi, tương lai anh là bác sĩ, chồng cô là bác sĩ như cái ông bác sĩ Hoàng học ở Pháp về, nổi tiếng cả vùng! (Thời ấy bác sĩ còn quá hiếm hoi, cả huyện mới có một người). Cô sẽ được vinh dự biết bao! Nhưng sao lúc này lòng cô vẫn chẳng mảy may xúc động. Quang hình như cũng đoán ra điều ấy nhưng anh lại cho là vì cô mệt yếu. Anh chấm dứt những lời tâm sự và giục Thu đi ngủ. Anh nói toàn lời đáng yêu: “Anh sẽ nằm bên em, canh cho em ngủ!”. Thu nghĩ: “Cái con người thấp bé này quả là có nghị lực chứ chẳng phải là những lời nói đùa!”. Bỗng anh nhớ ra điều gì, anh nói:
- À Thu này, em có một lá thư!
Anh rút trong túi áo ra một phong bì nhỏ không dán tem, đưa cho Thu. Cô hồi hộp hỏi: - Thư của em à? Ai gửi thế anh?
- Suýt nữa thì anh quên mất. Thư gửi tay em ạ. Lúc tối khi em ra đi, thằng Thủy nó khóc dữ quá, anh phải ở lại một lúc lâu để an ủi mẹ cho mẹ đỡ buồn và dỗ nó. Đám cưới vừa đi khỏi thì có một anh cán bộ cũng đã lớn tuổi, hình như trước kia anh là cán bộ huyện, vào nói là có người gửi cho em lá thư, bảo phải đưa tận tay cho em. Anh ta lấm lét nhìn trước nhìn sau rồi phân trần: - “Tôi phải đi ngay! Thông cảm! Thông cảm!”. Chắc hẳn anh ta sợ có người biết lại cho là “liên quan”.
Thu vồ lấy lá thư trong tay anh. Cô đọc những dòng chữ ngoài bì: “Gửi cháu Lê Thị Thu, thôn, xã… huyện…”. Góc bên trái ghi rõ tên người gửi: “Bác: Nguyễn Thành Đạt”. Mắt cô bỗng sáng bừng lên, cô nửa lo nửa mừng, kêu lên: “Thư bác Đạt!”.
Cô xé phong bì lôi tờ thư ra đọc ngấu nghiến:
“… Việc cha cháu bị oan, bác đã phản ảnh lên nhiều cấp. Nhất định không sớm thì muộn sẽ phát hiện và sửa sai. Cháu hãy tin ở bác: việc gia đình của cháu cũng là việc của bác, cha cháu là đồng chí của bác! Nỗi oan của cha cháu liên quan đến những sai lầm nghiêm trọng khác mà Trung ương đã biết… Nhưng cháu phải kiên nhẫn chờ đợi ít lâu nữa. Bởi vì… trong phong trào phát động quần chúng cải cách ruộng đất vừa qua, tất cả mọi cán bộ, mọi người có tâm huyết đều phải ủng hộ cuộc đấu tranh của nông dân. Trước khí thế của phong trào người ta khó nhìn thấy cái sai… Trong hoàn cảnh đó, mọi hành động nóng nảy, vội vàng sẽ không được người ta hiểu rõ và đồng tình, sẽ làm tăng thêm hiểu nhầm và sẽ dẫn đến thất bại!... Đấy, cháu thấy đấu tranh cho cái đúng khó thế đấy… Nó đã gây tổn thất to lớn như trường hợp của cha cháu. Bây giờ nếu không biết kiên trì và chờ đợi thì lại gây ra những tổn thất khác nữa. Cháu nên nhớ rằng “cách mạng không phải là con đường bằng, mỗi thắng lợi của nó phải đổi bằng xương máu và cả những nỗi oan nghiệt!”. Nhưng cách mạng là lẽ phải và đấu tranh cho lẽ phải, cho sự tiến bộ cũng thế thôi. Nó đầy rẫy những hy sinh, cháu ạ. Có điều là người lãnh đạo phong trào mà giỏi, có trí tuệ thì sẽ tránh được những tổn thất không đáng có như trường hợp của cha cháu và hàng trăm ngàn trường hợp khác tương tự…”.
“Cháu Thu! - Lá thư viết tiếp - Bác đã suy nghĩ nhiều, bác thấy không thể giấu cháu tin này, cái tin sẽ làm cho cháu đau khổ thêm nữa…”. Mặt Thu dần dần tái nhợt. Nỗi lo sợ lại vẫn đuổi theo cô! Thu như nuốt từng lời thư bác Đạt: “… Hãy dũng cảm lên con nhé - bác lại đổi cách gọi Thu trong thư - bác tin ở con, con gái ngoan và có nghị lực của bác. Con đã được tôi luyện một phần trong cuộc chiến tranh vĩ đại chống thực dân Pháp xâm lược vừa qua! Con hãy đứng vững trong hòa bình, rồi ngày vui sẽ về với con, mọi oan trái sẽ bị khuất phục trước ý chí và lòng kiên nhẫn của con…”.
Lời thư của bác như những tia sáng bừng lên trong đầu Thu. Rõ ràng nó tiếp cho Thu nguồn nghị lực mới. Những lời lẽ xuyên thấu tâm tư tình cảm của Thu nó mới hào hùng làm sao! Tuy nhiên nó vẫn làm cho Thu hồi hộp quá mức, một nỗi hồi hộp kèm theo lo lắng tăng theo những dòng thư tiếp theo: “…Bác đã tốn nhiều công phu đi tìm Trần Sơn cho cháu. Gần đây bác đã tìm ra nó, nhưng khốn thay, bác không hiểu sao nỗi oan nghiệt cũng đã giáng cả lên đầu nó… Nó cũng bị tình nghi là “phản động” chui vào hàng ngũ cán bộ cải cách ruộng đất để phá hoại. Nó đã bị bắt giải về xã từ mấy tháng nay…!”. Một tin sét đánh làm Thu choáng váng! Ôi, những nỗi oan nghiệt chưa rời bỏ Thu, chưa chịu buông tha Thu. Sao nó lại đến với Thu giữa lúc này? Thu lo sợ đến toát cả mồ hôi. Cô cố gắng đọc tiếp: “… Con đã chịu đựng quá nhiều đau khổ, con gái bé bỏng và không may của bác, được tin này con lại phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa. Nhưng con hãy tin ở bác. Bác sẽ trả Sơn về cho con. Hơn một năm nay nó cũng đã viết cho con hàng chục lá thư, nhưng chắc là người ta không chuyển đến tay con, cũng y như thư con viết đi đã không lần nào đến tay nó. Đang trong phong trào đấu tranh chống địa chủ và phản động, người ta không chuyển thư cho những người bị tình nghi là dĩ nhiên thôi con ạ…”.
Mắt Thu bỗng hoa lên. Những ngón tay như bị tê cứng lại. Cô để rơi tờ thư xuống mặt bàn. Trời ơi, Sơn vẫn chờ cô! Sơn đã bị bắt, bị tình nghi là phản động! Sao cái tin ác nghiệt này lại đến vào giữa đêm cô mới cưới! Giá mà nó đến sớm với cô một ngày hay một buổi, cô đã kịp hoãn lại cái đám cưới này lại. Nhất định cô hoãn lại, sẽ xin lỗi gia đình Quang và cả Quang nữa. Cô sẽ tìm mọi cách đền ơn cho Quang. Nhưng than ôi, giữa lúc Sơn bị nạn thì cô đã nghi ngờ Sơn, đã quên Sơn, đã bước về một gia đình khác. Bên cạnh cô lúc này là một người chồng khác, một người chồng đầy lòng nhân ái đang vuốt ve cô. Nhưng sao Thu vẫn cảm thấy tình cảm chân thành của Quang so với Sơn nó mới bé nhỏ làm sao! Nó trong sáng nhưng không có sức nặng trong lòng Thu. Nó tha thiết nhưng không đi được vào bề sâu tâm khảm của Thu. Giờ này chắc Sơn vẫn đang nghĩ đến Thu, vẫn mang nặng trong lòng hình ảnh Thu. Ôi, mối tình sâu lắng và đầy ý nghĩa của cô! Cô đã phụ bạc nó rồi! Cô phụ bạc Sơn rồi! Cô là con người bất nghĩa! Cô nấc lên, gục đầu xuống bàn, nước mắt đã ráo hoảnh từ chiều bây giờ ở đâu lại trào ra như suối. Quang ngỡ ngàng trước sự thay đổi đột ngột của Thu. Anh nhặt lá thư vừa rơi khỏi tay Thu lên. Cô nói qua nước mắt: - Anh đọc đi! - Rồi cô lại gục xuống bàn.
Quang đọc nhanh lá thư. Anh đã hiểu ra điều gì vừa xảy ra đến với người vợ mới cưới. Anh an ủi Thu:
- Quên chuyện cũ đi em! Không cần đến họ nữa! Mấy cái ông đội ấy! Họ quy dân là phản động, bây giờ họ lại quy lẫn nhau là phản động!
Bỗng Thu đứng lên, lau khô nước mắt, nhìn thẳng vào Quang thương xót:
- Anh tha tội cho em…
- Sao thế em, em có tội gì?
- Em có tội lớn với anh…, em… em… phải… phụ bạc anh rồi!... Em phải về… với mẹ em… ngay bây giờ!...
Cô đi ra phía cửa buồng, mở then cửa với vẻ kiên quyết lạ kỳ, cô lao người ra bóng đêm mờ trăng. Cô mở cổng và vụt ra, chạy như bay trên con đường hoang vắng giữa đêm khuya. Tiếng Quang chạy theo gọi thất thanh: “Thu…uu…u!…”.
Phần Hai: Nửa đêm nhà cháy
I
Tháng sáu năm 1956! Ngọn lửa của phong trào cải cách ruộng đất, nhất là của đợt năm rộng lớn này, đang bốc cháy ngùn ngụt khắp đồng bằng miền Bắc giải phóng. Như một trận động đất khổng lồ làm rung chuyển đến tận hang cùng ngõ hẻm, tận bụi cỏ khóm cây, cái xã Tân Phong thuộc vùng vành đai trắng bị giặc Pháp càn quét chà đi chà lại nhiều lần trước kia, nay cũng đang nổi sóng gió như toàn huyện Thanh Miện này.
Lẫn lộn trong những thắng lợi của cuộc kháng chống phong kiến được phát động từ mấy năm nay, những sai lầm trầm trọng và kéo dài từ các đợt giảm tô, các đợt cải cách ruộng đất trước, cho đến những sai lầm nối tiếp trong việc chấn chỉnh tổ chức làm cho không khí đợt năm này trong toàn huyện càng căng thẳng thêm. Lòng căm thù địa chủ bóc lột lẫn trong những nỗi lo sợ và nghi kỵ lẫn nhau thấm đến từng gia đình, từng người lớn và cả từng đứa trẻ con.
Xã Tân Phong cũng như nhiều xã khác ở vùng vành đai trắng hồi địch chiếm, sôi sục như một vạc dầu khổng lồ. Cả xã đang ngụp lặn trong cuộc “truy địch” căng thẳng, liên tục và khẩn trương, thật đáng sợ! Buổi trưa, buổi tối, hàng xóm không ai dám gọi nhau sang uống nước chè nói chuyện như mọi khi. Bao nhiêu cán bộ quen thuộc trong xã giờ đây như đã mất hết tác dụng. Cả những cán bộ chống càn giỏi nhất hồi còn địch, được cả xã biết ơn, nay cũng đang run sợ trước những anh đội từ nơi xa về xã. Họ sợ bị tố oan, tố điêu, đi họp chi bộ trước kia bị nghi là đi họp kín, mà họp kín thì chỉ có bọn “phản động” chui vào hàng ngũ cán bộ Đảng để phá hoại, để chỉ điểm! Chi bộ Đảng hầu như tan rã. Chính quyền xã bị vô hiệu hóa. Tất cả chỉ còn Đội cải cách và một số cốt cán bần cố nông, đa số mới lớn lên, chưa am hiểu việc làng xóm. Trong số cốt cán Đội bắt rễ chỉ còn có một mình Nguyễn Văn Tiến là cán bộ cũ của địa phương. Đội không truất được Tiến vì anh là bộ đội tham gia trận Điện Biên Phủ bị thương trở về. Tiến năm nay cũng đã hai nhăm tuổi, cái tuổi ở vùng này đã có vợ con hết, riêng anh nhà nghèo, lại là thương binh về làng nên vẫn ở một mình nuôi mẹ. Anh cũng là một trong số ít đảng viên đầu tiên của chi bộ xã này do anh Trần Sơn kết nạp. Sau này vào quân đội, được học tập và rèn luyện trong tập thể nên trở thành người có nhiều hiểu biết hơn các cán bộ xã hiện nay. Còn những anh đội cải cách về làng thì nhiều anh so với anh còn quá trẻ và bồng bột. Có người chưa phải là đảng viên, nhưng họ lại có quá nhiều quyền hành, đến nỗi bản thân anh dù là thương binh cũng phải sợ họ. Trong Đội không phải là không có người giỏi. Có anh đã làm đến tuyên huấn tỉnh, có anh là cán bộ giáo dục ở một Sở, có anh là một vị y sĩ đã ngót bốn chục tuổi đầu. Chắc chắn họ nhiều kinh nghiệm cuộc sống hơn đội trưởng, đội phó, có khi trình độ hơn cả mấy ông Đoàn ủy nhưng hình như họ không được người ta chú ý đến. Tiến nghe nói các cơ quan cấp trên cử họ vào các Đội cải cách để “học tập cải tạo tư tưởng tiểu tư sản!”. Thành thử họ chả dám nói năng gì. Có nói cũng chẳng ai nghe. Họ chỉ được giao những công việc theo dõi sản xuất, đi “ba cùng” với nông dân hay làm thư ký cho đội trưởng, đội phó, những người thực ra chưa xứng đáng là học trò họ.
Buổi tối hôm ấy, Tiến được phân công gác bảo vệ cuộc họp của Đội. Họ bàn phương án truy kích thêm địch. Ánh đèn luồn qua khe cửa. Cuộc họp kéo dài, những lời phát biểu gay gắt kích thích tò mò của Tiến, cái tính tò mò có lần đã bị Đội phê bình là vô nguyên tắc. Anh muốn biết họ định truy những kẻ địch nào sắp tới. Biết bao nhiêu cán bộ xã đã bị nghi ngờ, bị khai trừ oan. Bây giờ sẽ đến lượt ai đây? Trời tối không trăng, cách nhau vài chục mét không nhìn rõ mặt người. Tiến lia chiếc đèn pin trong tay xung quanh ngôi nhà đang họp để cảnh giới kẻ gian rồi nhanh nhẹn chạy lại phía chái nhà, thu hình ngồi áp tai vào vách.
Tiến nghe tiếng nói của anh phó phụ trách tòa án vọng ra: “Sáng mai, tất cả các đồng chí phụ trách các xóm phải huy động quần chúng đi dự phiên tòa cho đông, để chứng kiến việc thi hành bản án tử hình này...!”. Tiến giật mình! Lại một bản án tử hình! Tên cường hào gian ác nào phải đền tội ngày mai? Tiến thấy trong lòng mình nổi lên một mối băn khoăn khó tả. Thử đoán ra xem nào? Tiến điểm tên từng thằng địa chủ còn lại. Không đứa nào đáng tội chết. Những tên chạy theo giặc hồi giặc đóng đồn bốt gần làng đã bị trừng trị đích đáng ngay hồi kháng chiến trong công tác “diệt tề trừ gian”. Một vài tên sống sót có nhiều tội ác, ngày hòa bình lập lại đã vội vàng chuồn vào Nam. Còn vài tên địa chủ bóc lột địa tô, nợ lãi - tuy không có họ cho vay thì dân nghèo lúc giáp hạt, tháng ba ngày tám đói ăn chẳng biết vay ai - tội chẳng đáng bắn thì cũng đã phải đền tội bằng các hình phạt khốc liệt ấy ngay từ đợt giảm tô để làm gương! Không còn tên nào đáng tội chết. Tiến tự hỏi mình: “Tại sao ta lại phải lo lắng cho bọn địa chủ? Ta là cốt cán nhưng lại chưa tin ở bần cố nông chăng? Ta đã rời bỏ lập trường ủng hộ nông dân chăng?”. “Không!” - Tiến tự trả lời. Chỉ vì những anh đội từ các nơi khác về xã Tiến với lòng căm thù đầy ắp đối với địa chủ đã bắt rễ vào nhiều người cố nông quá đần độn, họ được các anh cho là “trong sạch” nên mới đến nông nỗi này. Trong số người bị tình nghi là địch, bị bắt, có nhiều đồng chí của Tiến, đã cùng nhau trong đội du kích xã trước kia. Cái hồi ấy thì mấy anh cốt cán được bắt rễ hôm nay còn vắt mũi chưa sạch, họ có biết gì đâu mà cũng tố! Một người, hai người bị can không nói làm gì, nhưng nay cả chi bộ hầu hết đã bị nghi ngờ. Cái chi bộ đầu tiên đã kết nạp Tiến, đã sống chết có nhau trong những ngày chống càn, giờ đây bị vu oan là chi bộ của địch! Ai là người trong số bị tình nghi đang bị giam giữ kia sẽ bị án tử hình? Là đồng chí bí thư hay đồng chí xã đội trưởng, người anh hùng chống càn hồi kháng chiến? Liệu Tiến có thể bình chân như vại, bỏ mặc đồng chí mình trong cơn hoạn nạn? Đang phân vân suy nghĩ thì Tiến lại nghe những lời đanh thép của Lê Phú - Đoàn ủy viên đoàn cải cách ruộng đất phụ trách cụm này (ông mới đi ô tô về lúc chiều để lãnh đạo cuộc họp quan trọng này): “Có thi hành án tử hình tên Trần Sơn thì khí thế của quần chúng mới lên được! Nếu để tên Trần Sơn thì khí thế của quần chúng còn bị khống chế, tổ chức phản động của chúng sẽ không bị phát giác hết, hàng ngũ chúng sẽ không bị tan rã về căn bản!...”. Nghe đến đó, Tiến toát hết cả mồ hôi. “Thi hành án tử hình tên Trần Sơn!”. Chao ôi, Tiến không ngờ tới, không bao giờ có thể ngờ tới. Sơn bị án tử hình thật ư?! Thế thì còn trời đất gì nữa, còn lẽ phải gì nữa! Hay Tiến nghe nhầm? Hay tai Tiến đã bị ù? Tiến ghé sát mắt vào một lỗ thủng nhỏ ở bức vách bằng tre trát vôi rơm lâu ngày đã loang lổ. Tiến nhìn thấy anh cán bộ là y sĩ lớn tuổi lộ hẳn vẻ băn khoăn, anh hỏi ông Đoàn ủy: “Nhưng gia đình Trần Sơn là trung nông lớp dưới, thuộc thành phần nông dân lao động, tại sao lại duyệt án tử hình nó?”. Ông Đoàn ủy trả lời: “Phải xem lại cái thành phần trung nông của tên này. Trung nông lớp dưới mà đi học đến tận đệ tam, đệ tứ Trung học thời Pháp, lại có thể ra tận Hà Nội học trường Thăng Long?”. Anh đội y sĩ cãi lại: “Thời thuộc Pháp thiếu gì con nhà nghèo có chí lại học lên được. Họ đi làm gia sư, dạy con nhà giầu để tự đi học…”. Gớm! Cái ông đội y sĩ mới to gan! Dám cãi lại cả Đoàn ủy! Ông ta liền chỉ tay vào mặt anh đội già hơn mình (anh y sĩ này chắc hẳn cũng con nhà giầu mới được học nghề y, ông đoán, đi cải cách cũng là để cải tạo), vừa trấn áp vừa giải thích: “Nói như vậy là chưa được! Anh không nên ngả nghiêng, ủng hộ nông dân nửa vời. Phải đứng hẳn về phía nông dân. Gia đình thằng này có là trung nông thì bản thân nó cũng không còn là trung nông nữa. Nó đi học từ bé ở trường Tây, nó đi theo cách mạng trở thành cán bộ nhiều năm là chui vào hàng ngũ cách mạng để phá ngầm. Bản thân nó có rất nhiều tội ác với nhân dân, nên cấp trên mới duyệt cho bắt giải nó về xã. Nó cũng không còn là cán bộ nữa. Cá biệt phải quy nó là thằng địa chủ cường hào gian ác đầu sỏ. Chúng ta phải dứt khoát như thế. Phải kiên định lập trường đứng hẳn về phía nông dân!”. Anh đội y sĩ cao tuổi đành phải ngồi im, cúi đầu xuống không dám nhìn ông Đoàn ủy nữa. Ắt hẳn anh cũng thấy cái thế của mình lúc này, lại thêm cái miệng lưỡi độc như rắn rết của con người! Nhưng lạ thay, chính những lời anh nói với Lê Phú, Đoàn ủy viên, lại làm thức tỉnh trong lòng Tiến những sự thật về Sơn. Nó cổ vũ tinh thần trách nhiệm của Tiến, thúc đẩy tính trung thực vốn có trong con người anh. Anh phải cứu Trần Sơn! Anh không thể để cho sự việc tàn khốc ấy diễn ra trước mắt anh. Anh vào bộ đội, chiến đấu vào sinh ra tử để làm gì nhỉ? Có phải để cho những người như Sơn phải tội oan. Cách mạng có dạy anh như thế đâu! Quân đội có dạy anh như thế đâu! Anh là “bộ đội Cụ Hồ” bị thương, nay phục viên về xã, anh phải xứng đáng với danh hiệu ấy. “Rồi nó ra sao sẽ hay” - anh nghĩ - bây giờ phải hành động khẩn trương. Không còn thì giờ để do dự nữa!”. Chiếc xe commăngca của ông Đoàn ủy mới đưa ông về lúc chiều, chốc nữa họp xong, mặc dầu đêm tối, ông vẫn lên xe vù về Đoàn. Thế là hết, còn ai có quyền sát con người to hơn ông ở cái vùng đang cải cách rầm rộ này? Tim Tiến đập rộn ràng. Tiến như sắp để mất một cái gì quý giá. Mất một người bạn, một đồng chí, hơn nữa một người anh. Đúng, Sơn không phải là anh ruột Tiến, nhưng Tiến vốn coi Sơn như anh cả, một người đáng kính. Không phải đáng kính ở học vấn của Sơn, ở trình độ hiểu biết của anh hơn hẳn Tiến, mà Sơn còn là người đã kết nạp Tiến vào Đảng, đã giúp đỡ Tiến trong công tác hồi còn ở xã. Sơn lại coi mẹ Tiến như mẹ mình, thăm nom mẹ lúc ốm đau, mua cho mẹ mấy quả cau, một liền trầu vì bà nghiện trầu, mỗi khi Sơn đi công tác tạt về qua nhà.
Năm 1951, cơ sở du kích toàn huyện đã vững vàng, Tiến thoát ly đi bộ đội. Còn Sơn thì được Khu ủy điều động đi xa. Thuở ấy, đang cần trao đổi kinh nghiệm chống càn nên cán bộ khu này thường được cấp trên chuyển sang khu khác công tác để kinh nghiệm được trao đổi và thực hiện tốt. Sơn được điều về Liên khu ủy Bốn rồi được bổ sung xuống huyện Nga Sơn, xây dựng công tác chống giặc càn quét ở mấy xã bị chiếm phía bắc huyện. Sau đó, Sơn lại được rút về Khu ủy rồi lại trở về khu Ba, nơi công tác cũ của mình. Hơn một năm nay anh được điều đi giảm tô, rồi cải cách ruộng đất đợt bốn và đợt năm. Những sai lầm nghiêm trọng nó cứ như một đám cháy nhà không được cứu chữa, nó lan rộng và gây thương vong ngày càng lớn. Sơn bị nghi oan, bị đình chỉ công tác rồi bị bắt giải về xã cho quần chúng xét xử! Ngày mai anh sẽ bị kết án tử hình! Cái án tử hình trong cải cách ruộng đất do các ông bà bần cố nông được phép xử nó mới cay nghiệt làm sao! Nó sẽ có hiệu lực ngay tức thì, nạn nhân không có quyền thanh minh, không có quyền bào chữa, không có cả quyền và thời gian để kháng án.