← Quay lại trang sách

(4)

Về đến nhà, vừa trông thấy mấy gian nhà tranh dột của mẹ con Thu, trông thấy bà Phan gầy võ, tiều tụy, trông thấy bàn thờ ông Phan quá sơ sài và tiêu điều, bác òa lên khóc. Bác khóc nấc lên: “Ối anh Phan ơi! Sao lại đến nông nỗi này, anh Phan ôi...i…ôi!”. Những giọt nước mắt như từ đáy lòng bác trào ra. Bàn tay bác run bắn lên, đốt mãi mới cháy được ba nén hương, bác cắm vào chiếc bát hương, rồi gục đầu hồi lâu xuống bàn thờ người đồng chí xấu số. Cả ba mẹ con Thu bật khóc theo bác. Chả biết bác gục xuống bao lâu, Thu chỉ còn nhớ khi bác ngửng lên thì chỗ tấm ván làm bàn thờ mà bác đã gục xuống, ướt đẫm cả nước mắt bác. Bác tháo chiếc khăn tay đang buộc ở xà cột chùi khô đôi mắt đỏ hoe. Phút chốc, Thu như thấy mái tóc bác bạc thêm ra, những nét nhăn hằn lên trên trán, trên má bác. Bác ngồi yên lặng, lắng nghe mẹ con Thu kể rành rọt về những tai biến đã qua, thỉnh thoảng lại lắc đầu thở dài. Bác nói một mình: “Hừm! Phản động!... Nếu anh Phan là phản động thật thì mình đã chết tám kiếp rồi! Thì cả cơ sở Huyện ủy tan nát hết rồi! Tan nát ngay từ cái ngày đang chiến tranh, chứ chẳng còn đến hòa bình này”. Bác lại nhớ đến thời gian về đây kiểm tra vùng du kích, đã hai lần bị giặc vây bất ngờ, đã hai lần đồng chí chủ tịch Phan bố trí cứu thoát. Bác quên sao được những ngày gian khổ ấy, những ngày mà bác và đồng chí Phan sống chết có nhau. Bác hỏi:

- Bao nhiêu cán bộ trong Huyện ủy công tác với bố cháu trước đi đâu mà lại để cho bố cháu bị oan?

Hỏi như thế nhưng bác Đạt cũng đã hình dung ra ngay cái tác dụng rất lu mờ của Huyện ủy, Tỉnh ủy trong cải cách ruộng đất, bên cạnh một tổ chức mới được thành lập có hệ thống từ trung ương xuống “Đoàn, Đội” mà uy quyền lấn át hết thảy, cái uy quyền mà quần chúng đã diễn tả bằng một câu nói mang nỗi khiếp sợ, nhưng ngắn ngủi “nhất Đội nhì trời”. Không khiếp sợ sao được khi mà Đoàn và Đội có mọi quyền hành, kể cả quyền bắn giết. Họ vừa nắm pháp luật, vừa giải thích pháp luật, lại vừa thi hành pháp luật. Họ vừa đá bóng, vừa thổi còi. Họ có quyền lập tòa án, có quyền bắt người và xử bắn ngay lập tức. Kẻ địch không có quyền nói lại một câu, không có quyền kháng án, kêu oan, còn nói gì đến quyền bào chữa! Cái nguy hiểm chết người nữa là: những ông chánh án, bà hội thẩm được chỉ định cũng như ông công tố trong các phiên tòa cải cách ruộng đất lại là những cốt cán bần cố nông dốt nát và chây lười mà Đội đã bắt rễ, có khi còn trẻ măng, mới lớn lên, chưa hề biết pháp luật là gì, lại có quyền kết án tử hình không thương tiếc những tên bị ghép là địa chủ cường hào hay phản động đương thời phá hoại! Ngay từ trong đợt ba cải cách, bác Đạt đã phản ảnh cái điều thắc mắc ấy với một số ông có cỡ, là thường trực Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương lúc bấy giờ (ông ta cũng có quen sơ sơ bác Đạt, biết nhau từ hồi còn công tác với nhau trong Khu ủy liên khu bốn, nhưng bây giờ thì ông bạn bác lên chức to hơn, quyền hành lại ngang trời, nên đối với bác, ông cũng tỏ ra khinh bạc hơn). Ông ta đả thông bác: “Anh như vậy là chưa tin ở bần cố nông. Bần cố nông khi được phát động, năng lực của họ sẽ rất to lớn, tính sáng tạo của họ sẽ rất cao. Không sợ họ quá tả. Chúng ta chỉ sợ họ hữu huynh, họ còn sợ hãi trước uy thế ngàn đời của địa chủ. Ta phải tin ở họ, phải phóng tay phát động họ. Họ sẽ biết hết, sẽ làm được hết… Không sợ! Mà nếu họ có quá tả một tí thì rồi ta uốn sau. Đồng chí nên nhớ: muốn uốn thẳng, người ta phải bẻ cong đi một tí!”.

Thời gian đó, ý ông ta đang là ý trời. Bác Đạt không cãi được ông ta. Lời giải thích hình như ông đã học thuộc lòng từ một cuốn sách dịch nào của nước ngoài nói về phong trào nông dân ở Hồ Nam.

Bác Đạt bỗng phàn nàn khe khẽ: “Cuộc đời lắm lúc cũng chả biết thế nào là đúng, thế nào là sai!... Miệng lưỡi người có quyền có gang có thép, họ nói thế nào chả đúng!”. Rồi bác kể:

- Hồi Pháp thuộc, bác làm cách mạng bị mật thám lùng bắt, bác đã trốn trong nhà cháu hàng tháng… Bố mẹ cháu đã giấu bác, đã nuôi… bác, bác không quên được…

Bác không nói hết câu. Trong trí bác hiện ra biết bao kỷ niệm không thể phai mờ đối với người đồng chí cũ. Bác thở dài: “Chỉ tiếc bác về thăm gia đình cháu quá muộn! Thì có ai ngờ sự việc nó lại ra như thế!”. Bác thấy như bên tai mình văng vẳng câu nói: “Thà tả một tí còn hơn hữu!... Rồi ta uốn sau!... Muốn nắn thẳng phải bẻ cong!”.

Ôi, cái thứ lý luận chết người! Cái lý luận coi rẻ tính mạng con người biết bao! Không biết tại sao nó lại xâm nhập vào đầu óc con người xứ này nhanh đến thế!

Bác nhìn Thu rồi lại nhìn rổ rau má bên cạnh, lòng bác thắt lại. Bác nghĩ lại cái ngày cách đây đã bảy, tám năm, lần đầu tiên bác trông thấy Thu. Bác giật mình vì nét mặt Thu rất giống đứa con gái bác. “Ồ, sao hai đứa nó lại giống nhau như hai giọt nước thế kia!”. Cũng đôi mắt tròn và ngây thơ ấy. Cũng đôi má lúm đồng tiền và cặp môi tươi hồng ấy. Cũng mái tóc và màu da ấy. Nhưng bác không bao giờ còn trông thấy đứa con út bác nữa! Bom napan của giặc thả xuống quê bác từ ngày đầu kháng chiến đã thiêu cháy mất giọt máu của bác. Hôm đó bác thấy con bác hiện trong nét mặt Thu. Bác đã nhìn Thu không chớp mắt. Hồi ấy Thu mới khoảng mười một, mười hai tuổi. Bác ôm Thu vào lòng, hôn lên mái tóc của Thu. Bác gọi Thu là “con” từ đấy. Cái hồi bác thay mặt Khu ủy về đây chỉ đạo công tác xây dựng cơ sở du kích, bác thường ở nhà Thu để tiện bàn công tác với bố, tối nào rảnh việc bác cũng kể chuyện cổ tích cho Thu nghe. Hình như bác rất sung sướng khi biết Thu cũng rất mến bác. Lần nào thấy bác đi công tác về, nó cũng reo lên mừng như mừng mẹ về chợ. Từ ngày ấy bác coi Thu như con. Bác vẫn gửi bánh kẹo cho Thu như hồi còn nhỏ mỗi khi có cán bộ trên khu về. Thu còn nhớ rõ lắm, hồi bác ở nhà Thu, thời còn kháng chiến, mỗi buổi tối trăng lên, mùa hè, hai bác cháu lại trải chiếu ra mảnh sân nhỏ trước nhà, ngồi ngắm trăng chờ gió đến. Những buổi tối ấy, bác Đạt đã kể cho Thu nghe bao nhiêu là cảnh đẹp của tỉnh Thanh quê hương Thu này. Nào là bờ biển Sầm Sơn có bãi cát phẳng lì, bãi tắm lý tưởng, có những đồi thông vi vút, những lâu đài tráng lệ. Nhưng ngày xưa nó không còn là của Tổ quốc ta nữa. Bọn Tây thực dân đã chiếm làm của riêng. Bọn chúng ngự trong những lâu đài ấy, chiếm bãi biển ấy, người Việt Nam đừng có mà bén mảng đến. Nào là cảnh rừng Lam Sơn nơi vua Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh thời xưa, có những lối mòn đầy hoa thơm cỏ lạ sặc sỡ hai bên, có lăng tẩm, đền miếu lẫn trong cây cỏ… Chim muông đến đó làm tổ và dứa mọc thành rừng… Nào là cảnh động Từ Thức ở ngay chính huyện này, trên dãy núi xanh phía bắc huyện, nơi giáp ngay với đồn bốt giặc đang hàng ngày nã pháo vào các làng xóm yên lành xung quanh. Bác nói cái động ấy là một công trình kỳ ảo của thiên nhiên. Muốn vào đó phải đốt đuốc để đi. Người ta có cảm giác như lạc vào một động tiên, trong đó các khối thạch nhũ như đã có một bàn tay thần nào tạo thành những mảng điêu khắc tuyệt diệu: đây là nơi Phật tụng kinh, nơi Tiên đánh cờ, kia và vựa thóc, là kho muối, là kho tiền. Lại có cả ao sen, ao bèo, nơi rồng ấp trứng, nơi chim làm tổ… Nơi đó ngày xửa, ngày xưa Từ Thức đã gặp nàng tiên xinh đẹp. Bác còn kể nhiều nữa. Nghe bác kể, Thu như thấy mình được đi chơi khắp nơi, khắp chốn. Bác còn tả những dòng suối uốn khúc khi ẩn khi hiện của núi rừng Việt Bắc; những lâu đài lăng tẩm ở Huế? Những dãy phố đầy bóng cây của Hà Nội cùng với hồ Hoàn Kiếm, vườn hoa Ba Đình ngày đầu khởi nghĩa. Rồi bao giờ bác cũng kết luận: “Đấy, đất nước của bác cháu ta đấy! Nó đẹp đẽ và bình yên như thế, nhưng bọn thực dân Pháp đã cướp mất cả. Chúng chiếm Hà Nội, Sài Gòn và những thành phố lớn. Chúng chiếm cả đồn điền, hầm mỏ của ta. Chúng biến bãi biển Sầm Sơn, biến cả biết bao cảnh đẹp của non sông ta thành của chúng. Khi Nhật sang, chúng đã chẳng bảo vệ ta lại bán đất nước ta cho Nhật. Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân ta vùng dậy lấy lại nước ta từ trong tay Nhật. Bây giờ chúng lại cướp nước ta một lần nữa. Bác cháu ta đang phải đánh đuổi chúng đi đấy!”. Thời Thu còn nhỏ hơn, bác đã kể cho nghe bao nhiêu là chuyện lạ trên đời. Nào là chuyện “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa”, chuyện “Tấm Cám”, nào là chuyện “An Dương Vương xây Loa thành”, chuyện “Phù Đổng thiên vương”.

Lớn lên Thu nghĩ, không biết đời Thu sẽ trống trải như thế nào nếu lúc bé Thu không được nghe những lời ru rất hay của mẹ, những lời ru mà Thu còn thuộc lòng cho tới nay, không được nghe những câu chuyện cổ tích của bác Đạt và của cả bố Thu!

Bây giờ bác đang ngồi trước mặt Thu đây. Bác là người đồng chí già của bố Thu, bác hiểu rõ gia đình Thu hơn ai hết. Thu vội vàng vào buồng lục trong chiếc cặp sách cũ, lôi ra một đống đơn từ cô đã viết sẵn từ bao nhiêu ngày trước, cô đem ra ấn vào tay bác Đạt, làm cho bác cũng ngạc nhiên. Cô nói như một cái máy:

- Cháu van bác! Bây giờ cháu chỉ biết trông vào bác. Bác hãy nộp những lá đơn này đi khắp nơi giúp cháu lên Tỉnh ủy, Khu ủy, lên Trung ương, lên Bác Hồ để Bác thấu cho cái oan của bố cháu!

Thu thấy hai bàn tay bác run run, bác hơi luống cuống:

- Sao lại “van bác” con!... Con… con là… con của bác… Bác sẽ thay cha con để chăm sóc con… Đây là việc của bác. Việc chính của bác, con không phải nhờ...!

Bác cầm lấy những lá đơn mà lòng tê tái. Hai bác cháu lại ngồi yên lặng rất lâu. Thu bỗng nhớ ra câu chuyện cha kể trước kia, cô nói với bác: - Bố cháu trước khi chết có kể cho cháu nghe rằng: Hồi khởi nghĩa năm 1945, có bác Lê Văn Hiến cũng là cán bộ của Đảng đi kinh lý vào tỉnh Quảng Ngãi, cũng bị tình nghi là phản động tay sai địch rồi bị kết án tử hình. Bác đã bình tĩnh và kiên trì giải thích ngay khi đã bị trói vào cột đem bắn. May sao có người đề nghị hoãn lại, bác Hiến mới thoát chết. Bố cháu bảo bố cháu không gặp may như bác Hiến, nhưng cũng chỉ là một trường hợp hy sinh như thế mà thôi…

Nghe Thu nói, vầng trán bác răn thêm lên, đôi mắt nhìn ra xa nghĩ ngợi. Những nếp gấp hai bên má lằn hẳn lên như khắc thêm nỗi đau khổ trên nét mặt già sạm nắng. Không còn nghi ngờ gì nữa. Qua những lời nói của Thu, qua sự suy nghĩ chín chắn hồi lâu, bác đã thấy rõ nỗi oan của người đồng chí cũ. Bác lẩm bẩm một mình: “Đó là tinh thần và dũng khí của một người cộng sản!”. Rồi bác an ủi mẹ Thu. Bác khuyên răn Thu. Giọng bác nói mỗi lúc một tha thiết. Bác kéo Thu ngồi sát vào mình, vuốt tóc Thu, bác dặn:

- Dũng cảm lên, con! Con đã mất một người cha, bác cũng mất một người đồng chí! Thôi nín đi con! Đừng khóc nữa, bác buồn lắm! Con phải biết sống thẳng thắn, dù có nhiều kẻ không ưa, chết kiên cường, dù là oan nghiệt, như bố con đấy!

Nói xong, bác lặng lẽ mở xà cột, rút từ trong chiếc ví con ra một tập giấy bạc đưa cho Thu:

- Bác cho con số tiền này. Đấy là tiền lương của bác. Con cầm lấy mà sinh sống qua lúc khó khăn này.

Chao ơi! Có bao giờ Thu lấy tiền của bác. Bác là cán bộ, bác nghèo! Bác lấy đâu tiền cho Thu. Thu nhận, bác sẽ phải thiếu thốn, sẽ phải chịu đựng khổ hơn nữa… Hình như đoán biết ý Thu, bác nói khẽ:

- Đừng lo con, bác còn tiền. Trước kia bố mẹ con đã nuôi bác những ngày bác phải trốn mật thám Tây, đã san sẻ cho bác từng bát cơm, từng manh áo.

Bác bỏ tiền vào rổ rau Thu đang nhặt, rồi an ủi mẹ Thu một lần nữa trước khi bác ra đi. Cứ như trước thì chắc chắn bác sẽ ở lại nhà Thu qua đêm, nhưng bây giờ thì bác không thể ở được nữa rồi. Trời đã về chiều bác vẫn ra đi, lòng nặng trĩu ưu tư.

Khi bác đã dắt chiếc xe đạp sắp đi ra cổng. Thu mới vội vàng nhớ ra:

- Thưa bác, bác có biết anh Trần Sơn bây giờ công tác ở đâu không?

Nghe câu hỏi bác “à” lên một tiếng rồi bác nói luôn:

- Bác cũng quên không kịp hỏi con. Thế… cậu ấy… Trần Sơn ấy, không có liên lạc gì với con à?

Thu kể cho bác nghe việc bặt tin tức từ gần hai năm nay của Sơn, những lá thư gửi đi không có trả lời và sự chờ đợi. Bác đã được biết việc đính hôn của Thu với Sơn từ lâu. Ông Phan, hồi còn làm chủ tịch huyện đã cho bác biết và hỏi ý kiến bác, bác đã vừa cười vừa nói: “Tiếc quá, tôi không còn đứa con trai nào chưa vợ ngang tuổi nó làm rể anh. Con Thu nhà anh nó ngoan quá. Nhưng mà cậu Sơn được đấy. Nó có trình độ và tư cách tốt đấy!”. Bây giờ thì trước những tai biến dồn dập đối với Thu bác chẳng biết trả lời thế nào. Bác nghĩ: “Cũng có thể nó không nhận được những lá thư ấy. Cũng có thể nó sợ “liên quan địa chủ”, nhất là lại địa chủ phản động mà cắt bỏ việc đính ước như chán vạn người khác xử sự lúc này. Nhưng mà… cái thằng ấy!... Ừ, nó không đến nỗi thế!”. Bác nói với Thu:

- Từ ngày hòa bình lập lại, Sơn nó không còn công tác ở khu Bốn với bác nữa. Nó trở về khu Ba. Nghe nói cũng đã gần hai năm nay nó đi tham gia giảm tô, cải cách ruộng đất ở khu Ba ấy. Có người gặp nó ở trường cải cách ruộng đất của Liên khu mở ở Sơn Tây. Nhưng đã lâu rồi, bây giờ bác không biết nó công tác ở đâu. Để rồi bác sẽ tìm xem nó ở đâu?

Nghe bác nói, tự nhiên Thu thấy lo lắng và bồn chồn lạ. Hình như linh tính Thu báo có một sự gì chẳng lành đã xảy ra giữa Sơn và cô. Giữa cái lúc sóng gió này ai biết đâu mà nói biết đâu mà nói trước. Ôi cuộc đời sao đầy tai biến! Sơn cũng đi cải cách! Trời mà biết được anh đã thay đổi ra sao! Anh có đấu tố và hò hét một chiều như mấy anh đội đáng sợ đã về xã Thu không? Anh có làm khổ những người phụ nữ như cô không? Chà, anh là người vững vàng, kiên định, rất có thể anh đã cắt đứt với Thu để lấy một cô cốt cán cố nông nào đó đã làm xúc động lòng anh vì những nỗi khổ cô đã phải chịu. Bao nhiêu ý nghĩ đến dồn dập mang theo những thất vọng, lo âu chồng chất dội vào lòng Thu. Cô muốn hỏi bác Đạt: “Bác ơi, bác và anh Sơn đi làm cách mạng là để đem lại hạnh phúc cho dân hay là… lại chồng chất những nỗi lo âu, những bất hạnh lên đầu những người dân khốn khổ như mẹ con cháu?”.

Không hiểu sao Thu kịp nhận ra ý nghĩ ấy là đã xúc phạm đến bác, đến Sơn, đến bao người có tâm huyết khác. Cô nén nỗi uất ức kìm câu hỏi lại. Bác Đạt như đoán được một phần ý nghĩ của Thu, bác rút khăn thấm cặp mắt hoen ướt, nghẹn ngào nói trước khi lên xe:

- Bác sẽ tìm nó cho con. Dứt khoát bác sẽ tìm được nó. Bác sẽ bảo nó về thăm con, có thể nó chưa biết…

- Không, bác ơi! - Thu kiên quyết nói - Nếu anh ấy đã lấy người khác thì bác không cần nhắn nữa! Con xin bác! Bác không cần nói gì hết!

- Can đảm lên con! Đừng thất vọng, con người mà thất vọng thì sống sao nổi con. Bác tin cậu Sơn… không đến nỗi nào…

Thu đứng ngẩn người nhìn theo bác Đạt khuất dần sau rặng tre trước cổng. Hình như bác lại rút khăn mặt lau nước mắt…

Vầng trăng vàng bệch đầy sương trông lờ mờ hoen ố, rãi một thứ ánh sáng lạnh và loãng thếch xuống mảnh sân đất nhỏ hẹp trước nhà Thu. Giữa sân, một chiếc nong tre rách ngả xuống làm chiếu. Sáu, bảy người vừa đàn ông vừa đàn bà ngồi chen trên chiếc nong ấy. Ngọn đèn dầu hỏa vặn nhỏ để bên cạnh chiếc điếu cày. Bốn, năm chiếc bát uống nước để lỏng chỏng trên một tấm ván nhỏ bên cạnh. Họ nói chuyện rì rầm, không dám nói to. Tất cả đều có vẻ lén lút, sợ sệt. Đó là những người đại diện cho hai họ. Tối nay họ đi đưa cô dâu về nhà chồng. Một đám cưới không hoa, không pháo, lạc lõng giữa làng xóm đông đúc.

Cái đám cưới kể cả chú rể và cô dâu vẻn vẹn chỉ có chín người ấy sắp đến giờ khởi hành. Người ta chuyền tay nhau chiếc điếu cày hút một lần nữa rồi đứng dậy. Một ông cụ già, ý chừng chủ hôn, lên tiếng giục: - Thôi ta đi đi. Trời tối rồi, lại sáng trăng mờ, đi đường ít gặp người, chẳng còn ai nhìn ngó, dè bỉu nữa mà sợ. Chỉ có cái điếm canh đầu xóm thì đã báo cáo với du kích từ chiều, lại đã được Ủy ban đồng ý rồi. Chà! Con địa chủ lấy nhau, ai trông thấy nó cũng nhổ bãi nước bọt quay đi. Càng kín đáo càng hay.

Một bà nói:

- Chị Hiền, chị vào bảo cháu Thu nó ra đi thôi.

Ông cụ già vào trong nhà đến bên bà Phan, xoa xoa hai bàn tay vào nhau: - Để chúng tôi xin phép bà đưa cháu về bên ấy. Từ nay hai nhà như một, cháu sẽ về luôn bên này thăm bà. Thôi thì trăm sự nhờ trời cầu cho sau này đời các cháu khỏi khổ. Bao nhiêu cay đắng người làm cha, làm mẹ chịu cả cho các con rồi!

Người ta xúm quanh bà Phan thi nhau an ủi:

- Rồi cũng có lúc trời quang mây tạnh, ông nhà sẽ được giải oan.

- Cũng là cái vận, cái hạn nó sinh ra. Lúc vận nước vận nhà không may! Chiến tranh kéo dài con người đâm độc ác với nhau.

- Bà cũng không nên lo nghĩ nhiều… Chỉ thiệt thân mình thôi. Lúc này hai gia đình dựa vào nhau cũng phải. Rồi anh chị ấy sẽ chạy qua chạy lại… Cháu Thu nó khôn lớn rồi. Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng, thời nào rồi cũng thế thôi.

Bà Phan hồi hộp. Giờ phút cuối cùng bà sắp phải xa con. Đứa con gái độc nhất của bà sẽ bước đi theo số kiếp. Gia đình nhà ấy là địa chủ kháng chiến, ông ta lại là ông lang có tiếng vùng này. Cũng còn đỡ hơn gia đình bà. Cái đói rét sẽ không đe dọa nó và cả gia đình bà nữa. Thằng Thủy sẽ không còn phải nuốt cháo cám. Bà Phan đã từng nghĩ như thế, sao bữa nay bà lại thấy buồn! Bà cảm thấy như mình mất một cái gì quý giá không thể đền bù được. Lòng bà đã tan tác càng tan tác thêm. Những lời nói của khách làm bà bối rối. Bà chả biết trả lời ra sao, chỉ luôn miệng: “Xin vâng! Xin vâng!”. Bà muốn trì hoãn cái giờ phút này lại, nhưng bà không muốn tăng thêm nỗi buồn cho con gái. Bà cố nén nỗi xúc động, lên tiếng gọi vào trong buồng: “Thu con ơi! Con mau ra đi cho mẹ mừng! Con… con đi… đi… về bên… ông bà… bên ấy…”. Bà dừng lại cố nén lại cái nghẹn đang trào lên cổ. Rồi bà tiếp: “Rồi thỉnh thoảng các con… về… với mẹ”. Ruột gan bà nóng như lửa đốt. Bà thấy xao xuyến cả tâm hồn. “May mà con Thu nó gặp được thằng Quang lúc này, bà nghĩ, cái thằng ấy nó lớn tuổi, nó biết lo toan. Con ơi! Mẹ có ngờ đâu, cái đám cưới của con lại khốn khổ xơ xác như thế này!”. Nhưng thôi, bao nhiêu điều buồn khổ từ nay bà sẽ chịu hết. Bà không kéo con ở lại. Con bà đã có nơi nương tựa. Nó sẽ có thể sống đến cái ngày phát hiện ra sai lầm, sẽ có thể nói rõ cho bà con làng nước về nỗi oan của cha nó, sẽ rửa cái nhục ấy cho gia đình. Còn bà, bà chịu cái kiếp sống rơi rớt từng ngày cho đến khi nhắm mắt.

Từ trong buồng, chị Hiền dìu Thu ra. Cô chẳng thiết gì đến ăn mặc, cũng chẳng buồn thay cái áo cũ hàng ngày. Cô dâu sắp về nhà chồng với bộ quần áo vá như sắp bước xuống vực thẳm của cuộc đời. Cô gạt ra ngoài tất cả những đồ may vá ít ỏi mà Quang đã phải khốn khổ van xin mấy anh cốt cán ngoài điếm canh đầu xóm mới mang đến được: một chiếc nón mới quai xanh, chiếc áo cánh màu gụ và chiếc quần phin đen. Thu có thiết gì đến những cái thứ ấy, khi mà tình cảm của cô đã bị tổn thương. Tình yêu của cô đã chết rồi, cô đi lấy chồng là vì nghĩa vụ. Những biến cố khắc nghiệt của cuộc đời đã cướp đi cả chút hy vọng còn lại. Kể từ ngày gặp bác Đạt, Thu vẫn tưởng rằng tương lai đến với Thu sẽ không đến nỗi tàn nhẫn như bữa nay. Cô vẫn tin rồi Sơn sẽ về, bác Đạt sẽ sớm tìm được Sơn cho cô. Rồi nỗi oan nghiệt của gia đình Thu sẽ được phát hiện nhanh chóng. Nhưng thời gian vẫn trôi đi từng ngày, từng tháng nặng nề. Nó dài đằng đẵng đối với Thu. Thư bác Đạt chờ mãi không có. Tin về Sơn vẫn vắng tanh vắng ngắt. Rồi mẹ Thu ốm nặng. Một mình Thu không thể bòn trên sào ruộng khô cằn tận rộc Chùa đủ hoa lợi để nuôi sống mẹ và em. Mẹ Thu lại cần đến những thang thuốc của ông Cựu Minh bố Quang mới qua được cơn bệnh. Số tiền giúp đỡ ít ỏi của bác Đạt không đủ để gia đình Thu thoát khỏi cảnh túng quẫn. Ân huệ của gia đình Quang càng dầy lên. Quang lại luôn luôn có mặt trong cơn hoạn nạn nối tiếp của gia đình. Rồi chị em trong họ và những người còn thương xót Thu tiếp tục khuyên cô nên lấy Quang cho đời cô đỡ khổ. Thu không còn hy vọng gì ở Sơn nữa. Lúc này mỗi ngày chờ đợi nó dài bằng cả năm. Thu mất dần lòng tin vào những lời hứa cũ. Không còn mối tình đầu thơ mộng và keo sơn nữa! Không còn cuộc hôn nhân theo ý muốn nữa. Thu phải đền đáp lại tấm lòng tốt của Quang, của gia đình ông Cựu Minh trên ấy. Thu phải đảm bảo cuộc sống của mẹ và của em. Tối nay, không còn cưỡng lại nổi sự xô đẩy của cảnh ngộ, Thu đành nhắm mắt đưa chân.