- III - Lễ tống Ôn Thần
Sáng hôm sau, đúng theo lời hẹn trước, bọn trẻ gặp nhau trước rạp hát Đồng Phước. Hôm nay vắng Tâm nhưng lại có Liêm, thành ra cũng đủ bộ năm “Ngũ hổ”, trong số đó có hai con hổ nhút nhát nhất là Hạnh và Lê.
Hạnh đến sau cùng. Vừa trông thấy Phi, nó đã nheo mắt hỏi:
- Đêm qua, anh Phi đã gặp Tướng quân chưa?
Lê lém lỉnh tiếp lời bạn:
- Cứ trông dáng anh ấy cũng biết anh đã quỳ lạy mệt đừ.
Phi lắc đầu đáp khẽ:
- Tôi có trông thấy Tướng quân nào đâu!
Hạnh nhoẻn cười duyên dáng:
- Vậy thì uổng toi mâm cỗ!
- Không uổng đâu. Hôm nay ba tôi đem mâm cỗ đó xuống thuyền.
- Để làm gì?
- Để tống Thần Ôn ra biển.
Lê vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Chừng nào Tống Thần ra biển, chúng mình đi xem.
Liêm cắc cớ hỏi:
- Ở đây làm gì có biển?
Thằng Phi nhanh nhẩu đáp:
- Thì đưa Thần ra sông, rồi đoàn ôn binh sẽ chèo thuyền ra biển. Có khó gì?
Thằng Thái ranh mãnh nói:
- Đố tụi bây biết đoàn ôn binh này thuộc đoàn quân áo đỏ, áo vàng, áo xanh, áo trắng hay áo đen?
Lê làm bộ suy nghĩ, mắt nó đăm đăm nhìn vào khoảng không như đang tìm kiếm những bóng dáng vô hình. Một lúc lâu, nó mới cười tủm tỉm, hai má núm hai đồng tiền:
- Chắc là đoàn quân áo đen.
Thái chất vấn ngay:
- Sao biết là đoàn quân áo đen?
- Vì vị Tướng quân thống lãnh đoàn quân này rất hung tợn, chỉ mới hai tuần mà đã sát hại mười mấy người, và bao nhiêu người đang bị bệnh nữa.
Nghe lời nói hồn nhiên của Lê, thằng Phi chợt nhớ đến một người bạn vắng mặt, một người bạn mà nếu có mặt hôm nay, “Ngũ hổ” sẽ biến thành “Đào Cốc Lục Tiên”. Nó băn khoăn hỏi:
- Thằng Tâm sao không đến?
Đang hí hởn, Thái bỗng xụ mặt buồn xo:
- Nó bị bịnh.
Phi hỏi nhanh:
- Hồi nào?
- Mới hồi khuya này.
- Bịnh gì?
- Không biết.
- Giờ nó ở đâu? Mình phải đi thăm nó chớ.
- Người nhà đã chở nó vào nhà thương hồi tảng sáng. Nơi đây, người ta không cho bất cứ ai vào thăm.
Hạnh tái mặt, giọng run run:
- Gì mà ghê quá vậy?
Thái thở dài:
- Chắc người ta sợ truyền nhiễm.
Lê chớp chớp mắt:
- Mới chiều hôm qua nó còn đi với bọn mình.
Giọng Lê biểu lộ sự xúc cảm chân thành, làm cho cả bọn đều bùi ngùi ái ngại. Tâm là một học sinh không thông minh mấy nhưng cần mẫn, thật thà, được thầy yêu, bạn mến. Nhất là đối với bọn Phi. Mỗi lần họp nhau đủ sáu đứa thành Đào Cốc Lục Tiên, thì chúng cãi vã ỏm tỏi, tranh biện đủ vấn đề, không ai chịu thua ai. Mặc dầu hay cãi vã, chúng rất thương yêu nhau, hay giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau.
Phi đưa mắt nhìn các bạn, thành thật nêu ý kiến:
- Phải chi đêm qua thằng Tâm nói với ba nó bày mâm cỗ trước sân thì nó đâu có bị bịnh.
Liêm nhếch nụ cười mai mỉa:
- Để rước bọn ác ôn à? Người ta sợ bọn chúng gần chết mà còn bày đặt đón rước. Nên tống bọn chúng đi mới phải.
Thái thẳng thắng nói:
- Nhà tụi tao có đứa nào bày mâm cỗ đâu, sao không bị bọn ác ôn bắt?
Phi lặng thinh. Nó không bằng lòng lời nói ngang của hai bạn, nhưng nó không thể biện minh ý kiến mình một cách cụ thể. Nó băn khoăn, không biết nên tin thầy hay tin cha. Thầy nó phản đối dị đoan; ba nó thì tin tưởng Thần quyền. Lời thầy nó rất hữu lý, nhưng đến nay, có những hiện thượng huyền bí mà khoa học chưa giải thích được. Chính những điều đó làm cho lòng người còn thắc mắc, hoang mang.
Phi còn đang nghĩ ngợi, bỗng những tràng trống, chuông từ đâu vẳng lại từng hồi.
Thùng, thùng... thùng...
Boong, boong... boong...
Thằng Thái reo to:
- Người ta đang làm lễ Tống Thần. Mình đi xem đi.
Con Hạnh hỏi:
- Ở đền nào vậy?
Thằng Phi đề nghị:
- Không đền Nhị Phủ thì đền Thất Phủ. Mình đến đền Nhị Phủ trước; không có, mình sẽ sang đền Thất Phủ.
Không đứa nào cãi vã nữa. Chúng kéo nhau đi xem lễ.
Nguyên làng Gia lộc có rất nhiều chùa, đền, miếu. Chùa thờ Phật thì có Phước Lưu Tự, Phước Lâm Tự. Đền thờ Thánh thì có đền Nhị Phủ, đền Thất Phủ. Miếu thờ Thần thì có Miếu Ngũ Hành, Miếu Cả thờ Thần Đình Làng.
Trong số các nơi thờ phụng thiêng liêng này, có đền Nhị Phủ và đền Thất Phủ nổi tiếng là linh thiêng nhất. Đền Nhị Phủ thờ Đức Thánh Công; đền Thất Phủ thờ Đức Quan Công. Hai đền này do những người Huê kiều trong quận góp công góp của xây cất, nhưng lễ bái thì người Việt chiếm đa số. Đặc biệt đền Nhị Phủ có một ông người Tiều, Đức Thánh Công thường nhập vào người đồng này để ban bùa phép cho những ai đến xin chữa bịnh hoặc điều khiển những buổi Lễ lớn như: Lễ cầu mưa những năm hạn hán, Lễ Tống Ôn Thần những khi có bịnh dịch, v.v...
Khi bọn Phi đến trước đền Nhị Phủ thì thấy người ta đứng đông nghẹt từ trong chí ngoài. Trong đền, tiếng chuông, trống vang rền. Người lớn khăn áo chỉnh tề, vẻ mặt nghiêm trang, kính cẩn. Con nít ồn ào chen lấn, đứa leo lên hàng rào, đứa bu quanh cửa sổ, đứa chen vào tận chánh điện. Quang cảnh thật tưng bừng, náo nhiệt.
Con Hạnh nói:
- Đông quá, làm sao vào xem?
Thằng Thái bàn:
- Ở trong chật lắm, mình cứ đứng ngoài sân.
Con Lê lắc đầu lia lịa:
- Đứng ngoài sân để nhìn lưng thiên hạ à?
Thằng Phi phì cười. Nó chỉ đống than trải giữa sân, làm ra vẻ hiểu biết rành rẽ:
- Lát nữa Đức Thánh công sẽ đi trên đống than người ta trải kia kìa. Mình đứng ở đây xem rõ hơn cả.
Con Lê hất hàm nói:
- Đi trên đống than đó thì ai không đi được!
Thằng Phi giải thích:
- Người ta sẽ đốt than lên chứ. Đức Thánh sẽ đi chân không trên lửa.
- Thế chân không bị phỏng à?
- Chân Thánh mà phỏng sao được.
Câu chuyện đến đây bỗng có tiếng ồn ào từ phía trong. Người lớn con nít từ trong đền túa ra, đứng bao quanh đống than. Bốn người lo đốt than, quạt cho ngọn lửa lên cao và than cháy đỏ rực.
Một tiếng thét to oai phong và hùng dũng. Một người mặc yếm đỏ, hai tay cầm hai thanh gươm, từ chánh điện chạy nhanh ra, theo sau một đoàn người hộ vệ. Người yếm đỏ trụ bộ, thét lên, rồi múa gươm loáng loáng chém xối xả vào lưng mình. Đoàn người hộ vệ đưa những ngọn côn lên đỡ để bảo vệ đồng Thánh, nhưng nhiều nhát gươm đã chạm vào da thịt, nhiều vết máu đã rướm đỏ cả lưng.
Lê sợ hãi, đưa tay bụm mặt, không dám nhìn. Hạnh lùi lại, núp sau lưng Lê. Bọn con trai trố mắt nhìn, vẻ ranh mãnh nhường cho sự khiếp sợ.
Điệu trống bát nhã vang lên nhịp nhàng làm cho bầu không khí thêm vẻ trang nghiêm, huyền nhiệm. Người yếm đỏ trợn mắt (như muốn dọa nạt những kẻ vô hình) hai thanh gươm lóe hào quang trước ngọn lửa. Tiếng thét thứ ba vang lên, oai dũng hơn lần trước. Đồng Thánh từ từ bước lên đống than đã cháy đỏ rực. Ông đạp chân lên lửa như người ta đi trên nền cỏ non êm. Ông đi nhiều vòng trên đống than trải dài độ năm thước, cho đến ngọn lửa dịu xuống tàn dần.
Người đứng xem đều im lặng. Lê bỏ tay xuống, len lén nhìn, Hạnh cũng trờ tới trước, trố mắt quan sát. Phi siết chặt lấy tay Thái. Thái nắm lấy tay Liêm lúc nào nó không hay.
Giữa lúc mọi người đang hồi hộp theo dõi từng bước chân của người yếm đỏ - mà họ xem như hiện thân của Đức Thánh Công - những tràng chuông, trống vang lên từng hồi, lần này không phải từ chánh điện đưa ra mà từ xa vọng lại. Người yếm đỏ lập tức rời bỏ đống lửa, chạy vụt ra đường nhanh như tên bắn. Đoàn hộ vệ hối hả xách côn chạy theo. Người xem không hiểu gì cũng chạy túa ra đường.
Vì Hạnh, Lê quá chậm chạp nên bọn Phi còn ở lại trong sân. Phi đưa mắt nhìn dõi theo, thấy đoàn người đang tiến về phía đền Thất Phủ.
Bây giờ Lê mới lấy lại vẻ mặt bình thường. Nó le lưỡi, nói khẽ:
- “Ông lên” oai quá! Lúc đầu, Lê không dám nhìn.
Đôi má Hạnh bắt hồng hào trở lại. Nó chúm chím cười:
- Hạnh cũng vậy. “Ông” múa gươm làm cho Hạnh rùng mình. Nhất là khi thấy máu!
- Mỗi khi “Ông” thét, Lê giật mình phát run lên. Ghê thấy mồ!
- Tại sao “Ông” lại chém vào lưng mình làm chi?
- Tại sao “Ông” mặc yếm đỏ mà không mặc áo đỏ?
- Tại sao “Ông” bước đi trên lửa mà không bị phỏng?
Những câu hỏi dồn dập của Hạnh, Lê, không đứa nào giải đáp được. Những điều ấy ra ngoài sự hiểu biết của chúng. Cũng như phần đông dân làng, chúng quen gọi Đức Thánh Công là “Ông” đền Nhị Phủ thì gọi là “ Đền Ông” đồng lên thì gọi là “Ông lên”. Tiếng “Ông” vừa có tính cách tôn xưng, vừa biểu lộ sự thành kính tuyệt đối.
Đợi cho hai đứa bạn gái hết nêu thắc mắc, Thái mới nheo mắt, môi nở nụ cười chế nhạo:
- Hạnh, Lê làm hổ danh “Ngũ hổ” quá!
Lê bĩu môi:
- Còn lâu!
Hạnh chu miệng:
- Người ta sợ máu, chớ bộ!
Phi ôn tồn hơn cả:
- Giờ mình qua đền Thất Phủ. Hạnh, Lê dám đi xem nữa không?
Lê làm bảnh:
- Đi thì đi chớ.
Cả bọn kéo nhau sang đền Thất Phủ, cách đó chỉ một trăm thước. Nơi đây, người xem cũng đông nghẹt đứng chật cả hai bên đường. Thái đi tiên phong cố vạch một lối vào cho đồng bọn. Chúng chen được vào sân đền, đứng xen lẫn những đám trẻ khác.
Giữa sân có một chiếc kiệu mang tượng Đức Thánh Công, một chiếc kiệu khác trống không, một chiếc thuyền bằng giấy bồi dài độ hai thước, màu sắc sặc sỡ. Chiếc thuyền này rất lạ mắt. Hai hàng thủy thủ áo đen ngồi dọc theo mạn thuyền. Trước mui, hai hình nộm khác, kẻ cầm giáo, người cầm đao, mặt ngẩng lên, mắt trợn trừng như dọa nạt ai. Có lẽ đó là hai tên quân cận vệ. Giữa thuyền, một hình nộm to lớn, mặt rằn áo tía, trông oai phong lẫm liệt như một... Ôn Thần. Mà quả đó là hình nhân tượng trưng cho Ôn Thần, vị hung thần đã gây tai họa khủng khiếp cho làng này. Khoang thuyền chứa đầy thực phẩm, nào gà luộc, vịt quay, nào đầu heo, thịt nguội, nào bánh ngọt, trái cây...
Thái bấm tay Phi, hỏi nhỏ:
- Có mâm cỗ nhà mầy trong đó không?
- Chắc có chớ mậy.
Hạnh liến láu hỏi:
- Mâm cỗ nào đâu, anh Phi?
Phi đang đưa mắt tìm kiếm thì có tiếng thét to vang dậy. Cả bọn giật mình, lặng im phăng phắc. Người yếm đỏ ban nãy từ trong đền chạy ra, lần này tay không cầm gươm mà cầm mấy cây nhang cháy rực. Đoàn hộ vệ vẫn nhanh nhẹn theo sau.
Đồng Thánh đi quanh thuyền, dùng mấy cây nhang điểm vào các hình nhân, từ vị Tướng quân áo tía, đến đoàn cận vệ, thủy thủ bao quanh.
Phi làm lạnh nói:
- “Ông” đang “điểm nhãn” đó!
Lê ngạc nhiên hỏi:
- Điểm nhãn là gì vậy, anh Phi?
- Là pháp thuật điểm con ngươi vào mắt hình nhân cho thiêng.
Khi ông Đồng điểm nhãn xong, hai hộ vệ kính cẩn dâng gươm. Đồng tiếp lấy gươm, múa loang loáng một hồi, rồi chém xối xả vào lưng. Bỗng ông Đồng thét to, tung mình nhảy lên chiếc kiệu trống. Bốn người vạm vỡ vội vàng khiêng kiệu lên vai. Đồng chỉ thẳng gươm, ra lịnh lên đường.
Chiêng, trống hòa vang một khúc nhạc quân hành.
Kiệu Đồng Thánh dẫn đầu. Kế đó là kiệu Tượng Thánh. Tiếp theo là thuyền ôn binh. Sau cùng là đoàn lễ nhạc. Dân làng theo sau hàng hàng lớp lớp. Trẻ con chạy theo hai bên đường reo ó trợ oai.
Hiện tượng lạ lùng nhất là kiệu Tượng Thánh. Chiếc kiệu này được hơn mười thanh niên lực lưỡng khiêng trên vai. Như bị điều khiển bởi một sức mạnh nhiệm mầu, chiếc kiệu nghinh ngang như một con thần mã. Khi thì nó chạy như bay rồi đột nhiên dừng lại. Khi thì nó đi chậm rãi rồi đột nhiên xoay tròn. Khi thì nó nhảy qua mương, lắc lư như say rượu.
Những người khiêng kiệu bị lôi cuốn bởi năng lực huyền bí ấy. Họ bị hấp dẫn theo kiệu, muốn rời bỏ cũng không được. Đến khi nào họ mệt đừ và kiệu đi thong thả, họ mới có thể nhờ người khác vào thay. Lạ một điều là kiệu không bao giờ đổ và Tượng Thánh trong kiệu không bao giờ ngã. Sự kỳ bí này làm cho dân làng càng tin tưởng ở thần quyền.
Bọn Phi lấy làm lạ, theo sau mãi chiếc kiệu ấy. Chúng không dám đến gần, sợ chiếc kiệu vụt chạy hoặc xoay tròn, chúng không tài nào tránh kịp. Cũng may, kiệu không hề chạm vào ai và người khiêng kiệu không hề vấp ngã. Có lúc chúng tưởng chiếc kiệu phải đổ xuống mương sâu, nhưng rồi kiệu vẫn bình yên, ung dung dẫn đạo đoàn người đi tống Ôn Thần ra biển.
Đến bờ sông, đoàn người dừng lại. Người yếm đỏ nhảy xuống kiệu, phi nhanh quanh bờ như một cao thủ võ lâm. Đoàn hộ vệ phải chạy theo gần hụt hơi mới kịp. Sau một hồi múa gươm, hò hét (có lẽ để dương oai với lũ ôn binh) Đồng Thánh chỉ thẳng mũi gươm xuống nước. Đoàn tùy tùng vội vã đưa thuyền Tướng quân Ôn Dịch xuống sông.
Một cơn gió thổi đến, chiếc thuyền lơ lửng trôi đi...
Những hồi chiêng, trống lại nổi lên, vang vang trong gió lộng...