← Quay lại trang sách

- 5 -

Cho đến bây giờ y vẫn giữ được một vài kỷ niệm về mẹ mình, nhưng đó là những điều y nghe ngươi khác kể lại; hình ảnh mẹ không sống động, y chỉ cho Narziss biết một phần rất nhỏ những điều y tưởng rằng mình biết về mẹ mình. Chuyện mẹ y là một điều người ta không có quyền nói đến. Người ta lấy làm xấu hổ. Một người kỹ nữ xinh đẹp sống với bản năng thiên nhiên, bà ta dòng dõi cao quý nhưng lẳng lơ. Cha Goldmund đã cứu vớt bà khỏi cảnh trầm luân nghèo khổ. Ông không biết bà có phải người ngoại đạo hay không, ông làm lễ bắp-têm cho bà và giảng dạy cho hiểu giáo lý. Ồng lấy bà làm vợ, cải hóa thành người cao quý và đem lại cho bà địa vị quan trọng.

Nhưng sau vài năm ngoan ngoãn sống vào khuôn phép, ngựa lại quen đường cũ, sống trên bộc trong dâu, đàng điếm với người này người khác, bỏ nhà đi hàng ngày hàng tuần; bà khét tiếng là yêu tinh quyến rũ đàn ông, chồng đã nhiều lần tìm về nhưng rồi sau bà bỏ hẳn đi biệt tích. Bà còn để lại tiếng nhuốc nhơ trong một thời gian, đỏ ối như một cái đuôi sao chổi, sau không ai nóí đến nữa. Chồng bà trở lại yên ổn sau nhiều năm khắc khoải lo âu, nhục nhã ê chề vì người vợ vô loài. Ồng thay thế người vợ vô hạnh chăm nom dạy dỗ đứa con giống mẹ từ đầu mày đến cuối mắt. Ông trở nên người sùng đạo nhưng tính nét gắt gỏng, ông luyện cho con tin tưởng rằng sẽ hiến dâng đời mình cho Chúa để chuộc lỗi cho mẹ.

Ông đã kể lại chuyện đời ông, lời lẽ gần như thế, ông không muốn nghe ai nói đến người đàn bà đã đoạn tuyệt với ông; khi đem con lại gửi tu viện, ông đã nhắc đến chuyện cũ với viện trưởng. Đứa con cũng biết truyện ấy như một truyện hoang đường đáng sợ, nhưng nó tập quên những ký ức ấy và dần dần nó gần như quên hết. Còn khuôn mặt thật sự của người mẹ thì nó quên hẳn, Nó quên hẳn hình ảnh người mẹ khác với hình ảnh mà cha nó đã mô tả trong những truyện ông kể, hay tôi tớ trong nhà và lời đồn đại đã tạo ra về người đàn bà đàng điếm. Những kỷ niệm về người mẹ trong cuộc đời y đã sống thực đều biến mất. Và bây giờ y thấy lại hình ảnh người mẹ lúc thơ ấu chói lọi như ngôi sao.

Y nói với bạn:

“Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể quên được như thế, trong đời tôi, chưa bao giờ tôi yêu aì như mẹ tôi - yêu mãnh liệt và tuyệt đối. Chưa bao giờ tôi kính trọng và cảm phục ai như thế, mẹ tôi là mặt trời sáng và mặt trăng thanh. Trời biết cho tôi không thể nào làm phai mờ khuôn mặt lộng lẫy ấy khiến nó trở thành một mụ phủ thủy lố lăng, không thực, biết bao năm trời tôi và cha tôi chỉ biết có mụ phù thủy đó.”

Narziss mới hết thời gian giáo sinh và mặc áo thầy tu. Thái độ của anh đối với Goldmund thay đổi một cách kỳ lạ. Trước kia không chịu theo ý kiến và lời khuyến khích của anh, y coi là hợm hĩnh khó chịu, sốt sắng không phải lúc; từ ngày ấy y cảm phục và ngạc nhiên vì bạn thông minh sáng suốt. Biết bao lời nói của anh đã trở thành sự thực như lời tiên tri! Cái nhìn của một người làm cho kẻ khác phải rùng mình đã thấu tâm hồn y sâu xa đến thế nào! Anh đã đoán đúng bí mật trong đời y, vết thương kín đáo của y và chữa cho lành thật là khéo léo.

Bời vì người thanh niên ấy hình như đã khỏi bệnh, những chuyện ngất xỉu ngày trước không có hậu quả gì đáng ngại, mà đã dứt bỏ được những gì là con nít, già cỗi, giả tạo: phong độ thầy tu non yểu, ảo tưởng có chí hướng phục vụ Thượng Đế. Người thiếu niên ấy hình như trở thành trẻ hơn và già gỉặn hơn, tim thấy con đường đi của mình. Nhờ Narziss mà y được như thế.

Nhưng ít lâu nay Narziss đối với bạn ra vẻ thận trọng hơn; anh có thái độ hết sức nhũn nhặn, không tỏ ra hơn người, tránh giọng dạy đời. Anh có cảm tưởng rằng y tìm được sức mạnh từ những nguồn gốc bí hiểm mà chính y cũng không biết. Anh đã khơi nguồn ấy, nhưng anh không dự phần vào đấy. Anh sung sướng mà thấy bạn không tựa vào anh nữa, có lúc anh cũng lấy làm buồn bực. Anh có cảm tường mình chỉ còn là một bực thềm người ta đã bước qua, một cái vỏ chuối người ta ăn chuối rồi ném đi. Anh thấy đã gần đến lúc chấm hết mối tình bạn mà anh cho là quý giá. Mỗi ngày anh càng biết thêm về bạn hơn là bạn tự biết, bởi vì tuy y tìm thấy tâm hồn mình và sẵn sàng nghe tiếng gọi của tâm hồn, y không có một ý niệm nào về nơi mà tiếng gọi đó sẽ đưa mình đến. Narziss đã tưởng tượng ra được nơi ấy nhưng khoa học của anh vô dụng: con đường của bạn anh sẽ đưa y tới những địa hạt mà không bao giờ anh để chân đến. Goldtnund kém hẳn sở thích về khoa học. Trong những lúc trò chuyện với bạn, y không thích cãi lý sự nữa; y nghĩ đến những bữa nói chuyện ngày trước mà chán ngán. Mới đây, sau khi kinh nghiệm của thời kỳ làm giáo sinh hay sau khi đã thay đổi tính nết cho Goldmund, anh cần sống khắc khổ, cần tập luyện tâm linh, anh có khuynh hướng nhịn ăn, cầu nguyện lâu, tự xưng tội, tự bắt mình chịu hình phạt chuộc lỗi. Goldmund cũng hiểu nhu cầu ấy và sẵn lòng chia sẻ với anh. Từ lúc ốm khỏi, bản năng của y phát lộ mạnh mẽ. Y chưa biết gì về mục đích dành riêng cho đời sống y, nhưng cũng cảm thấy rõ ràng vận mệnh của y đang được định đoạt, y thấy người khắc khoải; bây giờ đã hết tuổi ngây thơ yên tĩnh, đợi chờ và dè dặt; bao nhiêu sinh lực trong người y đều căng thẳng và sẵn sàng để xung phong. Thường khi cảm giác mờ mịt đó làm cho y khoan khoái, làm cho y thức đến nửa đêm như một giấc mộng tình, cũng có khi nó tối sầm, nặng nề, khắc khoải, Y đã tìm thấy mẹ sau nhiều năm biệt tích, đó là sự êm đềm cực độ, nhưng tiếng gọi của mẹ sẽ đưa y đến đâu? Đến sự bất trắc, sự đảo điên của đời sống, đến sự cùng khổ và có lẽ đến chỗ chết. Hẳn là tiếng gọi ấy không đưa đến sự bình an, sự êm ái, sự yên ổn trong căn phòng thầy tu, trong đời sống cộng đồng nơi tu viện: tiếng gọi ấy không có gì tương đồng với lệnh của cha mà y đã lầm lẫn với kỳ vọng của y trong bao lâu. Lòng tin đạo của y đâm rễ sâu xa xuống lãnh vực tâm tình mãnh liệt, day dứt và nồng nhiệt như một cảm giác thể chất cao độ. Trong những bài cầu nguyện trước đức Thánh Bà, y giữ hết niềm thương mến tràn đầy với mẹ y. Nhưng thường thường sau lời cầu nguyện y mơ màng đến những cảnh kỳ dị và hoa lệ; bây giờ y càng thấy hay hiện lên: mơ mộng ban ngày nửa thức nửa ngủ, mơ thấy mẹ, toàn thân hẳn đều dự vào giấc mơ ấy. Thế giới của mẹ tràn vào y hương thơm ngây ngẩt, ngắm nhìn y với hai mắt tối sầm và bí hiểm đầy tình yêu, sùng sục trong chỗ thâm sâu của người y như biển cả, như thiên đường, bi bô những tiếng nói vuốt ve không có ý nghĩa, hay đúng hơn tràn đầy ý nghĩa, để lại trong miệng y vị ngọt đường, vị mặn muối, kéo lướt qua mắt y, môi y làn tóc óng ả. Y tìm thấy trong người mẹ không những tất cả vẻ đẹp của trần gian: đôi khi mắt xanh dịu dàng tình tứ, miệng cười xinh tươi như hứa hẹn hạnh phúc, lời âu yếm làm cho lòng ấm lại; y còn thấy ẩn hiện dưới cái duyên dáng của mẹ, tất cả cái gì là sợ sệt, tối tăm, thèm muốn, khắc khoải tội lỗi, tuyệt vọng, tất cả cái gì trói buộc thân con người có sinh có tử.

Người thanh niên chìm đắm dưới những giấc mơ ấy, trong màng lưới dày dặc những ý nghĩa và biểu tượng của giấc mơ. Không những dư vị quá khứ trở lại với vẻ đẹp của nó: lúc còn thơ dại được mẹ âu yếm, buổi sáng vàng son hớn hở của cuộc đời; trong những kỷ niệm ấy đã bừng lên viễn vọng tương lai với tất cả cái gì đe dọa và hứa hẹn, quyến rũ và nguy hiểm. Trong những giấc mơ ấy, người mẹ hình ảnh Đức Mẹ và người tình chỉ là một, có khi hiện lên như những hình ảnh tội lỗi ghê gớm, tội lỗi đáng chết mà không bao y chuộc được: lúc khác y lại thấy đó là sự giải thoát toàn diện, đó là nhịp điệu hoàn toàn. Cuộc sống hiển hiện ra trước mặt y, đang soi mói y: một thế giới tối tăm mù mịt, một khu rừng đầy bụi rậm gai góc, đầy nguy hiểm kỳ quái — nhưng sự bí hiểm ấy là bí hiểm của người mẹ: nó từ người mẹ đến, nó là cái vòng tròn tối tăm, cái vực thẳm nhỏ đầy đe đọa ở trong cùng hai mắt sáng như sao.

Trong những giấc mơ ấy nhiều ký ức tuổi thơ đã quên đi bây giờ lại ngoi lên mặt. Nhiều đóa hoa ký ức từ những nơi sâu thẳm tối tăm trở lại nở tung trong ánh sáng vàng của một cái nhìn, tỏa một hương thơm đầy linh cảm mờ mịt về tương lai; y nhớ lại những cảm giác tuổi thơ có lẽ gần với đời sống thực sự, có lẽ chỉ là mơ mộng vẩn vơ. Có khi mơ màng tới con cá vàng đen bơi lại gần y, bơi ở trong người y, đi qua người y, nó là sứ giả của một thế giới đẹp đẽ hơn, mang lại những nguồn hạnh phúc êm đềm, rồi vẫy đuôi bỏ đi, biến mất như những cái bóng, chỉ để lại những điều bí mật mới chứ không phải cái gì là bức thông điệp. Nhiều khi trong giấc mơ y thấy cá lội chim bay, mỗi con chim chính là y, theo ý của y, nghe lời y như hơi thở của y, tự y phóng rọi ra như tia mắt nhìn, như một ý tưởng của y, trở về y. Nhiều khi y mơ thấy một khu vườn: một khu vườn thần tiên, hoa to như bánh xe bò, hang đá xanh sâu thẳm; trong khe cỏ hiện ra hai mắt những con vật chưa ai từng biết, trên cành cây trườn qua những con rắn nhẵn nhụi run rẩy, trên cây nho và trong đám bụi, núc níu những chùm trái khổng lồ ẩm ướt và đung đưa một cách uể oải gian ngoan; nếu tay y tìm cành cây để vịn và tựa vào cây thì y thấy giữa thân cây hiện ra một nắm tóc rối như đám lông nách. Một lần y mơ thấy chính y hay ông thầy của y, hai người nhập làm một — Goldmund/Chrysostome, hắn có cái miệng bằng vàng, từ miệng chui ra những tiếng nói và tiếng nói là một đàn chim bay phất phới.

Một lần khác mơ thế này: y đã lớn, nhưng ngồi dưới đất như một đứa trẻ con, trước mặt là một đống đất thó, y nặn đắt thó chơi như đứa trẻ con, nặn những hình như con ngựa, con bò mộng, người đàn ông, đàn bà. Y lấy làm thích thú và nặn người và vật có những bộ phận sinh dục quá cỡ; trong giấc mơ y thấy như thế rất tức cười. Rồi, chơi chán y bỏ đi, y có cảm giác là cái gì sống động ở đằng sau lặng lẽ đến gần, y ngoảnh lại kinh ngạc và sợ hãi vô cùng — nhưng cũng vui thích — mà nhận thấy những vật khổng lồ lặng lẽ qua trước mắt y, chúng lớn nữa, chạy ồ vào đờì sống, lặng lẽ và đồ sộ, cao như ngọn tháp.

Y sống nhiều trong thế giới mơ mộng hơn là ngoài cõi thực. Cõi đời thực như lớp học, sân tu viện, thư viện, phòng ngủ, nhà nguyện, tất cả đều phù việt ở trên mặt, như một miếng da mỏng bọc ngoài thế giới siêu thực những hình ảnh giấc mơ. Chỉ một chút gợi ý không đâu cũng đủ chọc thủng cái vỏ mỏng ấy, âm hưởng một tiếng Hy Lạp trong một bài học rất tầm thường, hương thơm từ cái bao của cha Anselme đi hái thuốc về, cái liếc mắt nhìn một cuống lá tạc trên miếng đá ở đỉnh cột trụ chống đỡ vòng cung cửa sổ — những sự kích thích nhỏ như thế cũng đủ để chọc thùng làn da thực tại bình thản và khô cứng, rồi làm ùa ra những vực thẳm, những thác nước, những giải ngân hà trong thế giới hình ảnh của tâm hồn. Một chữ hoa La Tinh trở thành khuôn mặt thơm tho của mẹ y, một vần kéo dài trở thành khuôn cửa thiên đàng, một chữ Hy Lạp trở thành một con ngựa phi, một con rắn vươn cổ lên bò yên lặng giữa đám hoa — nhưng thoắt một cái đã biến mất, chỉ còn trang sách văn phạm khô khan.

Ít khi y nói đến những chuyện ấy, chỉ một hai lần đàm đạo với Narziss y nói phớt qua thế giới mơ mộng của y.

“Tôi cho rằng, y nói, một cánh hoa hay một con sâu trên đường đi chứa đựng và bộc lộ cho ta biết nhiều điều hơn tất cả sách vở trong một thư viện. Không thể nói gì được với chữ và tiếng nói. Có khi tôi viết một chữ Hy Lạp, chữ tê-ta hay ô-mê-ga, chỉ cần đưa ngòi bút ra một chút là nó có đuôi, hóa ra con cá, nó thoáng gợi lên tất cả sông ngòi trên trái đất, tất cả nước nôi mát rượi, biển của Homère và con sông mà Thánh Pierre đã đi trên mặt nước, hay là có khi một chỗ biến thành con chim con, cong đuôi, dựng lông, phồng cổ, cười và bay đi. Chắc anh không đếm xỉa đến những chữ ấy, nhưng tôi bảo cho anh biết, Thượng Đế viết ra cuộc đời bằng những chữ ấy đó.”

Narziss buồn rầu mà rằng:

“Trái lại, tôi kể nhiều đến những chữ ấy, đó là những chữ có phù phép, người ta có thể dùng những chữ ấy để để trừ ma quỷ. Nếu để thực hiện tiến bộ khoa học thì chữ đó không đáng quan trọng. Trí khôn cần cái gì vững chắc, nó chỉ chắc bằng ở ký hiệu, nó thích cái gì đã thành hình rồi, nó không thích cái gì đang thành hình, nó thích cái có thực chứ không phải cái có thể có. Nó không chấp nhận được một chữ ô-mê-ga trở thành con rắn hay con chim. Trí khôn không thể sống trong thiên nhiên, chỉ sống trước mặt thiên nhiên như cái gì trái với thiên nhiên. Bây giờ chú đã tin tôi chưa? Tôi bảo chú không bao giờ thành nhà bác học được.”

“Hẳn rồi.” Goldmund đã tin anh từ lâu, về điểm ấy thì y đồng ý.

“Tôi không đến nỗi mê mẩn vì đi xin trí khôn của anh, trí khôn và khoa học đối với tôi cũng như chuyện cha tôi đó, tôi tưởng rằng tôi yêu ông lắm, giống ông lắm, những lời ông nói với tôi đều là lời phúc âm. Nhưng mẹ tôi vừa trở lại với tôi thì tôi chợt hiểu thế nào là tình yêu, bên cạnh hình ảnh mẹ tôi, hình ảnh cha tôi bỗng trở nên nhạt nhẽo, cau có gần như đáng ghét. Bây giờ tôi có khuynh hướng coi cái gì thuộc về trí tuệ như là về phần cha tôi, thiếu hẳn ý nghĩa của mẹ và tôi có ý chê bai.”

Y pha trò nhưng không làm cho bạn y khỏi buồn. Narziss yên lặng ngắm y, vẻ nhìn của anh như một cái vuốt ve. Rồi anh nói: “Tôi hiểu chú lắm, bây giờ không còn phải bàn bạc gì nữa, chú đã tỉnh rồi và chú cũng biết là chúng ta khác nhau, sự khác nhau giữa người giống cha và người giống mẹ, sự khác nhau giữa linh hồn và trí tuệ. Chẳng còn bao lâu chú sẽ nhận thấy được sống trong nhà tu, ước vọng làm thầy tu của chú chỉ là sự lầm lẫn, đó chỉ là sáng kiến của ông thân sinh ra chú muốn chuộc lỗi của mẹ chú, hay có lẽ chỉ để trả thù bà mà thôi. Hay là chú còn tưởng ra số mệnh của chú là ở lại tu viện suốt đời?”

Goldmund trầm ngâm ngắm bàn tay của bạn, hai bàn tay nhỏ nhắn vừa nghiêm nghị lại vừa mềm mại, gầy gò và trắng trẻo. Không còn ai nghi ngờ rằng đó không phải là bàn tay tu hành và bác học.

“Tôi không biết,” y nói với giọng hớn hở như tiếng hát, hơi ngập ngừng, ngừng lại từng tiếng, đó là giọng của y từ ít lâu nay. “Tôi thật không biết. Anh xét cha tôi hơi nghiêm khắc, đời ông cũng vất vả. Nhưng có lẽ anh cũng có lý. Tôi ở nhà tu đã ba năm nay mà cha tôi không lại thăm tôi lần nào. Ông hy vọng rằng tôi sẽ ở đây mãi. Có lẽ đây là cách giải qnyết êm đẹp hơn cả. Tôi chả mong mỏi thế là gì? Nhưng ngày hôm nay tôi không biết thật sự tôi muốn gì. Ngày trước thì việc giản dị quá, giản dị như chữ mẫu tự. Bây giờ tất cả đều có nhiều nghĩa, có nhiều mặt. Tôi không biết tôi sẽ ra thế nào; lúc này tôi không thể nghĩ đến những chuyện ấy.”

“Chú cũng không nên nghĩ đến làm gì, đường đời đưa chú đến đâu thì đến. Đường đời đã bắt đầu đưa chú lại với mẹ và chú còn lại gần nữa. Còn như ông thân của chú, tôi xét đoán, không đến nỗi nghiêm khắc đâu. Chú có muốn trở về với ông không?”

“Không, chắc chắn là không. Nếu muốn về nhà thì học xong tôi sẽ về, hay về ngay bây giờ. Nhưng tôi không muốn, vì tôi không muốn thành người thông thái, tôi đã học khá chữ La Tinh. Hy Lạp và toán học. Không, tôi không muốn trở về với cha.”

Hai mắt trầm ngâm của y chìm đắm vào chỗ mơ hồ rồi bẩt thình lình y kêu lên: “Nhưng bây giờ anh có tìm cách hỏi tôi hay bảo tôi những điều gì để tôi thấy ánh sáng mà hiểu mình hơn không? Bây giờ cũng vẫn câu hỏi của anh về ý định hồi hương làm bất thình lình tôi nhận thấy tôi không muốn về. Anh làm thế nào mà hay thế? Anh có vẻ như cái gì cũng biết. Anh nói với tôi nhiều điều về anh, về tôi, lúc nghe tôi không hiểu cho lắm, nhưng sau này trở nên vô cùng quan trọng cho tôi. Chính anh bảo tôi rằng tôi có máu mẹ tôi và anh khám phá ra tôi vẫn có cái gì ám ảnh, tôi quên mất tuổi thơ ấu của tôi. Từ đâu mà anh có khiếu biết rõ tâm hồn người ta vậy? Tôi có thể học được nữa hay không?

Narziss mỉm cười và lắc đầu: “Chú không thể có được. Có những người có thể học được rất nhiều. Chú không phải những người ấy. Không bao giờ sự học làm cho chú phong phú. Mà để làm gì? Chủ không cần, chú có những năng khiếu khác. Chú có nhiều năng khiếu hơn tôi, chú giàu có hơn tôi nhưng chú cũng yếu ớt hơn tôi; trước mặt chú mở ra con đường đẹp đẽ nhưng cũng gai góc hơn tôi. Có khi chú không chịu nghe tôi; thường chú cưỡng lại tôi như một con ngựa non; việc ấy không dễ, cho nên nhiều khi tôi phải làm chú đau đớn. Tôi phải thức tỉnh chú dậy vì chú ngủ hoài. Làm cho chú nhớ lại mẹ, tôi đã làm cho chú khổ sở, khổ sở lắm; người ta đã tìm thấy chú té xỉu như người chết ở sau vườn. Cần phải như thế. Đừng vuốt tóc tôi như thế. Đừng! Tôi không chịu được.”

“Như thế tôi không học hành gì được hả. Suốt đời tôi ngu đần, tôi như một đứa trẻ à?”

“Chú có thể học những người khác, điều gì chú có thể học tôi, chú đã học cả rồi.”

“Trời ơi! Chúng ta không thể trở nên bạn trong tình trạng ấy! Tình bạn gì mà sau một giai đoạn nào đó đã đạt tới đích chỉ còn việc chấm đứt? Anh đã chán tôi rồi à? Hay anh không chịu đựng được tôi nữa?”

Narziss đi đi lại lại ra vẻ bứt rứt, mắt trông xuống đất, sau anh đừng lại trước mặt bạn.

“Đừng nói thế, chú hẳn biết tôi cũng sung sướng được là bạn chú.”

Anh nhìn bạn một cách lưỡng lự, lại quay đi, dừng lại nữa; vẻ mặt khô khan gầy gò bỗng ra vẻ cả quyết, anh nhìn bạn mà nói:

“Chú này, ta chơi với nhau có nhiều cái hay, sự thân thiết ấy có một mục đích là thức tỉnh chú, nay đã đạt được. Tôi mong rằng nó chưa chấm dứt, nó đổi mới và đưa đến những mục đích khác. Bây giờ thì chưa thấy gì cả. Mục đích của chú còn bất trắc, tôi không thể dắt dẫn chú đi được mà cũng không thể đi theo chú. Chú hãy hỏi mẹ, hỏi hình ảnh của mẹ và lắng tai nghe Mục đích của tôi thì rõ rệt. Đời tôi là ở đây, ở tu viện này, tôi vẫn nghe tiếng gọi của nó từng giờ. Tôi có quyền làm bạn chú, nhừng tôi không có quyền yêu. Tôi là thầy tu; tôi đã lập nguyện. Trước khi nhận lệnh trên tôi phải từ chức dạy học và sống biệt tịch trong nhiều tuần lễ để tuyệt thực và tu chứng, Trong thời gian ấy không nói chuyện với ai, cả với chú nữa.”

Goldmund hiểu, y buồn rầu mà rằng:

“Vậy là anh sẽ làm những việc mà tôi cũng được làm nếu tôi vào nhà tu vĩnh viễn. Khi đã tuyệt thực, cầu nguyện và thức đêm khá rồi thì mục đích của anh thế nào?”

“Chú đã biết rồi.”

“Vâng, tôi biết. Trong vài năm nữa anh sẽ là giáo sư thực thụ, có lẽ là đốc học. Anh sẽ tăng tiến ngành giáo dục, mở mang thư viện. Có lẽ anh cũng viết sách? Thế mà anh không viết. Thế thì mục đích của anh thế nào?”

Narziss sẽ mỉm cười. “Mục đích à? Có lẽ tôi sẽ làm đốc học, viện trưởng hay giám mục đến lúc chết. Điều đó không quan hệ. Mục đích của tôi chì là ở đây để phục vụ đắc lực hơn cả, ở đây bàn chất của tôi, khả năng và phú tính của tôi có chỗ đắc dụng, tôi có môi trường hoạt động rộng rãi. Tôi không có mục đích nào khác.”

Goldmund: “Không có mục đích nào cho một người thầy tu?”

Narziss: “Không. Mục đích thì không thiếu Trong đời sống một tu sĩ mục đích có thể là học tiếng Hébreu, bình giải Aristote, trang trí tu viện, ở biệt tịch một nơi để suy tư, hay làm trăm ngàn công việc khác, Đối với tôi đó không phải là mục đích. Tôi không muốn mở mang tu viện cũng không muốn cải lương giáo tông. Tôi chỉ muốn phục vụ tinh thần theo ý hướng tôi hiểu và theo điều kiện tôi có. Thế thôi. Như thế không phải là một mục tiêu sao?”

Goldmund nghĩ rất lâu trước khi trà lời.

“Anh có lý, tôi có làm trở ngại không?”

“Trở ngại gì! Không ai giúp ích tôi hơn chú. Chú gây ra nhiều khó khăn cho tôi nhưng tôi không sợ khó khăn, khó khăn làm cho tôi hiểu biết nhiều; tôi đã vượt được phần nào.”

Goldmund vội ngắt lời, y hơi mỉm cười mà nói: “Anh đã vượt qua như chơi! Nhưng xin anh nói thật cho tôi biết thực anh có phục vụ tinh thần không khi anh giúp đỡ tôi, dìu dắt tôi, giải cứu tôi, giúp cho tâm hồn tôi được lành mạnh? Dường như anh làm cho tu viện mất một giáo sinh có thiện chí và sốt sắng, anh đưa ra một kẻ thù nghịch chống lại tinh thần, một người sẽ hành động và tin tưởng và trái với những điều anh cho là tốt?”

“Tại sao lại không?” Narziss rất nghiêm nghị. “Chú hiểu tôi ít như vậy ư? Có lẽ tôi bóp chết người thầy tu tương lai trong người chú và mở đường cho chú phiêu lưu đến một cảnh đời ngoài khuôn khổ thông thường. Dù rằng ngày mai chú đốt tu viện này và làm những điều điên dại phản đạo, tôi cũng không hối hận rằng đã giúp chú tìm ra đường đi của chú.”

Anh thân thiết đặt hai bàn tay lên vai bạn.

“Còn một điều nữa hợp với mục đích của tôi. Dù tôi là viện trưởng, giáo sư, thầy rửa tội hay là gì chăng nữa, nếu tôi thấy một người có tài năng, có sức lực, có cái gì độc đáo, tôi vẫn tìm hiểu họ, giúp họ phát triển và tiến bước. Tòi nói với chú điều này: dù sau này tôi vớí chú có xa nhau, mỗi người theo mỗi mục đích của mình mà tiến về đâu, lúc nào chú thành khẩn gọi tôi hay chú cho là cần đến tôi, tôi sẵn sàng đến với chú.”

Lời anh nói vang lên như một lời từ biệt thực ra đó là nếm trước vị biệt ly. Đứng trước mặt bạn, coi điệu bộ cả quyết của anh, hai mắt anh nhìn thẳng vào đích, Goldmund không còn lầm gì nữa, hai người không còn là anh em bè bạn trên cùng một phương diện, họ đã tới đoạn đường chia đôi. Người đứng trước mặt y không phải là một người mơ mộng, không đợi tiếng gọi của thế phàm, đó là một tu sĩ đã dâng trọn đời mình cho một chức vụ nhất định, một người lính, một bề tôi của Nhà Thờ, của tinh thần. Còn như y, ngày hôm nay y nhận thấy rõ ràng là chỗ của y không phải ở đây, y không có nơi có chốn, một thế giới mà y chưa biết đang chờ đợi y. Mẹ y ngày xưa cũng thế. Bà ta đã bỏ nhà cửa, chồng con, đời sống cộng đồng và trật tự xã hội, bổn phận và danh dự, để đi đến nơi bất định, có lẽ bà đã bỏ mình ở đó từ lâu. Bà không có mục đích nào, cũng như y bây giờ. Mục đích của cuộc đời là để cho người khác chứ không phải cho y, Trời ơi! Narziss đã trông thấy thế từ lâu, anh có lý quá!

Vài ngày sau đấy Narziss như là đã biến mất. Dường như anh thành người vô hình. Đã có thầy giáo khác thay thế, chỗ ngồi của anh tại thư viện bỏ trống. Tuy nhiên anh vẫn ở đấy, không biến mất hẳn, người ta có thể thấy hút anh dạo mát, có thể nghe thấy anh cầu kinh trong một nhà nguyện, quỳ gối trên nền đá lát; người ta biết rằng anh bắt đầu sống biệt tịch, anh nhịn ăn, đêm trở dậy ba lần để cầu nguyện. Anh vẫn ở đấy nhưng đã có mặt trong một thế giới khác. Người ta có thấy mặt anh — nhưng rất hiếm — mà không gặp mặt anh được, không liên lạc với anh, không nói chuyện với anh được. Goldmund cũng biết rồi anh sẽ trở lại, lại đến thư viện, đến phòng ăn, lại nói với mọi người — nhưng Narziss xưa kia như thế nào nay không trở lại nữa, Narziss không còn là của y nữa. Nghĩ như vậy y hiểu rõ rằng chỉ có Narziss là người duy nhất đã làm y yêu mến thiết tha tu viện, đời sống ở tu viện, văn phạm và luân lý, học thuật và tư tưởng. Tấm gương của anh đã lôi kéo y, lý tưởng của y là được như anh. Hẳn là còn có viện trưởng nữa, y cũng kính mến viện trưởng và coi ông là tấm gương cao quý. Nhưng những cái khác — thầy giáo, học trò, phòng ngủ, phòng ăn, nhà trường, bài vở, buổi lễ, tu viện, tất cả những cái ấy mà không có Narziss thì đối với y hết sinh thú. Y còn ở đấy làm gì? Y đợi. Y ở dưới mái nhà tu viện như một người bộ hành không nhất quyết, trời mưa rào trú chân dưới gốc cây, y chỉ như một người khách trọ đợi chờ vì sợ ngoài đời xa lạ lắm nỗi khó khăn.

Lúc ấy cuộc đời của Goldmund chỉ là chờ đợi và giã từ. Y trở lại thăm những nơi đã yêu mến hay có ý nghĩa trong đời sống của y. Y ngạc nhiên kỳ dị khi nhận ra ở đấy rất ít người, ít cảnh làm y quyển luyến đến nỗi bỏ đi không đành, có Narziss và vị viện trưởng Daniel đã cao niên, còn cha Anselme rất tử tế, và có lẽ bác gác cửa đáng mến, người coi cối xay sống vô lo vô lự. Nhưng tất cả những người ấy hầu như không có thật nữa. Có lẽ từ giã bức tượng Thánh Bà lớn bằng đá trong nhà nguyện, những tượng thánh ở cửa vào sẽ làm cho y bùi ngùi hơn. Y đứng trước những bức tượng ấy và trước những bức tượng điêu khắc rất đẹp ở các ghế gỗ trong thánh đường, trước bùng binh ngoài sân dạo mát, trước cái cột trụ tạc ba đầu thú vật; y đứng tựa lưng vảo cây bồ đề trong sân, vào cây hạt dẻ. Ngay từ bây giờ tuy y còn ở giữa cảnh vật ấy nhưng cảnh vật đã mất vẻ thực rồi, đã hóa ra những bóng ma quá khứ. Cha Anselme thân với y, y cùng cha đến chơi với những người bình dị, người coi cối xay ở tu viện, đứng xem tôi tớ làm việc, thỉnh thoảng người ta mời y uống một ly rượu nho và ăn cá chiên; nhưng y vẫn lạnh lùng xa vắng, y nhìn sự vật như thấy trong kỷ niệm. Narziss sống trong một căn phòng kín khuất bóng người để sám hối: đối với y anh cũng chỉ còn là một cái bóng, chung quanh y tất cả đều mất cả vẻ thực, tất cả đều gợi đến mùa thu, hơi thu man mác ngày đi không về.

Điều duy nhất có thực là đời sống tâm tư của y: tim đập xôn xao, khát vọng như kim đâm đau đớn, mơ mộng đem lại vui lẫn với buồn. Y sống cho những tâm trạng ấy và y là vật sở hữu của những tâm trạng ấy. Giữa lúc ngồi học hay đọc sách có khi y lạc vào trong suy tưởng của y và y quên hết, y trôi theo dòng tâm tư đến những hố sâu đầy nhạc điệu âm thầm, đến những vực thẳm đầy phong cảnh thần tiên, ngàn âm thanh thánh thót đều là tiếng của mẹ y, muôn khóe thu ba đều là mắt của mẹ y.