- 2 -
Sau việc vua Thành Thái chống Pháp thất bại bị đày đi Ô Cấp (Cap St Jacques = Vũng tàu) rồi lại bị đưa sang an trí tại đảo Réunion (thuộc Phi Châu) thì phong trào bài Pháp ở Đông Dương càng ngày càng sôi nổi, nhất là từ khi vua Duy Tân kế nghiệp vua cha (1907) và các đảng phái cách mạng được tự do thành lập dưới sự che chở của dân chúng, các đảng phái chính trị này tuy tổ chức dưới hình thức khác nhau, nhưng đại đồng tiểu dị, đều nhắm một mục đích giải phóng dân tộc, chống lại thực dân, đế quốc Tây Phương,
Mạnh mẽ nhất là đảng Việt Nam Quang Phục Hội tuy hoạt động ở ngoại quốc (1910) nhưng đã gây được ảnh hưởng giới sĩ phu Trung Việt và cái tôn chỉ rõ rệt với các nhà lãnh tụ Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền bắt đầu thấm nhuần vào đám bình dân. Từ khi đảng Văn Thân dưới quyền lãnh đạo của nhà ái quốc Phan Đình Phùng bị đàn áp đến rã rời, cô lập, thì phong trào chính trị Việt Nam lại chuyển hướng, tuyệt đối không bạo động, dùng cách ôn hòa, tiềm tàng gây thế lực ở ngoại quốc cho đảng viên tuyên truyền trong dân chúng, đợi bao giờ, lượng đầy dủ mới hoạt động. Sau việc Kỳ ngoại hầu Cường Để xuất dương sang Nhật, thì phong trào Đông Du được mọi người hưởng ứng nhiệt liệt. Mặc dầu chính quyền Bảo Hộ hết sức ngăn cản, những phần tử quốc gia chân chính như Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Thượng Hiền, Lâm Đức Thụ..... cũng trốn thoát được sang tập trung ở Đông Kinh họp mặt với các chính khách Phù Tang. Năm 1910, Việt Nam Quang Phục Hội ra đời, nhưng cũng năm đó cũng bị một phen thất bại đau đớn khiến cho bao nhiêu hy vọng chứa chan sớm bị tiêu tan như mây khói. Vì thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức, và thêm vào đó tính khinh thường của ông Nguyễn Hải Thần tổng tư lệnh, Phục Quốc quân đóng Long Châu tấn công đồn Tà Lùng bị thất bại, nhiều yếu nhân đã trả nợ nước dưới mũi súng hay trên làn nước bạc. Ông Nguyễn Hảỉ Thần may chạy thoát được sang Quảng Đông, lực lượng Phục Quốc Quân rã rời tan tác như cánh hoa dào trước trận cuồng phong. Chính phủ thực dân Pháp hồi ấy đã nhận rõ tính cách quan trọng của cuộc hành quân này, và sợ rằng nếu để các phần tử ái quốc Việt Nam còn được tự do ở Hải ngoại thì sớm muộn nhiều cuộc bạo động quân sự khổng lồ hơn nữa sẽ tiếp diễn ở biên thùy Hoa Việt và có thể lan tràn đến nội địa. Vì vậy, một mặt Pháp cho người đi lùng bắt ráo riết các đảng viên Việt Nam phục quốc hội, một mặt Pháp giao thiệp với Chính phủ Nhật để bắt Kỳ Ngoại Hầu và các học sinh Việt Nam ở đất Phù Tang.
Hồi ấy Nhật Bản tuy hùng mạnh thật, nhưng cũng còn phải hàm ơn các nước Anh, Pháp, Mỹ trong cuộc chiến tranh với Nga Hoàng (1905) nên bắt buộc phải nhận lời yêu cầu của Pháp. Da dĩ, những chính khách Nhật, thực Iòng ủng hộ cách mệnh Việt Nam như Khuyển Dưỡng Nghi, Bá Nguyên Tùng, Đẩu Sơn.... thì đã rút lui khỏi sân khấu chính trị từ lâu rồi, thành ra đảng viên thân cô, thế cô, chỉ còn trông ở sự may rủi định đoạt vận mệnh. Cũng năm ấy, Nhật hoàng ra lệnh trục xuất nhà ái quốc Cường Để vì các học sinh Việt Nam sang Trung Hoa. Tàu đến bến Thượng Hải, Pháp cho người xuống bắt cụ Cường Để nhưng cụ thoát được nhờ ở tấm lòng nghĩa hiệp của viên chủ tàu, Kỳ Ngoại Hầu trốn về Quảng Đông, gặp cụ Phan Bội Châu, bàn cách kiến thiết lại đảng, và ấn định lập trường tranh đấu.
Nhân đã được đọc nhiều sách của nhà văn cách mệnh Lương Khải Siêu, họ Phan tìm vài quyển mà tư tưởng dễ thâm nhập nhất đem phiên dịch ra quốc âm rồi bí mật sai người mang về nước phân phát cho dân chúng. Cũng nhờ có cách tuyên truyền ấy mà nhiều thanh niên Việt Nam ái quốc rủ nhau xuất ngoại, với một nguyện vọng tha thiết là cố học thành tài để sau này đem cái sự học của mình phụng sự quốc gia. Những người vì điều kiện sinh hoạt bó buộc không đi được, thì hoặc quá bồng bột, hoặc thiếu kinh nghiệm, đã gây nhiều cuộc bạo động để rồi dắt nhau đi đến một sự thất bại đau đớn nặng nề. Năm 1911 Chu Đình Trạc khởi nghĩa ở Yên Bái, Hoàng Hoa Thám âm mưu đầu độc lính Pháp ở Hà Nội.
Năm 1912, Nguyễn Văn Tráng, một đảng viên của Việt Nam Phục Quốc Hội liệng bom kết liễu tính mạng viên tuần phủ Thái Bình là Nguyễn Duy Hàn. Tháng 10 năm 1914, các đảng phái cách mệnh liên minh với nhau hoạt động ở biên giới Hoa Việt. Chỉ trong vài ngày ba đạo quân đều bị tan tác dưới trận mưa đạn của đối phương. Trần Hữu Lực cầm đạo quân ở Lai Châu bị bắt đem về chém ở Bạch Mai. Hoàng Trọng Mậu chỉ huy nghĩa binh ở Yên Bái và Lê Đức Mân ở Lạng Sơn chạy thoát được, nhưng lại bị bắt và kết tội tử hình (1915).
Thế là chỉ trong khoảng không đầy 5 năm, bắt đầu từ khi Việt Nam Quang Phục Hội được thành lập ở Đông Kinh (1910) chọ đến kỳ Âu chiến lần thứ nhất bùng nồ, nhiều phần tủ ưu tú của đảng đã trả xong món nợ máu đối với Tổ quốc, và tô điểm thêm vào những trang sử oanh liệt của Việt Nam một màu vàng son chói lọi. Sau những việc thất bại liên tiếp đó, các lãnh tụ của đảng ra lệnh đình chỉ mọi việc bạo động và chỉ chú trọng về phương diện tuyên truyền. Đến tháng 3 năm 1916, thì đảng đột nhiên thay đổi lập trường nhất quyết bạo động để gây ảnh hưởng nhưng lần này thì kết quả lại thảm hại hơn. Trong quá trình tranh đấu, sự hoạt động về quân sự của đảng có lẽ đã diễn đến màn chót, vì sau việc vua Duy Tân xuất bôn rồi bị cầm tù, bao nhiêu đảng viên còn lại đều mất phương tiện sinh hoạt và đành chịu bất lực trước sự thay đổi của cục diện đất nước. Nhân việc lăng tẩm của vua Dực Tôn (Tự Đức) bị viên Khâm sứ Trung Kỳ Mahé khai quật để tìm vàng, Phan Hữu Khánh, một thanh niên rất lanh lợi, vừa tốt nghiệp trường thương mại kỹ nghệ ở Huế, dâng vua Duy Tân một bức thư lời lẽ rất lâm ly thống thiết mô tả nổi khổ tâm của người dân sống dưới quyền thống trị của ngoại bang. Nhà vua vừa đọc thơ vừa khóc, rồi hẹn sẽ gặp Trần Cao Vân, Thái Phiên ngày 12 tháng 3 âm lịch (1916) ở Trường thi.
Đúng ngày ấy, vua Duy Tân giả vờ đi xem duyệt binh, rồi thừa cơ đến bờ sông bí mật hội họp với hai thủ lãnh của đảng.
Nhà vua nóng muốn khởi sự, nhưng Trần Cao Vân can rằng:
- Sự tổ chức chưa hoàn bị xin bệ hạ hãy để thư thả.
Thái Phiên quắc mắt tiếp:
- Nếu ta để chậm ngày nào là dân khổ ngày ấy. Sống chết cũng phải khởi nghĩa phen này.
Vua Duy Tân ứa nước mắt:
- Phụ hoàng vì thương con do bị trói buộc dưới vòng nô lệ, mà bỏ cả ngai vàng để quyết chiến với người Pháp. Rút cục, tấm thân muôn cỗ xe phải giải rầu nơi đất khách. Các ngươi đều nặng lòng ái quốc, nỡ nào khoanh tay nhìn Tổ quốc tan nát dưới gót giầy xâm lăng, chả đáng thẹn với tiền nhân lắm ru!
Trần Cao Vân cũng khóc:
- Thần rút kinh nghiệm những cuộc khởi nghĩa trước đây, nên chẳng dám bạo động sợ lại thất bại lần nữa thì xấu hổ với những nắm xương dưới mồ nghĩa sĩ. Bệ hạ thông minh chắc cũng thấu rõ nỗi khổ tâm của kẻ yếu đứng trước kẻ mạnh.
Vua Duy Tân lại tiếp:
- Sự tồn vong của dân tộc chỉ trông cậy ở các người, sao lại quá nhút nhát mà để lỡ mất cơ hội tốt đẹp? Trẫm đã không thiết gì đến vinh hoa phú quý muốn đem chút tàn lực để xoay sở lại thời cuộc, các ngươi cũng đừng quá nặng tình với gia đình, hãy vì quyền lợi của Tổ quốc mà hứng tay nhận lấy một phần trách nhiệm.
Thấy nhà vua nói thiết tha quá, Vân cũng cảm động, đành phải nhận lời, và hứa sẽ nhờ Phan Hữu Khánh bấy giờ đã làm tài xế cho nhà vua làm liên lạc viên giữa Hoàng Gia và đảng cách mệnh.
Trần Cao Vân về đến nhà, bàn bạc với em là Trần Lập Thành về việc ấn định kế hoạch khởi sự. Thành năm ấy vừa đúng 26 tuổi, rất thông minh lanh lợi, tính nết lại thâm trầm, người trông ra vẻ nho nhã phong lưu nhưng côn quyền rất giỏi. Trong thời gian hoạt động cách mệnh, Thành chỉ đội tên anh, không mấy khi hợp mặt với các đảng viên, nên ít người biết đến. Chàng thông thạo cả Hán học và Pháp học, giá như ai tham bả vinh hoa, cam tâm luồn cúi thì cũng “quan trường năm bảy chuyến, quan ngoài ba bốn phen” nhưng chàng thanh niên đó vì xót giống thương nòi muốn đập tan xiềng xích nô lệ để giải phóng dân tộc.
Được anh tin cậy, giao phó cho việc cổ động lấy đảng viên cùng là thiết lập hệ thống liên lạc suốt từ Bắc vào Nam, Trần Lập Thành nghiễm nhiên đóng một vai trò can hệ trong cuộc phục hưng đất nước. Nhân được nhà vua ủy thác cho trọng trách, Trần Cao Vân bí mật triệu tập các đại biểu của các tỉnh miền Trung Việt đến họp tại một khu chùa cách Phú Xuân (Huế) chừng 5 cây số.
Buổi tối hôm ấy, khi mọi người đã đến đông đủ, Thái Phiên sai giải chiếu ở trên Tam Bảo rồi mời các đồng chí vào thảo luận kế hoạch khởi sự. Chung quanh chùa đều đặt trạm canh gác, có nghĩa quân đeo súng tuần phòng. Dưới ánh lửa chập chờn của hơn ba chục ngọn nến những hình người ngồi xếp vòng tròn chung quanh chiếc lư hương cao hơn thước tây đang nhả từng làn khói thơm cuồn cuộn tung bay. Thái Phiên bày bốn cái ấn kinh lược của nhà vua mới đúc, lên bệ gạch rồi cất tiếng sang sảng nói:
- Hoàng đế giao cho chúng ta trách nhiệm giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ. Trong lúc này, vận mệnh của Tổ quốc như ngọn đèn trước gió, có thể vì một lầm lỡ về quân sự, mà toàn dân sẽ mất hết hy vọng độc lập.
Trước khi hành động, chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng các kế hoạch tấn công đồn binh, cốt sao cho mau lẹ và đỡ rỏ nhiều máu mới được. Ai có ý kiến gì hay, xin tự do phát biểu.
Có người hỏi:
- Bốn cái ấn kia dùng làm gì?
- Theo ý muốn của Hoàng đế thì mấy tỉnh Trung Việt đã chịu ảnh hưởng nhiều nhất của đảng, sẽ chia làm bốn khu: đặt dưới quyền kiểm soát của bốn vị kinh lược. Bốn khu là:
1) Bình Trị (tức Quảng Bình, Quảng Trị do Phan Phú Tiên chỉ huy.
2) Nam Ngãi (Quảng Nam, Quảng Ngãi) thì tôi đảm nhiệm.
3) Bình Phú (Bình Định, Phú Yên) thuộc quyền của Lê Ngưng.
4) Khánh Thuận (Khánh Hoà, Bình Thuận) thì giao cho Phan Thanh Tài.
- Xin ấn định rõ ràng của mỗi vị kinh lược.
Thái Phiên nghĩ một lát, rồi tiếp:
- Các vị kinh lược có toàn quyền điều khiển hành chính và quân sự trong phạm vi khu vực của mình. Đồng thời, phải luôn luôn liên lạc với nhau để trao đổi quan niệm về cách dùng binh và thâu nhận đảng viên mới. Bốn vị này được trực tiếp với Hoàng đế, và được quyền sử dụng những biện pháp thích hợp với nhu cầu quân sự, rồi sẽ tâu sau.
Lê Ngưng tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Như thế thì sự hành động sẽ mất tính cách thống nhất.
- Trong lúc này, ta phải tùy theo sự biến chuyển của thời cuộc mà quyết đoán công việc không thể nhắm mắt theo mãi con đường đã vạch sẵn. Cốt sao gây được cảm tình trong dân chúng và điều động họ được dễ dàng trong cuộc chiến tranh toàn diện với đối phương.
Có tiếng người hỏi:
- Thế nào là chiến tranh toàn diện?
- Ta đánh địch không những về mặt quân sự mà còn về mặt kinh tế và văn hóa nữa.
- Xin giải thích cho rõ ràng.
- Địch dùng chính sách “dĩ chiến dưỡng chiến”, lấy thóc gạo của ta để nuôi quân lính, đồng thời tải hàng hóa ở nước sang, bán cho dân ta. Như vậy, hèn chi nền kinh tế của ta chả bị lũng đoạn? Ta đối phó lại bằng một phương pháp rất giản dị: tuyên truyền cho dân chúng tẩy chay hàng hóa của họ và không bán thóc gạo cho họ nữa. Muốn đạt được kết quả mau chóng, Trung Ương đảng bộ kíp sai người đặt những bài vè nói về việc này, rồi dạy truyền khẩu cho bọn xẩm ở các bến đò quán chợ, để cho toàn dân biết mà thi hành.
Phan Phú Tiên mỉm cười nói:
- Như thế dễ bị lộ tẩy.
- Không sao, miễn sao lọt vào tai dân chúng là được.
Sau một hồi thảo luận sôi nổi nữa, các đại biểu bỏ phiếu ấn định kế hoạch khởi sự. Chương trình hành động đại khái gồm mấy khoản sau đây:
1) Phát động phong trào tổng tấn công khắp các tỉnh. Chi bộ Phú Xuân (Huế) sẽ nổ súng báo hiệu. Các đơn vị nghĩa quân đóng ở Đèo Hải Vân sẽ đốt lửa thông tin cho hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi biết.
2) Dân quân sẽ phối hợp với lực lượng quân chính quy đóng rải rác ở Kinh Đô đánh chiếm các đồn binh.
3) Chiếm cửa bể Đà Nẵng để lấy đường ăn thông ra biển.
4) Nếu thất bại, thì các đạo quân sẽ thối lui vào rừng để đợi lệnh mới của Trung ương đảng bộ.
5) Ngày khởi nghĩa nhất định là mồng một tháng tư âm lịch. (tháng 5, 1916)
Thoả thuận rồi, mọi người đứng dậy ra về. Đi đường Thành khẽ hỏi Vân:
- Anh có chắc đại sự sẽ thành công?
- Ai đã dám chắc? Muôn việc đều ở giời.
- Anh nên tin ở mình hơn là ở giời!
Vân vỗ vai em:
- Có giời mà cũng có.... ta nữa. Nếu lòng giời không tựa thì bao nhiêu công lao cũng chỉ là công.... cốc.
Thành thở dài:
- Lực lượng của ta đối với địch thế nào?
- Kém hẳn.
- Đã biết thế, sao còn lao mình vào cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm?
Vân tức giận:
- Mày sợ à?
- Em không sợ, nhưng em không chịu chết một cách vô ích.
- Chết vì nước mà mày bảo là chết vô ích à?
Công việc ở đời thành hay bại không đáng kể lắm. Trên con đường giải phóng dân tộc, tao muốn cắm thêm một cái mốc nữa, để cho thế hệ mai sau trông thấy mà làm gương.
Thành cúi đầu không nói.
Thấm thoát đến ngày 30 tháng 3 âm lịch. Ở Quảng Ngãi vì sự phản bội của một đảng viên, câu chuyện bị vỡ lở. Lập tức các binh lính Việt Nam bị tước khí giới và bị tống giam. Quân Pháp tuần hành khắp phố bắt giữ những người khả nghi. Lê Ngưng bị bắt cùng với một số đảng viên nữa, rồi bị lên án tử hình. Ở Đà Nẵng, Phan Thanh Tài cũng chung một số phận. Ở Huế viên Khâm sứ Charles ra lệnh giới nghiêm. Thái Phiên đem vua đi trốn vào chùa Thiên Mụ, rồi bị bắt. Trần Cao Vân chạy về làng Hà Trung ở được ít lâu, sau cũng bị cầm tù.
Ngày 17 tháng 5 năm 1916, hai vị thủ lãnh Trần Cao Vân và Thái Phiên bị chém ở chợ An Hoà, còn vua Duy Tân thì bị đày đi an trí ở đảo Réunion thuộc Châu Phi. Các đảng viên bị truy nã ráo riết, người bị bắt, người tự tử chết nhiều vô kể. Riêng có Trần Lập Thành chạy thoát được cải trang là một hành khất, rồi luồn rừng di ra Bắc, định vượt qua biên giới sang Tàu.
Khi chàng đến Trại Cơ, thì gặp Ba Lập là một liên lạc của đảng, ở lại chơi mấy hôm thì không may xảy ra việc hai vợ chồng chủ nhân ấu đả nhau, khiến cho chàng bị lộ hình tích và bị bắt giải về Đồn Áp.