Phần III Nền tảng của thành phố-I
Chúng ta hãy xem rõ hơn đàn ong làm gì trong cái tổ, nơi chúng được người nuôi ong tập trung lại và đưa vào đó. Trước hết chúng ta nên nhớ đến sự hy sinh của năm mươi ngàn ong trinh nữ, mà theo lời của Ronsard: “chúng có một trái tim tuyệt vời trong cái thân thể nhỏ bé”, và một lần nữa chúng ta lại thấy kinh ngạc với lòng dũng cảm cần thiết cho việc bắt đầu một cuộc sống mới ở chốn hoang sơ, nơi chúng rơi vào. Chúng đã quên đi ngôi nhà sung túc và tuyệt vời, nơi chúng sinh ra, nơi cuộc sống của chúng được đảm bảo và được tổ chức hoàn hảo, nơi mật của đủ mọi loài hoa gợi nhớ đến ánh mặt trời, cho phép chúng mỉm cười đón những mối hiểm họa của mùa Đông. Ở đó chúng đã phải bỏ lại hàng ngàn cô con gái của mình đang ngủ ngon trong những chiếc nôi-kén, chúng sẽ không bao giờ được thấy lại những đứa con ấy nữa. Ở đó chúng đã phải bỏ đi, ngoài một lượng sáp rất lớn, keo ong và phấn hoa mà chúng tích cóp được, còn phải đến hơn 60 kg mật ong, tức là nặng hơn 12 lần khối lượng của toàn bộ đàn ong cộng lại, gần 600 ngàn lần nặng hơn cân nặng của mỗi một con ong, với con người thì lượng mật đó tương đương với 42 ngàn tấn lương thực, cả một đội tàu lớn chở nặng thứ dưỡng chất quý báu hơn và thập toàn đại bổ hơn tất cả những gì chúng ta được biết, vì mật ong đối với đàn ong giống như thứ nhựa sống; đối với chúng đây là một dạng sữa tiêu hóa được ngay và hầu như không có dư lượng tồn đọng.
Ở đây, nơi ở mới chẳng có gì: không một giọt mật, không một vụn sáp, chẳng có điểm khởi đầu, cũng chẳng có điểm tựa. Chỉ có một tòa nhà khổng lồ trần trụi ảm đạm, ở đó chẳng hề có gì ngoài mái và tường. Những bức tường lượn tròn và phẳng lì chẳng bao bọc, mà là trùm kín một không gian tối tăm, còn bên trên khoảng không là một mái vòm hình cầu. Nhưng ong không biết đến những sự luyến tiếc vô bổ, và bất kể trong tình huống nào, nó cũng chẳng chùn bước. Sự hăng say của nó chẳng những không giảm sút đi bởi thử thách dường như vượt quá bất kể một lòng dũng cảm nào, mà còn tăng thêm hơn bất kì lúc nào. Tổ chỉ vừa mới được dựng lên và đặt vào đúng chỗ, cảnh hỗn loạn do việc vỡ tổ huyên náo vừa mới được thu xếp ổn thỏa, trong đám đông pha tạp ta thấy ngay một sự phân công rất rõ ràng và hết sức bất ngờ. Phần lớn nhất của đàn ong, như một đạo quân, tuân theo một mệnh lệnh rất rõ ràng, bắt đầu leo lên - chúng tạo thành những cột ong lớn dựng dọc theo các bức tường của cái to lớn. Những con đầu tiên trong số ong đã lên tới mái vòm dùng móng của hai chân trước bấu chặt vào đó; những con sau bám vào chúng và cứ thế cho đến khi hình thành những dây ong dài làm thành cây cầu cho cả bầy đang ngày càng leo lên cao. Dần dần số lượng dây ong càng tăng lên, mỗi lúc càng trở nên dày hơn và ngày càng bện vào nhau nhiều hơn, rồi cuối cùng biến thành những tràng dài; do số ong đông vô kể và không ngừng leo lên, những tràng ong quấn vào nhau thành một bức mành dày hình tam giác hay, nó đúng hơn, là trông giống như một hình nón dày có đỉnh hướng lên mái vòm, nơi chúng được đính chắc vào, còn phần đáy trải rộng buông xuống đến một nửa hay đến hai phần ba toàn bộ chiều cao của tổ. Khi con ong sau cùng cảm thấy có giọng nói bên trong gọi nó nhập vào đội quân này, đã leo tới bức mành treo trong bóng tối, thì việc leo trèo ngừng lại; chuyển động trên mái vòm dần dần ngừng hẳn, và cái hình nón kì lạ treo lơ lửng trong suốt nhiều giờ chờ đợi sự bí ẩn của việc hình thành sáp, trong một sự im lặng mà ta có thể nghĩ là một sự im lặng đầy linh thiêng, và trong sự bất động đáng sợ. Trong lúc đó, những con ong khác, tức là những con ong còn lại ở phía dưới của tổ, chẳng quan tâm đến sự hình thành tấm mành kì diệu, mà một tặng vật màu nhiệm có thể được ban xuống trong những nếp gấp của nó, rõ ràng là, chúng cũng chẳng bị cám dỗ bởi mong muốn hòa nhập vào nơi đó, chúng xem xét ngôi nhà và bắt tay thực hiện các công việc cần thiết.
Sàn được quét cẩn thận, và những chiếc lá, cành khô, những hạt cát lần lượt được mang dọn ra xa, vì tính ưa sạch sẽ của loài ong đạt đến độ cuồng: vào giữa mùa Đông, những trận giá rét mạnh, kéo dài quá lâu ngăn cản chúng thực hiện cái gọi là “chuyến bay thanh sạch”, không muốn tổ bị bẩn, chúng chết hàng loạt bởi một căn bệnh đường ruột khủng khiếp. Chỉ có những con đực vô tâm không sửa được mới ngang nhiên làm bẩn các tầng tổ mà chúng đi vào, bởi thế các con ong thợ phải liên tục theo sau chúng để làm sạch tổ.
Sau khi làm sạch tổ, những con ong thuộc nhóm không được thông báo đó - nhóm không chen vai thích cánh với những con ong của cái hình nón treo lơ lửng trong sự phấn chấn nào đó - bắt đầu cẩn thận trám lại bề mặt bên trong của ngôi nhà chung. Sau khi xem xét mọi khe hở, trám và phủ kín các khe hở bằng keo ong, rồi chúng mới bắt đầu đánh bóng tường của toàn bộ tòa nhà từ trên xuống dưới. Đội canh cửa được tổ chức lại, và số ong thợ nhanh chóng được xác định, cất cánh bay ra các cánh đồng và khi bay về chở nặng mật và phấn hoa.
IITrước khi vén những nếp gấp của bức màn bí ẩn, mà trong bóng tối của nó là nền móng của ngôi nhà đích thực, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem các chú ong di cư bé nhỏ của chúng ta phải thể hiện biết bao nhiêu là trí tuệ, sự nhìn nhận chính xác, sự tính toán và nghệ thuật cần thiết cho việc thích ứng với nơi cư trú, để vẽ được quy hoạch của thành phố trong khung cảnh trống trải, hình dung ra ở đó địa điểm của các tòa nhà, sẽ phải xây chúng một cách tiết kiệm nhất và nhanh nhất có thể, vì ong chúa cần phải đẻ trứng, kẻo nó đẻ trứng vương vãi khắp sàn mất. Ngoài ra, trong mê cung này còn có các công trình chưa thực hiện được, hình thức của chúng cần phải khác thường, đừng nên quên mất các quy tắc về sự thoáng khí, tính vững chác, độ bền lâu, đánh giá sức bền của sáp, tính chất của số lương thực sẽ cần phải bảo quản, sự tự do ra vào, các thói quen của ong chúa, việc bố trí, một phần nào đó, đã được xác định trước, tổ chức một cách tối ưu các kho chứa, nhà cửa, phố phường, đường đi lối lại và nhiều công việc khác mà có lẽ phải mất rất nhiều thời gian để liệt kể ra.
Hình dáng của tổ ong được con người đưa ra cho đàn ong thay đổi vô cùng: từ thân cây rỗng ruột, hình trụ đất sét ngày nay vẫn còn được sử dụng ở châu Phi và châu Á, và tổ theo lối cổ hình chuông bằng rơm, mà ta có thể bắt gặp giữa những luống hoa hướng dương, cây hoa lốc, hoa thục quỳ trong các vườn rau hay dưới ô của sổ của phần lớn các trang trại của chúng ta, cho đến các nhà máy đích thực của ngành nuôi ong thời nay, nơi đôi khi tích tới hơn 150 kg mật ở ba hay bốn tầng ong nằm nối đuôi nhau và có khung bao quanh cho phép họ kéo ra, lấy các tầng tổ, tách lấy mật ong bằng lực li tâm nhờ các tua-bin rồi đặt chúng trở về vị trí cũ như cách làm với sách trong một thư viện được tổ chức tốt.
Tính thất thường hay nhu cầu của con người vào một ngày đưa đàn ong ngoan ngoãn vào một nơi chốn nào đó làm đàn ong mất đi nề nếp thông thường. Con côn trùng bé nhỏ phải sắp xếp, định hướng, thay đổi kế hoạch mà dẫu hoàn cảnh sống có thế nào thì nó vẫn phải bất biến, phải xác định trong không gian lạ lẫm này vị trí của kho chứa mùa Đông, chúng không nên vượt ra khỏi khu vực có nhiệt độ ấm áp do đàn ong ngủ mơ màng tỏa ra; chính nó, cuối cùng, phải xác định một điểm tập trung các tầng tổ cho lứa ong mới - vị trí của các tầng, để tránh sự không may nào đó, phải gần như không thay đổi - không quá cao, cũng không quá thấp, không gần, và cũng không xa cửa chính. Chẳng hạn như đàn ong đi khỏi một thân cây đổ có đường hầm dài nằm ngang, hẹp và dẹt - bỗng nhiên chúng rơi vào một cái tổ dựng đứng như tòa tháp cao, mái bị lấp mất trong bóng tối. Hay để hiểu rõ hơn nữa sự kinh ngạc đương nhiên của chúng, bạn hãy thử hình dung một hình ảnh như sau: chúng, suốt bao đời nay đã quen sống dưới mái vòm bằng rơm của những chiếc tổ ở làng quê của chúng ta, đột nhiên chúng thấy mình bị đưa vào một cái gì đó giống như một cái tủ to hay một cái rương, rộng gấp ba bốn lần ngôi nhà, nơi chúng ra đời, và bây giờ phải định hướng giữa một đám khung chằng chịt treo hết cái này đến cái khác, khi thì song song, khi thì vuông góc với cửa ra vào và tạo thành cả một mạng lưới rừng rậm làm rối tung toàn bộ bề mặt tổ của chúng.
IIIKhông gì có thể ngăn cản được chúng - người ta không nhớ nổi một ví dụ nào về chuyện đàn ong từ bỏ làm việc, mất đi lòng dũng cảm hay bối rối do sự khác thường của hoàn cảnh, miễn là ngôi nhà được chào mời không nồng nặc mùi khó chịu hay thực sự không thể sống được. Thậm chí trong tình huống như thế cũng không thể nói về sự sa sút tinh thần, sự dao động hay rũ bỏ trách nhiệm. Đàn ong đơn giản là bỏ nơi ở không thân thiện và lên đường tìm một cơ may tốt hơn ở đâu đó xa hơn. Còn hiếm thấy hơn nữa những trường hợp có một ai đó bắt gặp những con ong làm một việc không cần thiết và ngu ngốc. Chưa bao giờ người ta thấy những con ong điên rồ hay chúng khi không biết quyết định thế nào, phó mặc cho may rủi cứ xây các công trình bừa bãi và sai quy tắc. Bạn cứ thử cho chúng vào một khối cầu, khối vuông, khối kim tự tháp, một cái giỏ hình ô-van hay đa giác, vào một khối hình trụ bay hình xoắn ốc; bạn hãy quan sát chúng một vài ngày, nếu chúng chấp nhận nơi ở - bạn sẽ thấy cái tập hợp là lạ của những bộ óc nhỏ, độc lập này đã nhanh chóng biết đi đến thỏa thuận, không hề do dự, nhờ một phương pháp mà các nguyên tắc của chúng, rõ ràng là bất di bất dịch, nhưng hậu quả là có tính sống còn, lựa chọn một vị trí có lợi nhất, thường là một địa điểm duy nhất có thể tận dụng được trong nơi ở lạ lùng này.
Khi cho chúng vào ở một trong những nhà máy có các bộ khung lớn, được lắp sẵn, mà chúng ta vừa nói đến, đàn ong để tâm đến những cái khung này chỉ một khi chúng là các điểm khởi đầu và điểm tựa thuận tiện cho các tầng tổ của đàn ong, và việc đàn ong không hề lo lắng, xem con người muốn gì, cũng như có ý đồ gì, là một điều hết sức tự nhiên. Nhưng nếu người nuôi ong có ý gắn thêm một dải sáp nhỏ cho tấm ván ở phía trên một số cái khung, thì chúng sẽ cẩn thận kéo dài dải sáp này, và bổ sung thêm cả sáp của mình, một cách có phương pháp chúng nối tiếp các tầng tổ theo quy hoạch định sẵn. Đúng như thế - đây là cách thường thấy trong ngành nuôi ong đang phát triển mạnh mẽ hiện nay - nếu tất cả những cái khung của chiếc tổ, nơi cho đàn ong vào ở, được gắn thêm từ trên xuống dưới các phiến sáp xếp nếp, đàn ong sẽ không mất thời gian dựng những cái khác ở bên cạnh hay nằm vắt ngang, chúng sẽ không làm sáp một cách vô ích, nhưng khi thấy công việc đã được thực hiện một nửa rồi, chúng lấy làm hài lòng với việc đào sâu và nối dài từng khoang tổ đã được định rõ trên phiến sáp, chỉnh sửa dần các điểm, nơi phiến sáp bị lệch khỏi đường thẳng đứng; bằng cách này, chưa đầy một tuần chúng đã là chủ nhân của một thành phố tuyệt đẹp và được xây dựng tốt, đúng như thành phố mà chúng đã bỏ đi; thế nhưng nếu phó mặc cho các nguồn dự trữ riêng của chúng, thì chúng có lẽ phải mất hai hay ba tháng làm việc, để xây dựng lên những kho chứa dồi dào và nhà ở bằng sáp trắng như thế.
IVTất nhiên, khả năng thích nghi này có vẻ như vượt xa khỏi giới hạn của bản năng. Nhưng thực chất thì không có gì võ đoán hơn những sự phân biệt giữa bản năng và lí trí. Ông John Lubbock, người đã tiến hành những quan sát thú vị và độc lập về kiến, ong vò vẽ và ong mật, rất có khuynh hướng không công nhận ong có khả năng phân biệt và suy xét, như thể chúng vừa mới thoát khỏi lối mòn trong những hoạt động quen thuộc của chúng. Điều này xảy ra, có thể do sự ưu ái hơn có tính vô thức và phần nào bất công tác động đến một người nghiên cứu kiến, - là đối tượng nghiên cứu chuyên môn của ông, - vì bất kể một nhà nghiên cứu nào cũng muốn con côn trùng mà anh ta nghiên cứu là con thông minh hơn và tuyệt vời hơn các con khác; song ta nên tránh cái thói kì quặc nhỏ nhen của tính tự ái này. Để chứng minh cho suy nghĩ của mình ông John Lubbock tiến hành một thử nghiệm mà ai cũng có thể dễ dàng thực hiện. Hãy thả nửa tá ruồi và nửa tá ong vào một chiếc bình thon cổ, đặt nó nằm ngang, đáy xoay về cửa sổ của căn phòng. Những con ong suốt nhiều tiếng đồng hồ nháo nhào tìm lối ra qua đáy bình, chừng nào còn chưa chết vì mệt và đói, thế nhưng những con ruồi chưa đến hai phút đã ra hết qua miệng bình ở phía đối diện. Ông John Lubbock từ đó kết luận rằng trí óc của ong quá ư là hạn chế, còn ruồi đã thể hiện sự khôn khéo hơn nhiều để tìm được đường và thoát ra. Kết luận này có vẻ như là miễn chê vào đâu được. Bạn cứ thử lần lượt xoay 20 lần liền tùy ý, khi thì đáy, khi thì miệng một cái bình cầu trong suốt về phía có ánh sáng - cả 20 lần những con ong đều quay hướng về phía ánh sáng. Trong thí nghiệm của nhà khoa học người Anh thì cái nguy hiểm với ong là sự yêu thích ánh sáng của chúng, đây cũng chính là trí khôn của chúng. Rõ ràng là, chúng tưởng rằng trong chốn giam hãm nào thì sự giải thoát ắt hẳn phải là từ phía sáng hơn; chúng hành động thích hợp và ngoan cố trong các hành động quá đỗi logic của mình. Chúng đâu biết đến sự bí ẩn siêu nhiên bao giờ, với chúng chính tấm kính là cái điều bí ẩn; chúng chỉ thấy không gian bỗng nhiên trở nên không thể chui lọt qua được, tức là đã xảy ra một hiện tượng không có trong tự nhiên; ắt hẳn với chúng sự ngăn trở này, điều bí ẩn này càng không thể chấp nhận được, càng không thể hiểu nổi, thì chúng càng khôn ngoan hơn; trong khi đó những con ruồi không não, chẳng hề bận tâm đến logic, đến lời kêu gọi của ánh sáng, về sự bí ẩn của tấm kính, cứ bay vô định trong cái bình cầu và vô tình trên đường bay của mình gặp được cái miệng bình tốt lành đã giải thoát cho chúng - như đôi khi những kẻ thiển cận thoát chết ở nơi mà các nhà thông thái chết.
VCũng chính nhà tự nhiên học này còn thấy một bằng chứng nữa cho sự thiếu trí khôn của loài ong trong đoạn trích dẫn từ Langstroth một nhà nuôi ong đáng kính, người Mĩ: “Vì ruồi có thiên tính sống không phải nhờ hoa, mà là nhờ các chất mà nó có thể đằm mình trong đó, nó cảnh giác đậu ở mép của những chiếc bình đựng thức ăn lỏng, và thận trọng hút, trong khi ấy thì một con ong đáng thương lao đầu xuống đó và chết liền, số phận đáng sợ của người chị em của chúng chẳng hề ngăn những con khác một chút nào, chúng đến lượt mình tiến sát mồi ăn: như bị mất trí, chúng đậu trên những cái xác và những con đang giãy chết. Không một ai có thể tưởng tượng nổi sự điên rồ của chúng kinh khủng đến thế nào, nếu anh ta không nhìn thấy một cửa hàng mứt kẹo bị vô số những con ong đói khát bao vây. Tôi đã thấy hàng ngàn con ong bị chìm trong si-rô được vớt ra; tôi đã thấy hàng ngàn con lao xuống nước đường đang sôi; mặt đất, và những ô cửa sổ phủ đầy xác ong đen kịt; một số lê lết, một số bay lượn, có những con bê bết đến mức chẳng thể bay, cũng như bò được; thậm chí một phần mười số ong không thể mang về nhà chiến lợi phẩm được lấy theo cách tồi tệ ấy, thế nhưng trong không trung đàn đàn lũ lũ ong vẫn kéo đến và chúng cũng điên rồ như thế”.
Đây đâu phải là bằng chứng tốt nhất, nó có khác gì những cảnh tượng tàn tạ, phá hại của thói nghiện rượu và chiến trận là bằng chứng cho một siêu nhân muốn xác định những hạn chế về trí tuệ của chúng ta. Địa vị của ong trong thế giới này thật kì lạ, nếu so sánh nó với địa vị của chúng ta. Ong đến thế giới này để sống giữa một thiên nhiên vô tình và vô thức, chứ không phải bên một sinh vật dị thường đảo lộn các quy luật bất biến nhất gần gũi với chúng và tạo ra các hiện tượng kì vĩ và không thể hiểu nổi. Trong một trật tự tự nhiên, trong sự tồn tại đơn điệu của một cánh rừng thân thuộc sự say cuồng được Langstroth mô tả chỉ có thể có được khi vì một sự tình cờ nào đó có một tổ ong đầy mật bỗng vỡ tung ra. Nhưng khi ấy ở đó có lẽ sẽ chẳng có những ô cửa sổ nguy hiểm chết người, lẫn đường sôi, cũng như si-rô đặc quánh, vì vậy có lẽ sẽ chẳng có kẻ nào chết và những mối hiểm nguy nào khác, ngoài những mối nguy hiểm mà bất cứ một con vật nào cũng bị sa vào khi đuổi bắt con mồi.
Liệu chúng ta có thể giữ được một cách tốt hơn sự bình tĩnh của mình, nếu như có một thế lực hùng mạnh và dị thường nào đó cuốn hút trí óc của chúng ta trên mỗi bước đi? Vì thế chúng ta rất khó có thể phán xét loài ong - loài bị chính chúng ta biến thành những kẻ mất trí, và trí khôn của chúng không được trang bị để phát hiện ra các mưu kế thâm hiểm của chúng ta, đúng như trí óc của chúng ta, rõ ràng là, không được trang bị đủ để phá vỡ những mưu kế tàn độc của cái sinh thể tối cao, mà hiện nay chúng ta chưa biết đến, nhưng có thể có thật. Khi chưa biết cái gì đang thống trị chúng ta, chúng ta kết luận rằng mình đang chiếm giữ đỉnh điểm của sự sống trên trái đất của chúng ta; nhưng, rốt cuộc, điều này hoàn toàn không thể là điều hiển nhiên. Tôi không đòi hỏi mọi người tin tôi, khi tôi nói rằng, nếu chúng ta thực hiện hành động vô lối hay hay xấu xa, thì điều này xảy ra bởi chúng ta bị rơi vào mạng lưới của một thế lực tối cao, nhưng chẳng có gì là không tưởng cả, điều này có thể đến một lúc nào đó sẽ đúng. Mặt khác, sẽ là vô lí việc khẳng định rằng loài ong không có trí khôn, vì chúng còn chưa học được cách phân biệt chúng ta với một con khỉ hay một con gấu to lớn và đối xử với chúng ta như đối xử với một cư dân thuần phác trong khu rừng nguyên thủy. Rõ ràng là, trong chúng ta và xung quanh chúng ta có những ảnh hưởng và những thế lực hết sức khác biệt nhau, mà chúng ta chưa nhận ra được nhiều hơn nữa.
Cuối cùng, để kết thúc phần biện hộ này, mà trong đó tôi có phần nào thiên lệch, điều mà tôi đã trách cứ ông John Lubbock ở phần trên đây, tôi xin nói thêm: có cần hay không là một kẻ có trí tuệ, để có khả năng đạt tới rất nhiều những sự điên rồ đến thế? Sự thể luôn là thế trong cái vùng sai lệch của trí óc, vốn là trạng thái không chắc chắn nhất, biến động nhất của vật chất. Cũng theo sự soi xét đó thì ngoài lí trí, còn có sự say mê, không thể nói một cách chính xác nó là gì - là khói lửa hay là sợi bấc đèn. Mà ở đây sự say mê của loài ong đủ cao thượng, để tha thứ cho sự bất ổn về trí khôn của chúng. Đâu phải cái tính háu ăn của con vật muốn ngốn ngấu cho chán chê mật ngọt đã đẩy nó đến sự bất cẩn này. Chúng có thể thoải mái làm điều này ở kho chứa thực phẩm trong tổ của mình. Hãy quan sát chúng, dõi theo chúng trong những hoàn cảnh tương tự, và bạn sẽ thấy chúng sau khi lấy đầy bọng mật, liền lập tức quay về tổ, để trút chiến lợi phẩm của mình vào đó, để trong suốt một tiếng đồng hồ 30 lần đến nơi thu hoạch tuyệt trần và lại quay trở về. Hiện tượng này cho thấy điều mong muốn nhất - đó là làm những công việc tuyệt vời biết bao: sự hăng say mang được nhiều nhất phúc lợi mà chúng có thể mang về ngôi nhà của những người chị em của chúng và cho ngôi nhà tương lai. Khi sự mất trí của con người do động cơ hết sức hào hiệp, thì chúng ta lại thường gọi nó bằng một cái tên khác.
VITuy nhiên cũng cần phải nói ra toàn bộ sự thật. Trong số những điều kì diệu trong nghệ thuật của chúng, sự xây dựng tiện nghi của chúng, đức tính quên mình của chúng, thì có một điều sẽ luôn khiến chúng ta kinh ngạc và ngăn cản sự khâm phục của chúng ta: đó là sự vô cảm với cái chết và những nỗi đau khổ của đồng loại của chúng. Ở đặc tính của loài ong có một sự lưỡng phân rất kì lạ. Ở trong tổ tất cả đều yêu thương nhau và giúp đỡ nhau. Chúng hợp nhất lại, như những suy nghĩ tốt đẹp trong một tâm hồn. Nếu bạn làm bị thương một con trong số chúng, hàng ngàn con sẽ hi sinh thân mình, để báo thù vì bị xúc phạm. Ở bên ngoài tổ chúng không còn biết đến nhau nữa. Cứ thử vặt cánh bẻ chân, đè nát — hay tốt hơn là đừng làm một điều gì tương tự, đó có lẽ là sự tàn ác vô nghĩa, vì có một thực tế hiển nhiên, - giả sử rằng bạn làm bị thương, đè nát ở một tầng tổ nằm cách tổ của chúng vài bước chân mười, hai mươi hay ba mươi con ong đã ra khỏi tổ, - những con mà bạn không động đến sẽ chẳng đoái hoài gì và cứ tiếp tục cắm cái lưỡi của mình, một cái lưỡi lạ thường như một thứ vũ khí của Trung Hoa, hút lấy thứ chất lỏng mà chúng quý hơn cả mạng sống, chúng dửng dưng với sự hấp hối đang giẫy giụa một lần cuối động chạm vào chúng, và với những tiếng rên la đầy tuyệt vọng vang lên quanh chúng. Và khi tầng tổ đã trống trơn, bầy ong, chẳng còn gì để mất, thản nhiên trèo lên những con đã chết và bị thương và thu gom lại mật dính vào các con đã chết, chẳng hề động lòng trước cảnh tượng chết chóc và chẳng hề nghĩ đến việc giúp đỡ những con bị thương. Vậy có nghĩa là, trong tình huống này chúng không có khái niệm gì về mối nguy hiểm với chúng, vì sự chết chóc la liệt xung quanh chúng chẳng khiễn chúng lo ngại, chẳng hề có một tình cảm nhỏ nhất nào của sự đoàn kết hay xót thương. Còn về mối hiểm nguy, thì điều này được lí giải là bởi ong không hề biết đến sự sợ hãi và chẳng có gì làm chúng sợ, trừ khói. Khi ra khỏi tổ, cùng với bầu trời trong xanh ong hít thở thêm cái khí chất hiền lành và nhẫn nhịn. Nó tránh xa kẻ nào khiến nó lo sợ, nó làm bộ như không nhận thấy kẻ không quá đỗi chèn ép nó. Có thể nghĩ rằng, nó hiểu rõ bản thân mình trong cái vũ trụ thuộc về tất cả, nơi mỗi cá thể đều có quyền có chỗ đứng của mình và nơi đáng để là một kẻ khiêm nhường và yêu chuộng hòa bình. Nhưng dưới vẻ bao dung ấy ngầm ẩn giấu một trái tim tự tin vào bản thân mình đến độ, nó không còn nghĩ đến việc phải tuyên bố về phẩm cách của mình. Nếu bị một kẻ nào đó đe dọa, nó né tránh, nhưng không bao giờ chạy trốn. Mặt khác, khi ở trong tổ nó không bằng lòng theo cái lối bàng quan thụ động với mối hiểm nguy. Đàn ong với cái tính dễ nổi nóng lao thẳng vào bất kể một sinh vật nào: kiến, sư tử hay con người dám cả gan chạm đến nơi chốn thiêng liêng. Xét theo lối suy lí của chúng ta, thì có thể gọi đó là sự giận dữ, phát khùng vô lí hay tinh thần anh hùng.
Nhưng chẳng có gì có thể phản bác được sự thiếu tính đoàn kết của loài ong ở bên ngoài tổ, cũng như tình thân ái với nhau của chúng khi ở trong tổ. Phải chăng chúng ta nên nghĩ rằng, có những giới hạn không thấy trước được đối với trí khôn của mọi giống loài và rằng, một tia lửa nhỏ nhoi khó khăn lắm mới lóe lên nổi, sau sự bốc cháy chẳng dễ dàng gì của một khối vật chất trì trệ đến thế, luôn không thể tin chắc rằng, nó có thể soi sáng hơn dẫu chỉ một điểm thôi, khi làm mờ nhạt đi các điểm khác? Có thể nhận định rằng, ong và thiên tính trong nó đã tổ chức một cách hoàn hảo hơn ở bất cứ đâu công việc chung trong cộng đồng, sự sùng bái và tình yêu đối với tương lai. Phải chăng vì lí do đó mà loài ong bỏ qua tất thảy những thứ còn lại? Chúng yêu cái tương lai phía trước, còn chúng ta yêu những gì xung quanh mình. Có thể, yêu những gì hiện tại là đủ để không còn đủ tình yêu đặng dùng cho những gì sau này. Chẳng có gì hay đổi thay đường hướng hơn lòng nhân từ và sự trắc ẩn. Bản thân chúng ta trước kia có lẽ ít thấy sốc hơn ngày nay trước sự vô cảm của loài ong, và nhiều người thời xưa có lẽ chẳng nghĩ đến việc quở trách chúng ở điểm này. Rốt cuộc, liệu chúng ta có thể luôn tiên kiến được cái sinh vật đáng kinh ngạc trong chúng ta - nó có thể cũng đang quan sát chúng ta, như chúng ta đang quan sát loài ong đấy - là gì hay không?
VIIĐể tạo nên cho mình một khái niệm rõ ràng hơn về trí tuệ của loài ong, chúng ta con phải nghiên cứu xem bằng cách thức nào chúng giao tiếp với nhau. Rõ ràng là chúng hiểu được nhau, và cũng hiển nhiên là, thể chế cộng hòa ong đông dân đến thế, với những hoạt động đa dạng như thế, và ăn ý nhịp nhàng đến thế, chẳng thể tồn tại trong sự im lặng và biệt lập về trí óc của bấy nhiêu ngàn con ong. Chúng, không còn nghi ngờ gì nữa, phải có được khả năng thể hiện những suy nghĩ của mình hay những cảm xúc của mình thông qua hoặc là một thứ âm tự, hay có lẽ đúng hơn là, nhờ thứ ngôn ngữ xúc giác hay sự trực giác từ tính, có thể, tương ứng với những cảm tính hay tính chất của vật chất, chúng ta hoàn toàn không biết rõ được - một trực giác có thể nằm trong những cái râu cảm nhận và hiểu được bóng tối và được tạo thành, theo tính toán của Cheshire, từ 12 ngàn sợi lông xúc giác và 5 ngàn khoang khứu giác ở những con ong thợ. Cách thức lan truyền trong tổ một tin tức nào đó, tốt hay xấu, bình thường hay khác thường đã cho thấy ong hiểu nhau không chỉ với những công việc bình thường, mà sự bất thường cũng có tên gọi và vị trí trong ngôn ngữ của chúng: sự kiện biến mất hay trở về của ong mẹ, việc sụp đổ của tầng tổ, hiện tượng đột nhập của kẻ địch, dấu hiệu thâm nhập của một con ong chúa lạ, sự tiến tới gần của toán kẻ cướp, việc phát hiện ra một kho báu v.v., - mỗi một sự kiện trong số đó đều đòi hỏi động thái và tiếng rì rầm khác nhau, và chúng đặc trưng đến mức, một người nuôi ong có kinh nghiệm khá dễ dàng đoán được chuyện gì đang xảy ra trong đó, nơi bóng tối, trong bầy ong đang xao động.
Nếu bạn muốn có một bằng chứng xác thực hơn, thì hãy quan sát một con ong tìm thấy vài giọt mật rơi vương trên bậu cửa sổ nhà bạn hay ở góc bàn của bạn. Trước tiên nó bắt đầu hau háu hút cho căng bụng đến mức bạn có thể rất dễ dàng đánh dấu một chấm màu nhỏ vào mảnh giáp che lưng của nó, mà không sợ làm chúng ngừng công việc. Nhưng sự háu ăn này chỉ là vẻ ngoài mà thôi, số mật này không đi thẳng vào dạ dày hay cái có lẽ phải gọi là dạ dày của riêng nó, - mật vẫn còn ở bọng, ở cái dạ dày thứ nhất, mà nếu có thể nói, là cái “dạ dày chung”. Cái bọng chứa ấy vừa đầy là con ong bay đi, nhưng không bay đi hẳn và thản nhiên như một con bướm hay một con ruồi vẫn làm. Trái lại, bạn sẽ thấy nó có vài giây bay lùi lại, chăm chú vòng liệng quanh ô cửa sổ nhà bạn hay quanh chiếc bàn của bạn, mặt hướng vào căn phòng của bạn. Nó nghiên cứu địa điểm và ghi nhớ vị trí chính xác của kho báu. Sau đó nó mới quay về tổ, để chiến lợi phẩm của mình ở đó, trong một cái hốc kho chứa, rồi sau ba hay bốn phút lại quay trở lại và lấy lượng mật dự trữ mới được “ông Trời” ban cho trên bậu cửa sổ. Cứ năm phút một, cho đến tận chiều tối, một khi vẫn còn mật, con ong sẽ không ngừng nghỉ thực hiện những chuyến bay có chủ đích từ cửa sổ về tổ và từ tổ đến cửa sổ.
VIIITôi không muốn tô vẽ cho sự thật, như nhiều người khác đã làm, khi viết về loài ong. Những quan sát kiểu như thế chỉ có một ý nghĩa nào đó khi chúng hoàn toàn trung thực. Nếu như tôi thấy được rằng loài ong không có khả năng hiểu biết các sự kiện bên ngoài, thì tôi cảm thấy, dẫu có đôi chút thất vọng đấy, việc thêm một lần xác thực được rằng con người là sinh vật duy nhất thực sự có trí tuệ trên trái đất vẫn đem lại cho tôi một niềm vui thích nhất định. Và rồi đến một thời kì nào đấy trong đời, ta bắt đầu cảm thấy vui sướng hơn khi trình bày những vấn đề xác thực, nhưng không lạ thường. Ở đây, cũng như trong mọi hoàn cảnh khác, nên giữ một nguyên tắc như sau: nếu một sự thật hết sức trần trụi hiện giờ có vẻ như kém lớn lao hơn, ít cao cả hơn và ít thú vị hơn sự tô điểm mĩ miều giả dối, thì chính chúng ta có lỗi trong chuyện này, bởi chúng ta còn chưa thể phân định được, nó phải có một mối quan hệ như thế nào - luôn luôn lạ thường - với sinh vật vẫn còn chưa được biết đến của chúng ta, và với các quy luật của vũ trụ; và trong trường hợp này không phải sự thật cần phải được phóng đại và nâng cao phẩm giá, mà trí tuệ của chúng ta mới cần phải như thế.
Bởi vậy tôi thừa nhận rằng, những con ong được đánh dấu thường quay trở về một mình. Phải nghĩ rằng, ở loài ong cũng có những sự khác biệt tính cách, như ở con người, và giữa chúng có thể thấy một số con trầm lặng, một số con lắm lời. Có ai đó từng có mặt trong những thử nghiệm của tôi đã khẳng định là có nhiều con ong, rõ ràng do tính ích kỉ hay háo danh, không thích để lộ nguồn sản vật của mình, hay không muốn chia sẻ với con khác trong đám bạn của mình niềm vinh quang của công việc, mà tổ ong chắc hẳn phải công nhận là đáng kinh ngạc. Đó là những thói xấu khá đáng ghét, không có chút tinh thần tốt đẹp, trung thực và trong sạch nào vốn đặc trưng cho ngôi nhà của cả ngàn chị em nhà ong. Dù sao chăng nữa thì vẫn thường thấy trường hợp, con ong được số phận mỉm cười với nó, trở lại nơi có mật với hai hay ba con cộng sự. Tôi biết là ông John Lubbock, trong phần phụ lục cho công trình Kiến, Ong và Ong bắp cày (Ants, Bees and Wasps) của mình, đã lập những bảng biểu dài và cẩn thận những lần quan sát, từ đó có thể kết luận rằng, hầu như không bao giờ một con ong khác lại đi theo con dẫn đường. Tôi không rõ, vị học giả-nhà tự nhiên học nghiên cứu giống ong nào, hay có thể hoàn cảnh quá ư là bất lợi chăng. Còn về phần mình, thì tôi dùng những bảng biểu được lập một cách cẩn thận của riêng mình chỉ sau khi áp dụng mọi sự phòng ngừa có thể có, để những con ong không bị mùi mật trực tiếp lôi cuốn, tôi thấy chúng, trung bình là bốn trên mười lần dẫn đường cho các con khác. Có lần tôi đã bắt gặp một con ong Ý nhỏ lạ thường. Tôi đánh dấu vào mảnh giáp che lưng của nó bằng một cái chấm màu xanh da trời. Từ chuyến bay thứ hai của mình nó xuất hiện cùng hai con ong chị em của nó. Tôi bắt hai con sau, nhưng không làm con đầu tiên sợ. Nó bay đi, rồi trở lại với ba con ong được báo tin, chúng cũng bị tôi bắt lại, và cứ tiếp tục như thế cho đến sau giờ trưa, khi đếm số tù nhân của mình, tôi xác nhận là nó đã báo tín cho mười tám con ong khác.
Tóm lại, nếu bạn tiến hành các thí nghiệm như thế, bạn sẽ tin rằng, nếu sự thông báo không phải là hết sức phổ biến, thì nó, dẫu sao, vẫn thường xuyên được thực hiện. Những thợ săn ong ở Mĩ biết rõ khả năng này, họ sử dụng nó khi cần tìm tổ ong. “Để bắt đầu công việc của mình, - ông Josiah Emery kể (được Romanes trích dẫn trong cuốn sách Trí khôn của loài vật, tập I, trang 117 (Intelligence des animaux) họ chọn một cánh đồng hay một cánh rừng nằm cách xa bất cứ một trại nuôi ong nào. Sau khi đến nơi, họ đánh dấu vài con ong đang lấy mồi trên các bông hoa; họ bắt chúng, giữ chúng trong một cái hộp có mật, và khi chúng hút đầy mật, họ thả chúng ra. Sau đó, phải chờ đợi một chút, thời gian chờ phụ thuộc vào khoảng cách có cái cây mà đàn ong ở đó; cuối cùng, sau sự kiên nhẫn nhất định, người thợ săn rốt cuộc cũng luôn nhận thấy những con ong của mình quay trở lại với vài con ong bạn. Anh ta, như lần trước, bắt và thết đãi chúng, rồi thả mỗi con vào một chỗ đặc biệt, cố nhận biết xem chúng chọn hướng nào; cái điểm rõ ràng là điểm hội tụ của mọi hướng bay sẽ cho người thợ săn biết vị trí áng chừng của tổ ong”.
IXBạn sẽ nhận thấy trong các thí nghiệm của mình, những con ong bạn tuân theo dấu hiệu quy ước cho thấy sự thành công không luôn bay cùng nhau và thường giữa những chuyến bay riêng lẻ có quãng nghỉ trong vài giây. Vì thế, nên đặt ra cho mình câu hỏi về những thông tin đã được ông John Lubbock giải đáp với loài kiến.
Bằng cách nào bầy ong bạn của con đầu tiên bay đến được kho báu do nó phát hiện ra? Có phải chúng chỉ bay theo con đầu tiên hay không, hay chúng có thể được nó cử đi và tự tìm lấy kho báu, theo những chỉ dẫn và mô tả của nó về địa điểm? Ở đây hiển nhiên là có sự khác biệt rất lớn về ý nghĩa của dung lượng trí não và sự hoạt động của nó. Nhà khoa học người Anh, với sự trợ giúp của một bộ máy phức tạp và thông minh bao gồm những đường liên thông, những hành lang, những đường rãnh đầy nước và những chiếc cầu nho nhỏ, đã có thể xác định được rằng, trong tình huống này những con kiến đơn giản là chỉ đi theo dấu vết của con đầu đàn. Các thí nghiệm này có thể áp dụng với kiến, là loài mà ta có thể bắt chúng bò ở nơi nào ta cần, nhưng với loài ong có cánh thì mọi con đường đều rộng mở. Có nghĩa là, cần phải nghĩ ra một cách thức nào đó khác. Đây là một trong số cách mà tôi sử dụng, và dù nó không đem lại cho tôi các kết quả tích cực, tôi cho rằng, nếu như thí nghiệm được tổ chức tốt hơn và tiến hành trong hoàn cảnh thuận lợi hơn, nó có thể đã đem lại được những câu trả lời đủ thỏa đáng cho các câu hỏi.
Phòng làm việc của tôi nơi làng quê nằm ở tầng hai, phía trên một tầng trệt khá cao. Ngoài mùa các loài hoa dẻ, hoa đoạn nở, những con ong không quen bay ở độ cao này, đến mức suốt cả tuần trước khi thí nghiệm, trên bàn dẫu có một tầng mật với các lỗ tổ mở, vẫn không có một con ong nào bị cám dỗ bởi mùi mật thơm và lai vãng đến. Thế là tôi bắt một con ong Ý cho vào một cái tổ bằng kính, đặt cách nhà không xa. Tôi đem cái tổ vào phòng của mình, đặt con ong vào tầng mật và đánh dấu nó, khi nó đang được thết đãi.
Sau khi đã căng bụng, nó bay về tổ; dõi theo nó, tôi thấy nó vội vã bò trên đám ong, chúc đầu xuống một lỗ tổ, trút mật và định bay đi. Tôi chặn và bắt lấy nó ở ngay lỗ tổ. Tôi lặp đi lặp lại hai mươi lần thí nghiệm này, luôn với các con ong khác nhau và mỗi lần lại loại bỏ con ong “mồi”, để các con khác không thể bay theo dấu của nó. Để thuận tiện hơn, tôi đặt sát cửa tổ một cái hộp kính chia làm hai ngăn ngăn bằng một vách di động. Nếu con ong được đánh dấu ra khỏi tổ một mình, tôi bắt giam nó ngay, như với con thứ nhất, và đi vào phòng của mình, chờ những con ong đi kiếm mồi có thể đã nhận được tin báo và bay đến. Nếu nó ra khỏi tổ cùng một hay hai con ong khác, tôi bắt giữ nó ở một ngăn của hộp, vậy là tôi ngăn cách nó với các bạn; những con sau cùng tôi đánh dấu bằng màu khác, rồi thả chúng đi và theo dõi. Rõ ràng là, nếu như có một thông tin truyền miệng hay theo từ tính nào đấy được nó thực hiện, mà trong đó có mô tả địa điểm, cách thức định hướng v.v., thì tôi phải thấy trong phòng mình một số ong nhất định được báo tin bằng cách thức như thế. Tôi phải thừa nhận rằng, tôi chỉ thấy một con ong. Liệu nó có theo các chỉ dẫn nhận được ở trong tổ hay không, hay đây thuần túy là sự ngẫu nhiên mà thôi? Sự quan sát là chưa đủ, nhưng hoàn cảnh không cho phép tôi tiếp tục. Tôi giải thoát cho những con ong “mồi” của tôi, và phòng làm việc của tôi nhanh chóng đầy đặc bầy ong vo ve, chúng được các con ong “mồi” thông báo, theo cách thức quen thuộc, đường đến kho báu.7
XKhi không kết luận được gì từ thí nghiệm không hoàn hảo này, dựa trên nhiều đặc điểm đáng lưu ý khác chúng ta đành phải cho rằng, giữa loài ong với nhau có một sự giao tiếp về tinh thần vượt xa đáng kể mức độ đơn giản “có” hay “không”, hay những mối quan hệ sơ đẳng được xác định bằng một cử chỉ hay sự làm gương. Thêm vào đó, chúng ta có thể viện dẫn đến sự hài hòa thúc đẩy hoạt động trong tổ ong, đến sự phân công trách nhiệm thật tuyệt vời và sự luân phiên hoán đổi đúng đắn, mà ta có thể thấy ở đó. Ví dụ như, tôi thường xuyên nhận thấy rằng, những con ong đi kiếm mồi, mà tôi đánh dấu vào buổi sáng, sau giờ trưa, khi lượng hoa không quá dồi dào - chúng sẽ làm công việc sưởi ấm và thông gió cho tầng tổ ấp nở; hoặc tôi thấy chúng trong bầy ong tạo thành nhưng hàng ong đang mơ màng đầy vẻ huyền bí, trong đó có những con đang tiết sáp, một số khác làm thợ điêu khắc. Tôi cũng quan sát những con ong thợ - tôi thấy chúng thu gom phấn hoa suốt một hay hai ngày, sau đó chúng thôi không làm việc thu gom nữa và ra khỏi tổ chỉ để kiếm mật, và ngược lại.
Về sự phân công lao động, chúng ta có thể dẫn thêm hiện tượng, mà Georges de Layens, một nhà nuôi ong nổi tiếng, người Pháp gọi là sự phân bổ ong cho những cây có mật. “Hằng ngày, từ lúc mặt trời vừa ló rạng, đã thấy những con ong trinh sát loan báo, đánh thức cho cả tổ biết những tin tốt lành ở nơi đồng đất: “Hôm nay hoa đoạn nở suốt dọc bờ kênh; cỏ ba lá hoa trắng đã nở rộ trên thảm cỏ ven đường, hoa cỏ ba lá ngọt và hoa xôn đồng sắp mãn khai; huệ tây và hoa mộc tê đang đầy phấn”. Khẩn trương lên! - phải tập hợp nhau lại, đưa ra các biện pháp, phân định trách nhiệm. Năm ngàn chị mạnh khỏe nhất nhằm hướng hoa đoạn lên đường; ba ngàn cô trẻ nhất phụ trách cỏ ba lá hoa trắng. Những ngày qua các chị các cô này đã hút mật hoa rồi; hôm nay, để cho ống hút và các tuyến ở bọng mật của họ được nghỉ ngơi, họ sẽ đi thu hoạch phấn đỏ của hoa mộc tê, còn số chị em kia thì đi thu hoạch phấn vàng của những bông hoa huệ tây lớn, - các bạn sẽ không bao giờ thấy một con ong thu và trộn phấn của những bông hoa khác nhau hay của các loài hoa khác nhau, và việc phân loại có phương pháp những loại bột thơm ngào ngạt theo sắc độ và nguồn gốc là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của tổ ong.
Những mệnh lệnh được một đấng thiên tài ẩn mình phát ra như thế đấy. Lập tức bầy ong thợ đi ra thành những hàng dài màu đen, và mỗi một con trong số chúng thẳng hướng đến với công việc của mình”. Dường như, de Layens nói, đàn ong biết rất rõ về địa điểm có mật, mức độ mật dồi dào đã được đối chiếu và khoảng cách giữa tất cả các cây cỏ trong một khu vực nhất định quanh tổ. Nếu đánh dấu một cách cẩn thận những hướng bay khác nhau của các con ong đi kiếm mồi, và nếu quan sát chi tiết xem bầy ong tiến hành việc thu hoạch như thế nào trên các cây cỏ quanh vùng, thì có thể nhận thấy rằng, những con ong thợ được phân bổ theo tỉ lệ và đồng thời đối với các loài hoa: theo số lượng cây của một loài, cũng như theo độ, dồi dào mật hoa của chúng. Tôi bổ sung thêm: hằng ngày chúng xác định chất lượng của thứ nhựa ngon ngọt nhất mà chúng có thể tìm được.
Ví dụ như, nếu về mùa Xuân, sau mùa liễu nở hoa, khi trên các cánh đồng còn chưa có một loài nào nở hoa, đàn ong không có một nguồn nào khác, ngoài hoa rừng, thì chúng tích cực lui tới những cây sen gió, cỏ phổi, kim tước và vi-ô-lét. Nếu qua một vài ngày những cánh đồng bắp cải hay cải dầu bắt đầu nở hoa với số lượng khá lớn, thì có thể nhận thấy đàn ong gần như bỏ hẳn cây rừng vẫn còn đang nở rộ, để toàn tâm toàn ý đến với hoa cải bắp hay hoa cải dầu. Ngày nào cũng vậy, theo một cách thức như thế chúng điều chỉnh sự phân bổ của mình theo các loài cây cỏ, để thu được thứ chất lỏng ngon ngọt nhất, trong một khoảng thời gian ngắn nhất. Vì vậy, có thể nói rằng, một đàn ong trong những công việc thu hoạch vụ mùa của mình, đúng hệt như trong một tổ ong, đã biết thực hiện một sự phân bổ hợp lí số lượng ong thợ, bằng cách áp dụng đúng nguyên tắc phân công lao động”.
XINhưng, - chúng ta sẽ bị cự nự, - rằng chuyện loài ong có trí khôn đến mức nào thì có quan trọng gì với chúng ta? Để làm gì mà phải cân nhắc cẩn thận đến thế cái dấu tích quá đỗi nhỏ mọn, gần như vô hình, cứ như thể ta đang bàn về một thứ chất lỏng mà số phận của con người phụ thuộc vào nó ấy? Chẳng hề phóng đại một chút nào, tôi nghĩ, điều này có lợi ích rất đáng kể đối với chúng ta. Khi tìm thấy ở bên ngoài chúng ta một dấu hiệu thực sự của trí tuệ, chúng ta sẽ cảm thấy xúc động, như Robinson, khi phát hiện ra dấu chân người trên bờ cát ở hòn đảo của mình. Khi ấy chúng ta sẽ cảm thấy mình bớt cô độc hơn chúng ta tưởng. Khi chúng ta cố gắng hiểu rõ về trí tuệ của loài ong, thì chúng ta rốt cuộc mới đi nghiên cứu cái phần quý báu nhất trong bản chất của chúng ta; đây là nguyên tử của một thứ chất kì lạ, tồn tại ở khắp những nơi nào mà nó hòa nhập vào, nó có một tính chất kì diệu làm biến đổi những nhu cầu mù quáng, tổ chức, tô điểm và nhân lên sự sống, kìm hãm một cách hiệu quả nhất cái sức mạnh cố kiết của cái chết và dòng chảy khổng lồ mãnh liệt cuốn phăng mọi thứ đang tồn tại trong sự vô thức vô cùng.
Nếu như chỉ có một mình chúng ta sở hữu và duy trì một phần nhỏ bé của thứ chất đang độ đơm hoa hay bùng cháy, mà chúng ta gọi là trí tuệ, thì chúng ta có quyền coi mình là những kẻ có đặc ân, và nghĩ rằng, tự nhiên đã đạt được một mục đích nào đó trong con người chúng ta; nhưng này đây trước chúng ta là loài sinh vật có cánh màng, mà ở chúng tự nhiên cũng đã tiệm cận tới một mục đích giống hệt. Có thể là điều này chẳng giải quyết được vấn đề gì, thế nhưng sự thật này chiếm giữ một vị trí danh dự giữa vô vàn những thực tại góp phần làm sáng tỏ vị thế của chúng ta ở nơi đây, trên trái đất này. Chính ở đây, xét theo một quan điểm nào đó, có môi trường rộng lớn cho việc nghiên cứu cái phần bí ẩn nhất trong bản chất của chúng ta; ở đây chúng ta thấy được mối tương liên của các số phận, xuất phát từ một điểm cao cả hơn tất cả các vị trí mà chúng ta có thể chiếm giữ, để chiêm nghiệm về số phận con người. Ở đây trong một dạng thức thu nhỏ là những đặc tính vĩ đại và bình dị mà chúng ta chưa bao giờ có cơ hội để nhận thức, cũng như nghiên cứu đến cùng trong cái lĩnh vực quá đỗi rộng lớn của chúng ta. Ở đây tinh thần và vật chất, giống loài và cá thể, sự phát triển và tính bất biến, quá khứ và tương lai, sự sống và sự chết - tất thảy tập hợp trong một ngôi nhà chung, và nó có thể được nâng cao nhờ đôi bàn tay của chúng ta và được ôm trọn trong một ánh nhìn; và ta có thể tự hỏi bản thân mình, có thay đổi đáng kể đến thế hay không, như chúng ta tưởng, cái ý niệm còn ẩn giấu của tự nhiên tùy thuộc vào độ lớn của các vật thể và nơi chốn mà chúng chiếm giữ trong thời gian và không gian; cái ý niệm mà chúng ta thử nắm bắt trong lịch sử nhỏ bé của một tổ ong - một lịch sử từ khi ra đời chỉ có vỏn vẹn vài ngày, một ý niệm giống như cái ý niệm hiển lộ trong lịch sử lớn lao của con người, mà ba thế hệ của nó đã vượt xa cả một thế kỉ dài.
XIIChúng ta hãy quay trở lại với câu chuyện về tổ ong của chúng ta, về nơi ta đã để nó lại, và gạt ra, hết mức có thể, một trong những nếp gấp của bức màn được tạo nên từ những tràng hoa, mà ở giữa những tràng hoa đó đàn ong bắt đầu trải qua một sự bài tiết lạ thường đến thế thứ mồ hôi trắng như tuyết và nhẹ hơn cả sợi lông tơ của một chiếc cánh. Sự thể là, ở đây sáp ong được sinh ra không giống với thứ mà tất cả chúng ta đã biết; nó trăng trong, phiêu nhiên, nó thực sự giống như linh hồn của mật, thứ mật đã tạo ra linh hồn của những bông hoa; được mời gọi nhờ câu thần chú thầm lặng, rồi nó, - khi đã nằm trong lòng bàn tay của chúng ta, chắc hẳn, đang hồi tưởng về xuất xứ của mình, nơi chan hòa một màu thiên thanh, ngạt ngào hương thơm, bầu không khí trong vắt, những tia nắng vàng sánh, nơi thanh khiết và tuyệt mĩ, - trở thành ánh sáng ngát hương của những ban thờ sau này của chúng ta.
XIIIThật vô cùng khó theo dõi được các công đoạn khác nhau của việc tiết ra và sử dụng sáp trong một đàn ong bắt đầu xây tổ. Mọi việc diễn ra trong nơi sâu kín của cả một bầy ong mỗi lúc lại tụ họp đông hơn và ngày càng đông hơn nữa, chắc hẳn việc tụ họp lại này là để tạo ra nhiệt độ thích hợp cho việc tiết ra sáp - vốn là đặc quyền của những con ong trẻ nhất. Huber, người đầu tiên nghiên cứu chúng với một sự kiên nhẫn vô cùng và đôi khi trả giá cho những mối nguy hiểm thực sự, ông đã dành cho hiện tượng này hơn 250 trang sách rất thú vị, nhưng chưa hẳn là đã hoàn toàn rành mạch, về phần mình, tôi sẽ giới hạn (vì tôi không viết một cuốn sách kĩ thuật) ở việc thông báo những gì, mà bất kể những ai sẽ tập hợp đàn ong vào trong một chiếc tổ bằng kính cũng có thể quan sát được, còn trong trường hợp cần thiết tôi sẽ nhờ cậy vào những gì đã được Huber quan sát rất rõ.
Trước hết chúng ta hãy thừa nhận rằng, cho đến nay chúng ta vẫn không rõ nhờ phép thuật nào mà mật chuyển hóa thành sáp trong những thân thể treo lơ lửng và đầy bí ẩn của đàn ong của chúng ta. Chỉ có thể xác nhận rằng, sau sự chờ đợi kéo dài từ 18 đến 24 tiếng đồng hồ, trong nhiệt độ tăng cao đến mức, có thể nghĩ dường như trong tổ ong có một ngọn lửa đang âm ỉ cháy, ở miệng của bốn cái bọc nhỏ nằm đều ở từng bên bụng ong xuất hiện những chiếc vảy trắng trong suốt.
Khi phần lớn bầy ong tạo thành một hình nón treo lơ lửng, ở bụng ong sẽ có những mảnh sừng giống như ngà voi, và một con trong bầy ong đột nhiên, như thể chịu tác động của một cơn hưng phấn bất ngờ, tách khỏi bầy, leo nhanh dọc theo bầy ong bất động đến đỉnh ở phía bên trong của mái vòm, nơi nó bấu chắc vào đó, dùng đầu húc mạnh để đẩy những con bên cạnh lấn đường đi của nó. Sau đó con ong dùng chân và mồm nắm lấy một trong tám mảnh sừng ở trên bụng của mình, gặm nhấm, bào, làm cho mảnh sừng trở nên đặc sệt, nhào trộn nó trong nước bọt của mình, gấp vào rồi lại vuốt dài nó ra, vần vò và nhào nặn nó với một sự khéo léo của người thợ gốm đang làm việc với một khối đặc quánh. Cuối cùng, khi khối chất ấy đã mềm nhũn ra, dường như đã đạt tới các kích thước và độ dày mong muốn, con ong gắn nó lên đỉnh của mái vòm, vậy là con ong đã hoàn thành viên gạch đầu tiên, đúng hơn là viên gạch mở đầu cho vòm mái của một thành phố mới, vì ở đây chúng ta đang nói đến một thành phố lộn ngược, - một thành phố từ trên trời buông xuống, chứ không phải mọc lên từ lòng đất, như thành phố của con người. Khi công việc đã hoàn thành, con ong gắn thêm vào viên gạch đầu tiên lơ lửng trong khoảng không ấy những mảnh sáp khác được dần lấy ra từ dưới những chiếc vòng bằng sừng của mình; nó kết thúc toàn bộ công việc này bằng một cú đập lưỡi sau chót và dùng những chiếc râu thúc một phát cuối cùng; sau đó, cũng bất ngờ, như khi đến, nó bò ra xa và mất hút trong đám đông. Một con ong khác nhanh chóng thay thế nó; con ong này bắt tay vào công việc ở nơi con kia đã dừng lại, bổ sung thêm, chỉnh lại điểm nào mà nó cảm thấy không phù hợp với kế hoạch đã định của cả đàn, và đến lượt mình lại biến mất, trong khi con thứ ba, thứ tư, thứ năm tiếp nối nó thành một chuỗi những sự xuất hiện đầy hứng khởi và bất ngờ, không một con nào chấm dứt hẳn công việc, tất cả cùng đóng góp phần của mình vào quá trình lao động đồng tâm nhất trí.
XIVKhi đó từ đỉnh của mái vòm treo lơ lửng một khối sáp nhỏ, chưa có hình thù gì. Khi nó đạt tới kích cỡ đủ lớn, thì từ chùm ong treo ấy tách ra một con, mà dáng vẻ của nó khác biệt với dáng vẻ của những con xây móng trước nó. Khi nhìn vào vẻ quyết tâm tự tin của nó và sự trông đợi của các con xung quanh, ta có thể nghĩ rằng, đây là một kĩ sư ong đầy cảm hứng bất ngờ đánh dấu trong khoảng không địa điểm cần phải đặt khoang tổ đầu tiên, tất cả các khoang tổ còn lại sẽ nằm trong một mối liên kết được tính toán với nó. Dù sao thì con ong này cũng thuộc vào đội ngũ những con ong thợ khắc hay thợ chạm - chúng không sản xuất ra sáp và hài lòng với việc xử lí những vật liệu được cung cấp cho mình. Thế là nó đã chọn được địa điểm cho khoang tổ đầu tiên, trong chốc lát nó đào sâu vào tầng sáp, rồi đặt lượng sáp đào được từ đáy lên sang bên miệng hố. Sau đó nó cũng làm như những con ong xây móng, bỗng nhiên ngừng công việc đã đề ra; một con ong khác sốt sắng thế chỗ và tiếp tục công việc của nó, con thứ ba sẽ kết thúc công việc này, trong khi đó những con còn lại ở quanh chúng bắt tay vào việc chỉnh sửa phần bề mặt đã hình thành và mặt kia của tấm vách bằng sáp, cũng theo đúng cách thức làm việc ngắt quãng và nối tiếp đó. Có thể cho rằng, có một luật lệ căn bản của tổ ong là chia đều trong cả đàn niềm tự hào với sự nghiệp chung và lao động của từng cá nhân phải là lao động chung và vô danh, để nó trở nên hữu ái hơn.
XVChẳng mấy chốc đã có thể đoán ra đường nét của tầng tổ mới hình thành. Nó còn có hình dáng giống như quả đậu ván; những cái ống nhỏ hình trụ cấu thành nó có độ dài như nhau; chúng dần dần được cắt ngắn một cách chính xác từ trung tâm đến vành ngoài. Lúc này tầng tổ về hình dáng và độ dày gần giống với cái lưỡi của người và hình thành từ hai mặt với những khoang tổ hình lục giác liền kề nhau và mặt nền của chúng tiếp giáp với nhau. Những khoang tổ đầu tiên vừa được xây xong, những con ong xây móng gắn chặt vào mái vòm tảng sáp thứ hai, rồi dần dần thêm tảng thứ ba và thứ tư. Những tảng sáp này nối tiếp nhau theo bậc sườn, qua khoảng cách đều đặn, có dụng ý, để khi các tầng tổ đạt tới sự phát triển đầy đủ, - nhưng điều này phải rất lâu sau mới có được, - những con ong dù sao vẫn còn đủ chỗ cho việc di chuyển giữa các bức tường song song.Vì thế, cần làm thế nào, để trong kế hoạch của mình chúng tiên lượng được độ dày của từng tầng tổ - nó đôi khi dày tới gần 22 hay 23mm, và đồng thời chiều rộng của những con phố chia cắt các tầng tổ tới gần 11 mm, tức là lớn gấp đôi chiều cao của một con ong, vì chúng phải quay lưng vào nhau khi đi qua giữa các tầng tổ. Nhưng thực ra, những con ong không phải là không có lỗi lầm, và sự tự tin của chúng không có tính cơ cấu phức tạp. Trong những hoàn cảnh khó khăn đôi khi chúng phạm những sai lầm khá lớn. Khoảng cách giữa các tầng tổ thường quá lớn hay quá nhỏ. Khi ấy chúng khắc phục cho tốt hơn theo mức có thể, hoặc là làm lệch những tầng tổ quá sát nhau, hoặc là đặt một tầng tổ có kích cỡ khác thường xen vào khoảng cách quá lớn. “Chúng đôi khi phạm sai lầm, - về điều này Réamur có nói, - nhân đây, - thêm một sự thật nữa trong số những sự thật, rõ ràng cho thấy rằng, chúng có biết suy xét”.
XVIChúng ta đã biết rằng, ong xây bốn loại khoang tổ. Thứ nhất là, các khoang dành cho ong chúa có hình dáng đặc biệt và giống quả sồi; sau đó là những khoang tổ lớn cho việc nuôi dưỡng các con ong đực và các kho thực phẩm vào thời điểm rất nhiều hoa; rồi đến các khoang tổ nhỏ làm nôi-kén cho ong thợ và các kho chứa thông thường, chúng thường chiếm tám phần mười bề mặt được xây của tổ ong; cuối cùng, để liên kết, mà không phá vỡ trật tự, các khoang tổ lớn với các khoang tổ nhỏ, đàn ong xây một số lượng nhất định các khoang trung chuyển. Không tính đến sự lệch chuẩn không thể tránh khỏi của các khoang sau cùng này, thì kích cỡ của loại thứ hai và thứ ba được tính toán giỏi đến mức, khi vào thời gian đó hệ thập phân đã được chứng minh, khi người ta đi tìm trong tự nhiên một biện pháp cố định, để có thể xác đinh điểm khởi đầu và làm đơn vị đo, thì Réaumur đã đề xuất khoang