Phần IV Ấu chúa-I
Đến đây ta hãy khép lại cái tổ ong, nơi ta thấy được cuộc sống đang đảm nhiệm vòng xoáy chuyển động của nó, đang mở rộng và nhân lên gấp bội, để rồi lại chia tách ngay khi vươn tới cực độ sung túc, hùng mạnh; và ta hãy mở ra một lần cuối tòa thành gốc, và xem chuyện gì đã xảy ra sau cuộc xuất hành của đàn ong.
Không còn huyên náo, ồn ã, mất đi hai phần ba số cư dân bỏ đi mãi mãi tòa thành trở nên suy tàn, trống rỗng; như một thân xác bị chảy máu đến chết. Tuy vậy, vẫn còn vài ngàn ong ở lại; dù có uể oải, lờ đờ nhưng vẫn kiên định với nhiệm vụ mà số phận rõ ràng đã đặt lên vai chúng, vẫn ý thức được vai trò của mình, bởi thế, chúng tiếp tục lao động, cố hết sức lấp đầy những chỗ trống của bọn ong đã ra đi, dọn dẹp sạch sẽ mọi dấu vết say sưa chè chén, bảo quản cẩn thận những đống chiến lợi phẩm, rồi lại thẳng cánh ra những bông hoa, và canh phòng nghiêm ngặt bảo vệ những “đồ thế chấp” của tương lai.
Và ngay thời khắc u ám, hy vọng vẫn hiện ra trước con mắt kiếm tìm. Ta như đang ở trong một lâu đài cổ tích kiểu Đức, các bức tường được tạo nên bởi hàng vạn cái hốc chứa những linh hồn sắp được sinh ra. Ta ở đây, chính nơi trú ngụ của sự sống trước khi được sinh ra. Khắp các phía, ngủ say trong những cái nôi được phong kín, trong những khoang lục giác kỳ diệu chất chồng đến vô tận này, là hàng ngàn con nhộng, trắng hơn sữa, gập đầu gập chân cong về phía trước chờ đợi thời khắc tỉnh giấc. Trông chúng hệt như những ông thần lùn màu xám bạc đang đắm chìm suy tư trong những khoang mộ gần như là trong suốt, y hệt nhau, hay như cả đoàn trinh nữ bọc kín trong những tấm vải liệm nhăn nhúm, im lìm trong cỗ quan tài lục lăng mà các nhà hình học đã điên cuồng nhân lên gấp bội.
Khắp toàn bộ khu vực được bao bọc bởi những bức tường thẳng đứng, và trong giữa cái thế giới đang lớn lên này - cái thế giới sẽ sớm tự chuyển mình, sẽ thay đổi mới mẻ đến bốn năm lần liên tiếp, rồi sau đó xoay tấm bọc của mình trong bóng tối, hàng trăm ong thợ đang nhảy múa và đập cánh liên hồi. Chúng làm thế để tạo nên nhiệt độ cần thiết và để hoàn thành một số mục tiêu nào đó khác nữa mà ta vẫn còn chưa biết đến; bởi vũ điệu của chúng bao gồm một số chuyển động hết sức phi thường, sáng tạo một cách bài bản đến mức chúng hẳn phải tuân thủ tuyệt đối mục đích nào đó, mà chưa nhà nghiên cứu nào, tôi tin là như vậy, có thể hiểu được.
Mấy hôm tới, hàng vạn ống chứa này - ở các tổ lớn có thể từ sáu đến tám vạn ống - sẽ vỡ nắp, và hai con mắt to lớn, nghiêm cẩn, màu đen nhô ra, hai râu ăng-ten đã sẵn sàng dò dẫm cuộc đời, trong khi đó hai hàm răng còn bận vươn to lên từ bên trong. Đội y tá ong lập tức chạy đến giúp ong non thoát ra khỏi nơi giam cầm, lau chải sạch sẽ, và dâng lên cho nó giọt mật đầu đời từ chót lưỡi của chúng. Nhưng con ong non, vừa mới tới từ một thế giới khác, vẫn còn hoang mang, run rẩy và yếu ớt, mang dáng vẻ như một ông cụ non tí xíu yếu đuối vừa mới yếu đuối vừa mới chui ra khỏi nấm mồ, hoặc có lẽ như một kẻ lữ hành còn vương đầy bụi từ con đường dẫn đến sự sống này. Song, nó thật hoàn hảo, từ đầu đến chân, nó biết hết ngay được những gì cần phải biết, và, cũng hệt như con nhà khác, vừa sinh ra đã biết ngay rằng đó không phải là lúc để cười đùa, nó ngay lập tức quay lại chỗ kén chưa mở, đập cánh liên hồi cùng một điệu vũ nhịp nhàng, để đánh thức những chị em còn đang ngủ say của nó, mà không hề ngưng lại lấy một nhịp để bận tâm đến cái nan đề kinh khủng của định mệnh của bản thân nó, hay của giống loài nó.
IITuy vậy, những công việc nặng nhọc nhất sẽ chừa chúng ra. Từ lúc sinh ra đến lúc rời tổ phải mất một tuần lễ; sau đó nó mới bay chuyến “rửa cánh” đầu tiên, và hít không khí vào các khí quản - những ống thở phân bố khắp cơ thể nó, biến nó thành “cô dâu của bầu trời.” Kế đó, khi về tổ, nó lại đợi thêm một tuần nữa, để cùng với các chị em sinh cùng ngày với nó, sẽ lần đầu tiên bắt đầu đi hoa. Giờ thì một mối xúc cảm đặc biệt sẽ xâm chiếm con ong, thứ cảm xúc mà người nuôi ong Pháp gọi là “pháo hoa mặt trời”, nhưng có lẽ đúng hơn thì nên gọi là “vầng mặt trời bối rối.” Bởi có chứng cứ cho thấy lũ ong sợ hãi, những đứa con gái của đám đông, của bóng đêm cô tịch, rúm ró trong vòm mộ u buồn, cuộn mình vào nỗi cô đơn vô hạn không ánh sáng và niềm vui của chúng bị dày vò bởi nỗi sợ hãi. Chúng bước qua ngưỡng cửa tổ ong rồi dừng lại; đi ra, rồi lại về, đến hai mươi lần. Chúng cứ lững lờ trên không trung, đầu dõi về phía tổ, chúng vẽ nên những vòng tròn lớn vút lên rồi bỗng rớt ngay xuống, dưới sức nặng của niềm nuối tiếc; mười ba ngàn con mắt của chúng sẽ hỏi han, sẽ phản chiếu và lưu giữ hình ảnh cây cối, dòng nước, cánh cổng, những bức tường, những ngôi nhà, cửa sổ láng giềng, để đến khi chúng trở về thì khóa bay huấn luyện này đã gắn chặt vào tâm trí chúng như thể đã được cố định bằng hai đường ray thép trong không gian rồi.
IIIỞ đây lại có một bí ẩn mới đối diện chúng ta, mà ta nên mạnh dạn mà truy vấn; vì dù bí ẩn ấy không đáp lời ta, thì sự im lặng của nó vẫn sẽ mở rộng cái vô minh của ta -mảnh đất màu mỡ nhất trong tất cả mọi hành động của ta. Làm sao lũ ong có thể lần ra đường về tổ nếu chúng không trông thấy, giả sử cái tổ bị cây cối che mất, mà cây cối thì cách nào đi nữa cũng sẽ tạo thành những điểm không thể nhận biết để làm mốc dấu trong không gian. Thế nếu cho vào hộp mang đến một nơi cách tổ vài ba dặm, thì liệu có phải lúc nào chúng cũng tìm được đường về không?
Phải chăng mọi chướng ngại đều không ngăn nổi tầm nhìn của chúng, có phải chúng tự dẫn đường bằng những dấu hiệu, cột mốc cụ thể; hay chúng sở hữu cái giác quan kỳ lạ, chưa được tìm hiểu đầy đủ mà chúng ta vẫn gán cho lũ chim én và chim bồ câu, tỉ như thuật ngữ “cảm giác phương hướng” chẳng hạn. Các thí nghiệm của J.H. Fabre, của Lubbocks, và trên hết, của Romanes (Nature, 29 tháng Mười 1886)10 dường như đã xác định rằng bản năng kỳ lạ này không phải là thứ dẫn đường cho chúng. Mặt khác, tôi có nhiều hơn một lần nhận thấy chúng không hề chú ý đến màu sắc hay hình dạng của tổ. Chúng bị lôi cuốn nhiều hơn bởi vẻ ngoài cố hữu của mặt đất nơi có tổ của chúng treo bên trên, hay bởi vị trí của lối cửa vào và của miếng ván - bãi hạ cánh. Nhưng thậm chí đây cũng chỉ là điều thứ yếu; nếu phần mặt tiền của tổ ong bị thay đổi từ trên xuống dưới trong khi lũ ong thợ vắng mặt, thì chúng vẫn không hề do dự mà thẳng hướng về từ tít xa tận chân trời; và chỉ khi nào đối diện với cái lối cửa vào lạ lẫm, chúng mới có vẻ sững lại một tẹo. Những thí nghiệm như thế cho thấy một đầu mối: hình như chúng tự dò đường bằng cách nắm vững chính xác và tỉ mỉ cảnh quan. Chúng không nhớ chiếc tổ, mà là vị trí của chiếc tổ, tính đến cả những bộ phận chi tiết nhất, trong mối tương quan của nó với các vật thể xung quanh. Nhận thức của con ong quả là phi thường, thực sự đáng tin cậy một cách chuẩn xác, in sâu vào trí nhớ của nó, đến mức sau năm tháng ngủ đông trong cái hầm chứa tối tăm nào đó, khi được thay trên sân nền, tổ ong sẽ bị đặt lệch một chút sang trái hoặc sang phải so với vị trí trước đây, tất cả lũ ong thợ, sau chuyến đi hoa sớm nhất, sẽ tuyệt đối bay theo phương vị cũ, không hề đắn đo hướng thẳng đến địa điểm chính xác đặt tổ năm ngoái; rồi chỉ sau chút bối rối, dò dẫm chúng mới phát hiện cổng vào đã không còn ở chỗ cũ nữa. Cứ như thể mùa Đông đã hết sức giữ gìn dấu vết đường bay cũ cho chúng; như thể những bước chân nhỏ bé, chăm chỉ của chúng vẫn còn in dấu trên bầu trời. Vì vậy, nếu tổ ong bị di chuyển, nhiều con sẽ lạc đường; ngoại trừ trường hợp cả tổ bị mang tới một nơi cách xa chỗ cũ, hoàn cảnh khác hoàn toàn so với nơi chúng lớn lên - nơi chúng vốn biết rõ trong khoảng bán kính từ hai đến ba dặm; vì sau đó, nếu cố ý cảnh báo chúng, bằng một vài đường dẫn nối với miếng ván - cất hạ cánh ở lối vào tổ vốn đã thay đổi ít nhiều, chúng sẽ ngay lập tức tìm kiếm và tạo ra những dấu mốc mới.
IVGiờ ta hãy quay lại thành phố đã được tái định cư, nơi hàng vạn kén ong đang liên tục mở ra, khiến cả những vách tường vững chãi cũng phải rung động. Nhưng thành phố vẫn thiếu một bà hoàng. Bảy tám cấu trúc ky lạ vươn lên từ trung tâm một rỗ ong nào đó, rải rác khắp bề mặt những kén thông thường, nhắc chúng ta nhớ đến những vòng tròn và khối lồi xuất hiện một cách lạ lùng ở các tấm ảnh chụp mặt trăng. Chúng là lũ nhộng, được bọc kín bưng bằng nhiều lớp sáp hay miếng đệm, chiếm chỗ bằng ba bốn khoang ong thợ. Như một quy định, chúng tập hợp quanh cùng một điểm; có một số lớn ong lính canh gác, không ngơi nghỉ và cực kỳ cảnh giác đối với khu vực dường như tràn đầy một uy lực khó hiểu này. Đây chính là nơi các bà mẹ được hình thành. Trong mỗi bao nhộng, trước khi bầy ong xuất hành, ong chúa sẽ đẻ vào một quả trứng, hoặc có thể nhiều hơn - dù sao ta cũng chưa hiểu rõ lắm chuyện này - do ong thợ lây từ khoang bên cạnh nào đó, đặt vào; và cũng chính từ những quả trứng này, lại nở ra các ong thợ.
Từ quả trứng này, ba ngày sau sẽ xuất hiện một ấu trùng nhỏ, được nuôi dưỡng đặc biệt, thừa mứa; từ giờ ta có thể dõi theo từng bước một, những chuyển động của một trong những trật tự vĩ đại của tự nhiên, mà đối với loài người, ta đặt cho nó cái tên đầy kính ngưỡng là số phận. Nhờ chế độ dinh dưỡng này, con ấu trùng nhỏ đạt được sự phát triển đột phá; và trong ý thức của nó - đồng thời với cơ thể nó, xảy ra tiếp đó một thay đổi đáng kể: con ong sẽ lớn lên từ con nhộng đó dường như thuộc về một giống côn trùng hoàn toàn khác biệt.
Vòng đời của nó sẽ là năm hay sáu năm, thay vì sáu bảy tuần như ong thợ bình thường. Bụng nó sẽ dài hơn gấp đôi, thân mình có màu vàng óng hơn, sáng hơn; cái ngòi thì cong lại, cặp mắt sẽ có từ bảy đến tám ngàn mắt đơn thay vì mười hai đến mười ba ngàn. Bộ não nhỏ hơn, nhưng nó sẽ sở hữu những buồng trứng khổng lồ, và ngoài ra còn một bộ phận đặc biệt, túi nhận tinh, thứ biến nó trở nên gần như là lưỡng tính. Nó sẽ không có bất cứ một bản năng nào liên quan đến đời lao động vất vả; nó sẽ không có bàn chải, không túi để giữ sáp, không giỏ để lấy phấn hoa. Các thói quen, ham muốn mà chúng ta vẫn coi là cố hữu của loài ong, sẽ biến mất nơi ong chúa non. Nó sẽ chẳng cầu xin khí trời, hay ánh nắng, và đến chết cũng chẳng phải đi thăm một bông hoa nào cả. Nó sẽ tồn tại trong bóng tối, giữa đám đông náo nhiệt suốt ngày; việc duy nhất của nó là không ngừng không nghỉ tìm những chiếc nôi trống rồi đẻ vào đấy. Mặt khác, chỉ mình nó mới biết được cái bất an của tình yêu. Thậm chí có thể trong suốt cuộc đời mình, nó nhìn thấy ánh sáng không đến hai lần, bởi việc ra đi của bầy ong là không thể tránh khỏi; có lẽ, chỉ lần duy nhất nó được dùng đến đôi cánh, là để bay tới những tình lang của nó. Thật kỳ lạ khi nhìn bao nhiêu thứ như vậy - các bộ phận cơ thể, ý thức, ham muốn, tập tính, cả một định mệnh - lại phụ thuộc vào không phải là một tế bào - phép màu sơ khởi của cả cây cỏ, động vật và con người - mà phụ thuộc vào một thứ vật chất bất động: một giọt mật ong.11
VKhoảng một tuần sau khi ong chúa cũ ra đi. Những bé ong hoàng gia ngủ say trong kén không ở cùng một độ tuổi, vì để đảm bảo lợi ích của giống loài, việc sinh sản của loài ong phải ở mức độ tăng dần, và diễn ra cách quãng đều đặn, sao cho đáp ứng được yêu cầu khả năng xảy ra cuộc di cư lần thứ hai, thứ ba hay thậm chí là lần thứ tư. Suốt mấy tiếng đồng hồ, bọn ong thợ đã hăng hái bóc mỏng vách lỗ ong gần nở nhất, trong khi từ bên trong ấu chúa cũng đồng thời gặm nhấm cái nắp tròn giam cầm nó. Cuối cùng, cái đầu nhô ra, nó vươn mình ra phía trước, và với sự trợ giúp của đội cận vệ háo hức bủa đến chải chuốt, mơn trớn, làm sạch mình mẩy, ấu chúa tự mình dứt ra tất cả và cất những bước đầu tiên trên tổ ong. Mới sinh ra, ấu chúa cũng như đám ong thợ, run rẩy và yếu ớt, nhưng độ mươi phút sau, chân cẳng trở nên cứng cáp hơn, toàn thân nó xung động một cách lạ lùng; nó thấy mình không hề cô độc, nó thấy giang sơn của mình vẫn chưa bị chinh phục, vẫn còn những kẻ phản loạn đang lẩn trốn; và nó hăm hở nhịp bước trên những bức tường sáp để tìm kiếm những kẻ thù địch. Song ở đây, những quyết định bí ẩn và ý thức của bản năng, của linh hồn tổ ong, hay của tập thể những ong thợ, lại chen vào. Điểm đáng kinh ngạc hơn cả, nếu ta ngắm nhìn mọi thứ diễn ra trong một tổ ong kính, là không bao giờ có một mảy may do dự, một mảy may chia rẽ nào. Không hề có dấu hiệu cãi cọ, bất hòa nào. Bao trùm thành phố một bầu không khí đồng tâm nhất trí tuyệt đối; mọi con ong đều tỏ ra hiểu được suy nghĩ ở các ong chị em của nó. Và bây giờ là thời khắc nghiêm trọng nhất, mang tính sống còn, trong toàn bộ lịch sử của chúng. Chúng phải chọn giữa ba bốn tốp, để mà trong một tương lai xa, mỗi khả năng mang lại một kết quả hoàn toàn khác nhau; một chút sơ ý thôi có thể dẫn đến thảm họa. Chúng phải thích ứng với việc làm đông đúc nòi giống - đam mê mà cũng là trách nhiệm bẩm sinh của chúng - mà vẫn phải đảm bảo duy trì tổ và dân số trong tổ. Đôi khi phạm sai lầm; chúng liên tiếp tách đi ba hay bốn bầy ong ra, do đó làm kiệt quệ hoàn toàn thành-phố-mẹ; mà các bầy đó lại có tổ chức quá yếu kém nên sẽ tan hàng, có thể vào lúc chớm đông, mắc phải cái khí hậu bất ngờ của con người - vốn khác xa với khí hậu thông thường của loài ong mà bất kể thế nào, đều không bao giờ quên. Trong những tình huống như vậy chúng sẽ mắc phải cái gọi là “cơn kích động bầy đàn”, một trạng thái trong cuộc sống, giống như một cơn sốt thông thường, nhưng phản ứng quá cuồng nhiệt, bỏ qua mục đích gốc, kết thúc chu trình và cuối cùng, là chết.
VIKhông một quyết định nào trước chúng có vẻ là cấp bách; cả con người - nếu bằng lòng chỉ đóng vai người quan sát, cũng không thể đoán được bọn ong sẽ lựa chọn mức độ nào, dù là nhẹ nhất. Nhưng cả việc cân nhắc kỹ lưỡng nhất chi phối lựa chọn của chúng chứng tỏ sự thực rằng chúng ta có thể tác động, hay thậm chí định đoạt, bằng việc tăng hoặc giảm ngay lập tức không gian ta dành cho chúng; hoặc bằng cách di chuyển tầng ong đầy mật rồi đặt lại, thay vào đó bằng các tầng trống được cung cấp đầy đủ nhờ vào các khoang ong thợ.
Vấn đề chúng phải suy tính không phải liệu bầy thứ hai hay bầy thứ ba có cần khởi hành ngay, - vì đến lúc ra quyết định như vậy chúng sẽ chỉ đơn thuần tuân theo một cách mù quáng, không suy nghỉ về cơn bốc đồng hay cái nhất thời của thời khắc đã định, - mà vấn đề nằm ở lựa chọn thống nhất, tức thì những phương cách nào cho phép chúng tung ra bầy thứ hai hay “mặc kệ” cả ba bốn ngày sau khi ấu chúa đầu tiên chào đời, và một bầy thứ ba sau ba ngày kể từ lúc bầy thứ hai khởi hành, cùng với con ong chúa đầu tiên này làm đầu đàn. Vì thế, phải công nhận rằng cái chúng ta khám phá ra ở đây là cả một hệ thống hợp lý một cách hoàn hảo, và sự kết hợp chặt chẽ những kế hoạch mở rộng vượt quá khung thời gian nếu so sánh với sự tồn tại ngắn ngủi của loài ong.
VIICác phương pháp này liên quan đến việc chăm sóc các ấu chúa non trẻ còn nằm im lìm trong những “ngục tối” bằng sáp. Cứ cho rằng chính “linh hồn tổ ong” đã ban bố hủy bỏ cuộc xuất hành của bầy thứ hai. Vẫn còn hai phe phái. Đàn ong có thể cho phép “chị cả” của lứa ong chúa non chúng ta đã quan sát khi chúng ra đời, giết hại các kẻ thù - em gái của nó; hoặc chúng có thể đợi đến khi ấu chúa thực hiện nghi lễ đầy mạo hiểm được biết đến như “chuyến bay hôn phối”, nơi nắm giữ tương lai của cả vương quốc. Cuộc đồ sát thường được phép diễn ra, cũng thường bị ngăn chặn; nhưng ở trường hợp sau đương nhiên sự việc sẽ không dễ dàng cho chúng ta đoán biết liệu quyết định của lũ ong có tuân theo ý muốn tạo ra một bầy thứ hai, hay bởi chúng nhận thức được những hiểm nguy trong chuyến bay hôn phối; bởi chuyện này xảy ra có lúc, do thời tiết đột nhiên chuyển biến bất lợi, hoặc vì lý do nào mà ta không thể biết được, chúng sẽ đột ngột đổi ý, gạt phăng sự sắp đặt đã ấn định trước đó, và hủy hoại ngay dòng giống hoàng tộc mà chúng đã cung phụng một cách tận tụy. Nhưng nay ta cứ cho rằng chúng đã quyết bỏ qua bầy ong thứ hai, và chấp nhận mạo hiểm với chuyến bay hôn phối. Con ong chúa của chúng ta gấp rút tiến đến những chiếc nôi lớn, lòng sôi lên ham muốn, và tụi lính gác nhường đường cho nó. Chỉ biết đến lòng ghen tuông rồ dại, nó sẽ quăng mình vào lỗ tổ ong đầu tiên, răng vuốt điên cuồng bóc toang lớp sáp, xé toạc bọc kén phủ ngoài, và lột trần trụi con ong chúa non đang ngủ bên trong đó. Nếu đối thủ của nó đã nhận thức được, con ong chúa sẽ quay mình lại để cắm ngòi vào bên trong bao nhộn rồi đâm lấy đâm để cái mũi nọc độc cho đến khi nạn nhân chết hẳn. Sau con ong trở nên bình tĩnh hơn, được dỗ dành bởi thần chết - kẻ đã ban phát hận thù cho mọi sinh vật; nó rút nọc ra, vội vàng sang lỗ ong bên cạnh, tấn công, xé rách nó ra, và bỏ đi nếu phát hiện bên trong chỉ là một con nhộng hay một ấu trùng chưa hoàn chỉnh; cho mãi đến cuối cùng, khi đã kiệt sức, thở không ra hơi, nó cũng không chịu ngừng lại, răng với vuốt cứ nghiến xoèn xoẹt một cách vô lực trên bờ tường sáp.
Lũ ong xung quanh lặng lẽ quan sát cơn cuồng nộ của ấu chúa, chúng đứng ngay bên, bất động, chỉ di chuyển khi cần nhường đường cho nó; nhưng ngay khi một cái kén bị đâm thủng và phá hủy, chúng sẽ ào đến, kéo cái xác con nhộng, hay mới chỉ là ấu trùng ném ra khỏi tổ, rồi ngay lập tức ngốn sạch thứ mứt hoàng gia quý báu còn vương trên thành kén. Cuối cùng, khi bà hoàng trẻ quá mệt mỏi để mà duy trì thú vui giết chóc, chúng tự mình hoàn thành nốt cuộc thảm sát đám ong con vô tội; và dòng giống vương giả, cùng nơi cự ngụ của chúng, tất thảy đều biến mất. Đây là thời khắc kinh hoàng của tổ ong; dịp duy nhất cùng với việc tử hình hàng loạt ong đực - vốn đáng chết hơn, là khi lũ ong thợ cam chịu sự xung đột và cái chết chen vào giữa chúng; và ở đây, như thường xảy ra trong tự nhiên, đó là ân huệ tình yêu ban cho chúng khi kéo chúng tới những con đường chết chóc kinh khủng nhất.
Thỉnh thoảng, cùng lúc có đến hai ong chúa non nở ra, nhưng rất hiếm, bởi loài ong luôn đặc biệt ngăn chặn điều đó. Nhưng một khi đã xảy ra, cuộc chiến sinh tử sẽ bắt đầu ngay thời điểm chúng chui ra khỏi kén; và về cuộc chiến này Huber là người đầu tiên đánh dấu một chi tiết hết sức phi thường. Mỗi lần, có vẻ các ong chúa non sẽ luân phiên chĩa mũi nhọn về phía đối phương theo cách thức tuốt trần ngòi độc dọa giết; hệt như phong thái các vị thần trong những trận chiến trong sử thi Iliad, thì ở đây là các vị thần của giống nòi phô bày ra; và hai chiến binh, bị kích động bởi sự đe dọa tức thì, sẽ bay lên, sáp vào nhau, rồi lại tách ra, vờn nhau, nếu cái thảm họa kép lại một lần nữa de dọa tương lai của thần dân của chúng; đến cuối cùng khi một con trội hơn đối thủ lóng ngóng, bất cẩn của nó, rồi không cần phải liều mạng vẫn giết chết được nó. Bởi quy luật của giống loài chỉ đòi hỏi một mạng hy sinh mà thôi.
VIIINhững bao kén đã bị phá hủy, và mọi kẻ địch đều bị tiêu diệt, nữ hoàng non trẻ được thần dân chấp nhận; nhưng nó sẽ chưa thực sự trị vì tất thảy, cũng không được cung phụng như mẹ nó trước kia, cho đến khi chuyến bay hôn phối hoàn tất; vì trước khi nó được thụ thai, lũ ong chỉ phục vụ một cách qua loa và thể hiện lòng trung thành hết sức hời hợt. Tuy vậy, đời nó sẽ hiếm khi được an nhàn như thế, vì bầy ong không thường xuyên kìm nén mong muốn được tách đàn lần nữa. Trong trường hợp này, cũng như khi trước, rất nhanh với cùng những ham muốn như thế, ong chúa sẽ tiếp cận các lỗ ong chúa non; nhưng thay vì gặp những kẻ hầu cận ngoan ngoãn sẵn lòng trợ giúp, nó sẽ thấy lối đi bị chắn lại bởi lũ lính gác đông đảo, thù địch. Trong cơn phẫn nộ cùng với ý chí quyết liệt, nó sẽ cố gắng mở đường qua, hoặc rẽ ngang bọn chúng; nhưng khắp nơi đều có bố trí canh phòng bảo vệ những cô công chúa còn đang say giấc. Nó nhất quyết tấn công bằng được, chỉ để gặp phải sự kháng cự càng lúc càng mãnh liệt, đến khi nó mơ hồ hiểu rằng những con ong thợ bé nhỏ bất khuất này đại diện một quy luật có thể bẻ cong được cả thứ đang kích động nó.
Cuối cùng nó bỏ đi, dạo khắp các tầng ong, sự bực tức của nó đang tìm kiếm một chỗ xả giận qua một khúc chiến ca, hay lời than phiền, để tất cả bọn ong chăm sóc phải biết; tương tự như tiếng kèn trumpet bạc từ xa; rất mạnh mẽ từ cái mơ hồ cuồng nhiệt của nó, đặc biệt là về đêm, nghe rất rõ từ cả hai ba thước Anh, xuyên qua những bức tường đôi của cái tổ ong đóng kín một cách cẩn thận hết mức. Với lũ ong thợ, tiếng thét của bậc quân chủ quả là có tác động kỳ diệu. Nó làm chúng kinh sợ, tạo nên một trạng thái choáng váng đầy quy phục, và khi bà chúa bước tới dừng chân trước lỗ ong đã từ chối tiếp nó, bọn lính gác từng xô đẩy nó, kéo nó quay lại, giờ sẽ ngưng lại ngay lập tức, cúi đầu chờ đợi, cho đến khi tiếng thét dần bớt vang lên. Thực ra, một vài người tin rằng chính là nhờ vào uy lực của tiếng thét, mà con bướm đêm mặt quỷ bắt chước theo mới vào được tổ, tha hồ ăn mật mà không đánh động đàn ong một chút nào.
Trong hai hoặc ba ngày, có khi đến năm ngày, khúc bi ca đầy căm phẫn này sẽ được nghe tới, đó chính là thách thức mà ong chúa ban tới những kẻ thù được bảo vệ nghiêm ngặt của nó. Và đến lượt đám này lớn lên, háo hức được thấy ánh sáng, chúng cũng bắt đầu gặm nhấm nắp đậy kén của mình. Nay sẽ xuất hiện một sự bất tuân phục đáng kể đối với bầy đàn. Nhưng tinh thần của tổ ong, vào thời điểm xác lập quyết chí của nó, có thể biết trước được mọi hệ quả có thể tiếp diễn; và đám ong lính đã nhận được những hướng dẫn dành riêng cho chúng: chúng biết chính xác cần phải làm gì, giờ này qua giờ khác, nghênh đón những cuộc tấn công của một bản năng phá hoại, và chia ra làm hai đạo quân chống cự vững vàng. Chúng ý thức đầy đủ rằng các ong chúa non đang kêu gào nếu chui ra được, sẽ rơi vào tay của con chị của chúng, kẻ sẽ tàn sát bằng sạch từng con một, không cách nào cưỡng lại được vào thời điểm này. Đám ong thợ, vì thế sẽ đắp những lớp sáp mới vào chỗ vách tường bị bọn ong non bào mòn từ bên trong; còn nàng công chúa nóng vội kia cứ khăng khăng phát cuồng lên với việc của mình, không hề hay biết rằng nó sẽ gặp phải một trở ngại đầy mê hoặc, thứ sẽ luôn vươn lên sau mỗi lần bị nó tàn phá. Nó nghe được được tiếng thét xung trận của kẻ địch; cũng đã ý thức được sứ mệnh của dòng dõi hoàng gia, cho dù nó còn chưa cả nhìn thấy cuộc đời, hay biết được tổ ong là cái gì, nó đáp lại thách thức từ sâu thẳm bên trong cõi ngục tù của mình. Nhưng tiếng thét của nó khác, tắc nghẹn và trống rỗng, vì phải xuyên qua những vách tường kín mít; và khi màn đêm buông xuống, mọi âm thanh trở nên im ắng, trên trời những vì sao lặng lẽ ngự trị, người nuôi ong ở gần các tòa thành, các giá đựng tổ ong, bên lối cửa vào, nghi nghi hoặc hoặc, sẽ nhận ra và hiểu được cuộc đối thoại diễn ra giữa bà hoàng đang trăn đi trở lại với những cô công chúa thanh khiết trong cảnh giam cầm.
IXTuy vậy, đối với các nàng công chúa non trẻ, tình cảnh giam hãm kéo dài này lại có lợi; vì được nuôi ăn chúng sẽ lớn lên sung mãn, khỏe mạnh, và có thể bay được. Nhưng suốt giai đoạn chờ đợi này, sức mạnh của con ong chúa thứ nhất cũng đã tăng lên, và giờ thì đủ sức cho phép nó đối mặt với những hiểm nguy của cuộc xuất hành. Thời điểm khởi hành của bầy ong thứ hai đã tới, chị-cả trong số các ong chúa non sẽ làm đầu đàn. Ngay khi nó đi, bọn ong thợ còn lại trong tổ sẽ thả tự do cho đám tù nhân; rồi nó lại phô bày những ham muốn giết chóc, kêu gào giận dữ, cho đến khi, cuối cùng, sau ba bốn ngày, đến lượt mình đứng đầu đàn thứ ba rời tổ; lần lượt cứ như vậy, trong trạng thái “cơn sốt chia đàn”, mãi đến khi thành phố mẹ kiệt cùng mới thôi.
Swammerdam đã chỉ ra một tổ ong, bằng cách chia bầy liên tiếp, chỉ trong một mùa duy nhất đã có thể phát triển lên đến không ít hơn ba mươi đàn. Phép nhân phi thường này nổi bật trên mọi thứ sau những mùa Đông tàn khốc; hình như lũ ong, mãi mãi gắn chặt với những dục vọng kỳ bí của tự nhiên, cũng nhận thức được những mối nguy hiểm đe dọa giống nòi chúng. Nhưng vào những lúc bình thường, cơn bốc đồng này hiếm khi xảy ra ở một tổ ong sung mãn, có kỷ luật. Có nhiều tổ chỉ chia bầy một lần, thậm chí có những tổ còn không bao giờ chia bầy. Như thông lệ, sau khi bầy thứ hai kéo đi, đàn ong sẽ không chia thêm nữa, do thấy được kho tàng sẽ cạn kiệt, hay bởi cẩn trọng trước các nguy cơ thời tiết. Trong hoàn cảnh đó, chúng sẽ để con ong chúa thứ ba tàn sát bọn ong chúa non còn bị giữ trong kén; cuộc sống thường nhật lập tức quay lại, cùng với nhuệ khí ngập tràn vì tất cả ong thợ đều còn rất trẻ, vì tổ ong đã bị giảm dân số và trở nên nghèo nàn, và vì còn có những khoảng trống khổng lồ cần phải lấp đầy trước khi mùa Đông tới.
XChuyến đi của bầy thứ hai và thứ ba tương tự bầy thứ nhất, các điều kiện như nhau, ngoại trừ số lượng ong ít hơn, kém thận trọng hơn và không có ong do thám trước; ong chúa non cũng không bị ngăn trở, kích động, sẽ bay xa hơn nhiều, và trong giai đoạn đầu của hành trình đưa bầy ong qua một khoảng cách xa đáng kể tính từ tổ ong. Kỷ luật tổ chức của bầy di cư thứ hai thứ ba này sẽ yếu kém hơn hẳn, tương lai của chúng cũng mơ hồ, bất định hơn. Ong chúa đứng đầu đàn, đại diện cho tương lai, còn chưa được thụ thai. Toàn thể vận mệnh của chúng phụ thuộc vào chuyến bay hôn phối kế đó. Một con chim bay ngang qua, vài giọt mưa, một lỗi nhỏ, một cơn gió lạnh - thảy đều có thể kéo theo thảm họa khôn lường. Vì vậy lũ ong đều nhận thức được rằng, khi bà hoàng trẻ lao ra tìm kiếm tình lang, chúng sẽ ngưng lại công việc vừa mới bắt đầu, sẽ phải bỏ cái tổ đã trở nên thân thương với chúng trong một ngày, tất cả kéo theo ong chúa, chỉ sợ tuột mất nó ra ngoài tầm mắt chúng, hào hứng vây quanh sát nó, che chắn cho nó bằng hàng ngàn cặp cánh tận tụy, quên mình vì nó, nếu chẳng may cuộc yêu đẩy nó dạt ra cách tổ quá xa đến mức con đường về nhà vốn chưa quen trở nên mơ hồ và rối rắm trong mọi trí nhớ.
XINhưng quy luật tương lai quá mãnh liệt, đến mức không một sự bất định nào, không một mối nguy tồn vong nào, có thể khiến, dù chỉ một con ong, phải dao động. Nhiệt huyết thể hiện ở đàn thứ hai và thứ ba không hề kém cạnh ở đàn đầu tiên. Vương quốc vừa mới ban bố lệnh, các ong thợ tức khắc tề tựu xung quanh mỗi ấu chúa đang gặp nguy cấp, hăm hở đánh cuộc vận mệnh vào đó, hộ tống nó trên hành trình vốn dĩ lợi bất cập hại, chỉ bởi khao khát được thỏa mãn bản năng. Từ đâu mà chúng sở hữu nguồn năng lượng mà con người chúng ta không bao giờ có được, thứ năng lượng giúp chúng vượt qua quá khứ, như phá tan kẻ thù? Ai đã lựa chọn kẻ ở lại, người ra đi trong cả đám đông? Không có sự phân biệt tầng lớp giữa những con ở lại với những con dời đi; chỉ khác mỗi con này trẻ, con kia già hơn mà thôi; bao quanh mỗi con ong chúa một đi không trở lại, bọn ong thợ kỳ cựu xô đẩy lũ ong thợ non mới lần đầu tiên trong đời đối mặt với cơn say choáng váng mang màu xanh da trời. Sức mạnh tương đối của một bầy ong cũng không bị chi phối bởi sự ngẫu nhiên, bởi tâm trạng nhất thời, sự dịch chuyển bản năng, tư duy hay cảm tính. Tôi từng hơn một lần thử thiết lập một mối tương quan giữa số lượng ong tạo thành một đàn di cư và số ong ở lại tổ cũ; mặc dầu những khác biệt trong tính toán này không chính xác về mặt toán học cho lắm, ít nhất tôi vẫn có thể đưa ra được mối liên hệ - nếu chúng ta tính đến số lượng bao kén, hay nói cách khác là số ong sẽ được sinh ra - đủ ổn định để chỉ ra một định lượng thực tế và cũng bí ẩn của linh hồn cùa tổ ong.
XIIChúng ta sẽ không bám theo những đàn ong này về những chuyến di cư có số lượng dầy đặc và cũng thường rất phức tạp. Có lúc, hai đàn nhập vào làm một; lúc khác, hai hay ba ong chúa sẽ lợi dụng sự hỗn tạp lúc khởi hành đánh lừa bọn ong lính và nhập vào các nhóm đang hình thành. Cũng có đôi khi, một trong các ong chúa non nhận thấy xung quanh mình là những con ong đực sẽ thụ thai ngay trong chuyến bay chia đàn, rồi sau đó kéo theo đám thần dân của riêng nó đến một tầm cao, một khoảng cách xa hẳn. Trong nghề nuôi ong, những đàn thứ hai thứ ba này luôn được đưa về tổ cũ. Các ong chúa sẽ gặp nhau trong tổ, bọn ong thợ sẽ tụ lại quan sát cuộc chiến của chúng; và khi kẻ mạnh chiến hạ gục kẻ yếu, bằng nhiệt huyết đối với lao động và lòng căm ghét tình trạng vô kỷ luật, chúng sẽ vứt bỏ các xác chết, đóng sập cửa lại với cái tương lai bạo lực, gạt quá khứ sang một bên, quay lại các lỗ ong và trở về con đường bình yên đến những bông hoa đang chờ đợi chúng.
XIIIĐể đơn giản hóa vấn đề, chúng ta quay lại với con ong chúa được bầy ong cho phép hạ sát đám em gái, và với những cuộc phiêu lưu của nó. Như tôi đã nói, cuộc thảm sát này thường bị ngăn chặn, cũng thường được phê chuẩn, thậm, chí ngay cả khi bề ngoài lũ ong không có vẻ gì muốn tách bầy cả; vì ta đã thấy được tinh thần thù địch giống hệt nhau ở các tổ ong khác nhau trong cùng một trại ong, hệt như ở các quốc gia khác nhau nhưng cùng một châu lục của loài người. Nhưng rõ ràng là bọn ong sẽ hành động khinh suất khi bật đèn xanh cho cuộc thảm sát; bởi nếu con ong chúa chết, hay bị thổi dạt đi mất trong chuyến bay hôn phối, việc thay thế vị trí của nó là bất khả, những ấu trùng ong thợ đã quá tuổi khi chúng bị ảnh hưởng bởi sự chuyển biến khỏi dòng dõi vua chúa. Tuy nhiên, ta hãy thừa nhận rằng sự khinh suất đó là sự đã rồi; hãy xem đứa-con-cả, giờ lên ngôi độc tôn, và được công nhận như thể là linh hồn của dân chúng. Nhưng nó vẫn còn trinh trắng. Để được như mẹ nó trước kia, nó cần gặp gỡ con đực trong vòng hai mươi ngày đầu tiên của đời mình. Nếu vì lý do này khác mà trì hoãn quá khoảng thời gian này, sự trinh trắng của nó sẽ trở nên không thể đổi khác. Vì vậy, dù còn trinh, nó chắc chắn sẽ vô sinh. Ở đây, ta gặp điều bí ẩn vĩ đại - hay sự phòng ngừa — của Tự nhiên, được biết đến bằng cái tên “sinh sản đơn tính”, phổ biến ở một số loại côn trùng như rệp vừng, bướm cánh vẩy trong chi bướm lông, côn trùng cánh mang trong họ Cynipede, v.v.. Con ong chúa trinh nguyên có thể để trứng, nhưng từ tất cả trứng nó đẻ vào các lỗ ong, dù lớn hay nhỏ, cũng chỉ nở ra ong đực; và bởi bọn này không bao giờ lao động, chỉ ăn bám vào ong cái, cũng không bao giờ đi kiếm mật trừ phi chỉ kiếm cho riêng mình chúng ăn, và thường là không có khả năng tự nuôi sống mình, kết quả sẽ là, sau vài tuần lễ, con ong thợ đói khát cuối cùng cũng chết, cả đàn bị phá hủy và hoàn toàn diệt vong. Ong chúa, như ta nói, sẽ sinh ra hàng ngàn ong đực; mỗi con trong số này sở hữu hàng triệu tinh trùng song hoàn toàn không có khả năng đi vào cơ quan sinh dục của ong chúa. Có lẽ cũng chẳng phải điều gì kinh khủng hơn so với hàng ngàn hiện tượng tương tự; còn thực ra, khi chúng ta khảo cứu các vấn đề này, và đặc biệt hơn nữa là chuyện sinh sản của chúng, những điều kỳ diệu, bất ngờ liên tục xảy đến trước mắt ta - thường xuyên hơn hẳn, ít nhân đạo hơn so với những gì trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ nhất - đến mức sự kinh ngạc sau một thời gian trở nên quen thuộc và chúng ta gần như chẳng còn bận tâm nữa. Tuy vậy, sự việc vẫn còn đủ thú vị, đáng chú ý. Mặt khác, chúng ta lý giải thế nào đây, về mục đích của việc tự nhiên tỏ ra cưng chiều những con ong đực vô dụng với cái giá phải trả là chính những con ong thợ hết sức cần thiết? Có phải Mẹ thiên nhiên lo sợ rằng lũ ong cái có thể bị trí khôn của chúng xúi giục phải kìm hãm số lượng bọn ăn bám kia, nhưng dù chúng có ăn tàn phá hại đi nữa thì vẫn cần có để mà duy trì nòi giống? Hay đây chỉ đơn thuần là một phản ứng thái quá chống lại nỗi bất hạnh có một con ong chúa bà cô? Liệu đây có phải một trong những biện pháp đề phòng một cách cực đoan và mù quáng, bất chấp nguồn gốc tội lỗi, không thể nào cứu vãn được nữa; để ngăn chặn tai ương bất hạnh, lại mang đến một thảm họa hay sao? Trong thực tế - dù chúng ta không được quên đi cái thực tế tự nhiên, nguyên thủy thì khác: so với ngày nay, các bầy đàn trong rừng xưa kia có thể bị phân tán hơn nhiều - kể cả khi con ong chúa bị vô sinh, vẫn không thiếu ong đực luôn rất đông đúc và bâu lấy nó từ xa. Nhưng mưa gió và giá rét sẽ giữ nó ở lì trong tổ, và giữ im mãi đôi cánh chưa hoàn thiện, bởi thế nó sẽ không thể bay lượn trong không trung để đáp ứng yêu cầu mà “bộ phận cơ thể” của con ong đực đòi hỏi. Thiên nhiên, tuy thờ ơ với những vấn đề cốt tử, lại quá đỗi sốt sắng với việc nhân lên gấp bội số ong đực, đến mức có khi ta thấy được ở những tổ ong mồ côi, hai ba con ong thợ nặng lòng duy trì nòi giống đến nỗi bất chấp buồng trứng của chúng đã teo lại, vẫn cố sức đẻ, các bộ phận cơ thể của chúng cũng phình lên dưới cơn xúc cảm đau đớn, đẻ ra được một vài quả trứng vào lỗ tổ, rồi cũng như chỗ con ong chúa cằn, từ đấy chỉ nở ra được lũ ong đực mà thôi.12
XIVỞ đây ta thấy một sự can thiệp tích cực từ một thế lực cao hơn dù có thể với ý đồ khinh suất, thứ đưa ra trở ngại mãnh liệt đối với ý chí thông tuệ của cuộc sống. Trong thế giới côn trùng những can thiệp kiểu này tương đối thường xuyên, và ta có thể học hỏi được nhiều điều từ chúng; vì thế giới này ngày càng đông đúc, và cũng phức tạp hơn những thế giới khác, những ham muốn cá biệt của tự nhiên thường được hiển lộ rõ ràng hơn cho chúng ta ở đó; đôi khi cũng có thể thấy được giữa những cuộc thí nghiệm mà ta có thể chắc chắn rằng vẫn chưa được hoàn chỉnh. Chẳng hạn tự nhiên có một dục vọng vĩ đại và bao trùm, thể hiện ra ở mọi mặt: việc cải thiện nòi giống là nhờ vào chiến thắng của những cá thể mạnh hơn. Như một quy luật, cuộc đấu tranh này được tổ chức hết sức chu đáo. Việc giết hại con yếu tuy tàn ác, nhưng chẳng sao cả miễn là phần thưởng cho người chiến thắng chắc chắn và có giá trị. Nhưng có những trường hợp mà người ta có thể tưởng rằng tự nhiên không đủ thời gian để mà gỡ rối cho các mối dây liên kết của nó; những trường hợp không có phần thưởng nào cả, và số phận của kẻ thắng cuộc cũng không kém thảm khốc hơn so với người chiến bại. Trong số đó, để chọn ra một ví dụ nào đó không quá xa cách những con ong của chúng ta, tôi biết không một trường hợp nào ấn tượng bằng những con bọ cánh cứng thuộc họ Sitaris colletes. Đây là câu chuyện với rất nhiều chi tiết không xa lạ gì đối với loài người, mà ta có thể mường tượng ra được.
Những con bọ cánh cứng này là ấu trùng nguyên thủy của một loài ký sinh thuộc một trong các loài ong đất Colletes hoang dã, ngắn lưỡi và sống biệt lập, xây tổ trong các hầm đất. Chúng có tập tính nằm đợi lũ ong ở ngay lối vào các hầm đất này, để sau đó ba, bốn, năm con hay thường là nhiều hơn sẽ bám vào lưng con ong rồi lẩn sâu vào lông của nó. Không cần phải bàn cãi liệu cuộc đấu tranh giữa kẻ mạnh và kẻ yếu có diễn ra ở đây không nữa, mọi thứ sẽ diễn ra thuận theo quy luật tự nhiên. Nhưng vì một lý do mà ta chưa biết, bản năng của chúng đòi hỏi, và từ đó tự nhiên đã buộc chúng phải an phận năm im chừng nào còn ở trên lưng con ong. Chúng kiên nhẫn đốt thời gian khi con ong đi thăm hoa, xây tổ hay dự trữ kho tàng. Nhưng ngay khi con ong đẻ, tất cả bọn chúng đều nhảy lên quả trứng, còn con ong đất Colletes ngây thơ bèn bịt kín miệng cái lỗ mà nó có nhiệm vụ cung cấp thức ăn đầy đủ, không mảy may ngờ rằng nó vừa sập cửa giết chết đứa con của mình.
Miệng lỗ được đóng kín khi những con trùng triongulin bâu lấy quả trứng bắt đầu cuộc chiến hữu ích và không thể tránh khỏi của chọn lọc tự nhiên. Con trùng khỏe hơn, nhanh hơn sẽ móc chặt vào dưới lớp giáp xác của con mồi, rồi nâng nó lên cao và giữ chắc bằng hàm trên hàng giờ đồng hồ liền cho đến khi con mồi chết. Nhưng khi trận chiến đang diễn ra, một con trùng triongulin khác, vốn không gặp được kẻ địch hay đã chiến thắng, lại nhảy vào chiếm quả trứng và phá vỡ nó ra. Con thắng cuộc cuối cùng vì thế lại có thêm kẻ thù mới, nhưng trận đấu này lại dễ, vì con trùng kia còn đắm đuối vào cơn đói khát trời sinh đang cố sống cố chết cắm vòi vào quả trứng, quên béng mất phải bảo vệ bản thân. Nó sẽ nhanh chóng bị xử lý; còn con kia cuối cùng chiếm vị trí độc tôn, sở hữu quả trứng quý báu mà nó đã giành được một cách dễ dàng. Nó sẽ đút đầu nó vào chỗ mà con trùng trước đó đã tạo ra, bắt đầu bữa tiệc lâu dài, nhờ đó mà lột xác thành một con côn trùng hoàn thiện. Nhưng tự nhiên, đã tuyên bố trận thách đấu này, thì mặt khác, cũng đưa ra cái giá phải trả cho chiến thắng một cách chi li đến mức một quả trứng chỉ đủ nuôi một con triongulin duy nhất. Bởi thế, như chúng ta biết được nhờ M. Mayet, người mang đến cho chúng ta những cuộc phiêu lưu rối rắm này, kẻ chinh phục sẽ thiếu thức ăn do địch thủ cuối cùng của nó ăn mất trước khi chết; do đó sẽ không có khả năng hoàn thành giai đoạn đầu tiên của quá trình lột xác, đến lượt mình nó cũng sẽ chết, dính chặt lấy vỏ quả trứng ong, hoặc, tự thêm mình vào số những con chết chìm trong thứ chất lỏng đường mật.
XVTrường hợp này, dù hiếm khi được theo dõi sát sao, không phải là độc nhất vô nhị trong lịch sử tự nhiên. Nằm trần trụi ngay trước mắt ta là cuộc đấu tranh giữa ý chí có ý thức của con trùng triongulin đang mưu cầu sự sống, và ý chí lớn lao nhưng mơ hồ của thiên nhiên vốn không chỉ muốn con trùng triongulin được sống, mà thậm chí còn mong mỏi nó phải phát triển, phải vững vàng đến một mức độ mà ý chí của nó phải tự thúc đẩy nó. Nhưng, qua sự khinh suất lạ kỳ nào đó, sự cải biến mà thiên nhiên thể hiện lại triệt tiêu cuộc sống của ngay cả cá thể phù hợp nhất, và cả họ ong đất Sitaris Colletes hẳn cũng phải diệt vong từ lâu mà tuyệt không có cơ hội cho phép một cá thể đơn lẻ nào trốn thoát khỏi cái quy luật tối thượng và sâu xa - vốn cứ phải được ăn cả ngã về không mới hài lòng.
Có thể nào cái thế lực siêu phàm này phạm sai lầm, dù có vẻ là vô thức với chúng ta, nhưng nhất thiết là thông thái, nhìn ra được rằng sự sống mà nó sắp đặt và duy trì sẽ mãi mãi chứng minh được là nó đúng? Có khi nào sự yếu đuối lại vượt lên cả cái lý trí tối thượng mà ta thường cầu khẩn khi ta đạt đến những giới hạn của chính mình? Và nếu thật sự như vậy, sự yếu đuối trở nên đúng đắn là nhờ bởi ai?
Nhưng hãy quay lại cái dạng thức đặc biệt của sự can thiệp không thể cưỡng lại nổi của tự nhiên mà ta thấy trong sự sinh sản đơn tính. Và ta cần nhớ rõ rằng những nan đề ta gặp phải trong cái thế giới xa lạ với con người thực ra liên quan hết sức gần gũi với chúng ta. Ai dám cam đoan rằng những can thiệp đó không xảy ra ở môi trường nhân loại - những dạng can thiệp có thể ẩn ngầm nhưng không hề ít hiểm họa hơn? Và trong trường hợp mà ta đang xem xét, rốt cuộc, đâu là đúng, con côn trùng, hay thiên nhiên? Điều gì sẽ xảy ra nếu bọn ong có thể ngoan ngoãn dễ bảo hơn, hay được phú cho trí thông minh cao hơn có thể hiểu rõ được những ý muốn của tự nhiên và tuân phục chúng một cách triệt để; để mà nhân giống lũ ong đực đến vô cùng theo hiệu lệnh độc đoán của tự nhiên? Liệu chúng có dám mạo hiểm mà hủy hoại nòi giống của chúng? Ta có phải tin rằng tự nhiên có những ý muốn mà nếu ta tuân phục quá cũng chết, hiểu quá rõ cũng mang họa; và một trong những ý muốn của tự nhiên là ta đừng có biết, đừng có chạy theo tất cả mọi ý muốn của nó? Liệu trong vấn đề này có tồn tại một mối nguy nào cho nhân loại không? Chúng ta nhận thức được quá rõ những thế lực vô thức trong nội tại chúng ta, những thứ sẽ đòi hỏi trái ngược với những gì mà trí thông minh con người có thể làm được. Và cái trí thông minh này, như một quy luật, đã chạm mức giới hạn, không biết phải đi đến đâu nữa - có được chăng nếu nó tự thân gia nhập những thế lực ấy, bổ sung vào đó năng lực ngoài mong đợi của nó?
XVITừ những mối nguy của sự sinh sản đơn tính, ta đã có quyền kết luận rằng tự nhiên không phải lúc nào cũng có thể cân bằng mọi phương cách đến tận cùng; và cũng có lúc những gì mà tự nhiên muốn duy trì lại được duy trì bằng những cách thức ngăn chặn mà nó sáng chế ra để chống lại chính những ngăn chặn khác của nó, và thường thông qua những ngoại cảnh mà chính nó cũng không tiên đoán được? Nhưng liệu có gì mà tự nhiên muốn tiên đoán, muốn duy trì không? Tự nhiên, có người sẽ bảo, là một từ mà ta khoác lên cái bất khả tri; và một vài thứ để ta có thể tin vào bằng trí thông minh, hoặc bằng toan tính khác. Điều này đúng. Ở đây ta đụng phải những cái bình đóng kín mít chứa đựng ý niệm về vũ trụ của chúng ta. Hết lần này đến lần khác, miễn cưỡng dán lên những cái bình ấy dòng chữ “KHÔNG BIẾT”, khiến ta nản lòng và kéo ta vào câm lặng, ta khắc sâu lên đầy, tùy vào kích cỡ từng chiếc, những chữ “Tự nhiên, sự sống, cái chết, vĩnh cửu, chọn lọc, linh hồn của giống nòi,” và nhiều từ khác, hệt như tiền nhân đã định những chữ “Thượng đế, ý trời, định mệnh, phần thưởng,” v.v.. Nếu được, thì cứ để thế đi, đừng thêm nữa. Nhưng, dù nội hàm của những chiếc bình mãi cứ mơ hồ khó hiểu, ít nhất ta vẫn được một sự thực là những từ ngữ ấy ngày nay truyền tải ít hơn sự đe dọa, do đó chúng ta có thể tiếp cận chúng, chạm vào chúng và ghé sát tai vào nghe ngóng, với tất cả tính tò mò.
Nhưng bất luận chúng ta dán cái tên nào lên những chiếc bình, chắc chắn rằng ít nhất một trong số chúng, cũng là cái lớn nhất - mang trên mình cái tên “Tự nhiên” - chứa đựng một sức mạnh rất thật, thật hơn tất thảy, có thể bảo vệ một số lượng và chất lượng khổng lồ, phi thường của sự sống trên hành tinh của chúng ta, bằng những phương thức vô cùng xảo diệu đến mức vượt qua tất cả mọi thứ thiên tài mà con người có thể tạo ra được. Cái số lượng và chất lượng ấy có thể được bảo vệ bằng những cách khác không? Có phải chúng ta tự lừa dối mình khi bám theo cái ảo tưởng tiên đoán, tìm được giữa muôn trùng nguy cơ có một cơ hội tốt lành?
XVIICó thể, nhưng những cơ hội may mắn này dạy chúng ta một bài học về lòng kính ngưỡng ngang với điều mà ta học được từ các tôn giáo. Khi ta để mắt vào những sinh vật có ý thức và trí thông minh ít ỏi, không tính sinh vật đơn bào - những đại diện đầu tiên trong buổi nguyên sơ của giới động vật, ta sẽ thấy, như đã được chứng minh một cách đa dạng bằng các thí nghiệm của ông H. J. Carter, người dùng kính hiển vi trứ danh, rằng những phôi nguyên thủy nhất, như nấm nhầy, cũng bộc lộ ý chí, dục vọng và xu hướng thiên vị; và cả lớp trùng lông, vốn rõ ràng chẳng có bộ phận nào cũng biểu lộ ra một trí xảo hiện hữu. Ví dụ, con trùng amip sẽ kiên nhẫn nằm chờ những bào tử màng dày mới sinh, khi chúng rời khỏi buồng trứng mẹ; ý thức được rằng chúng vẫn còn thiếu xúc tu độc. Trùng amip không có cả hệ thần kinh lẫn các cơ quan nhận biết ở bất cứ dạng nào. Hoặc nếu quay sang các loài thực vật, vốn vô tri giác, phơi mình ra trước mọi hiểm họa sống còn - bỏ qua các loài ăn thịt như Drusera, loại cây hoạt động như động vật thực thụ, -ta bị ấn tượng mạnh bởi trí tuệ phô bày nơi những loài hoa nhất mực khiêm nhường để hiểu được rằng chuyến viếng thăm của con ong luôn luôn dắt mối sự thụ tinh chéo mà chúng cần. Hãy xem cách thức kỳ lạ mà lan cánh xanh (Orchis Moris), một giống lan đồng quê tầm thường, kết hợp giữa cựa hoa và những móc cánh của nó; quan sát độ nghiêng tự động và chính xác cùng sự dính kết của khối phấn; cũng như cái bập bênh kép chuẩn xác của các bao phấn ở cây xô thơm dại sẽ chạm vào một điểm đặc biệt trên cơ thể con côn trùng bay tới, để đến lượt mình con côn trùng đó có thể chạm vào đầu nhụy bông hoa bên cạnh cũng tại một điểm đặc biệt; và hãy xem tiếp đây, trường hợp cỏ Pedicularis Sylvitica (cỏ mã tiên?) với những chuyển động liên tiếp, có tính toán của đầu nhụy; và thực ra lối đi của ong vào bất cứ một trong ba loại hoa kể trên đều khiến mọi bộ phận cơ thể (của con côn trùng) phải rung lên, hệt như một xạ thủ điêu luyện nhắm trúng điểm đen trên mục tiêu khiến toàn bộ các nhân vật phải chuyển động theo một cơ chế tinh vi mà ta thấy ở những hội chợ làng quê.
Ta vẫn có thể tiến xuống thấp hơn nữa, và chỉ ra, như Ruskin đã chỉ ra trong cuốn “Ethics of the Dust,” đặc tính, tập tính và thủ đoạn của các tinh thể; các xung đột và quy tắc thông lệ của chúng, khi một vật thể ngoại lai kháng cự lại cấu trúc của chúng, thứ còn cổ xưa hơn nhiều so với những gì chúng ta tưởng tượng được; tập quán chúng tiếp nhận hay bài trừ kẻ địch, chiến thắng khả dĩ của kẻ yếu trước kẻ mạnh, tỉ như khi tinh thể thạch anh đầy mạnh mẽ phải khuất phục trước tinh thể epidote hèn mọn nhưng xảo trá và cuối cùng chịu để bị thống trị; cuộc xung đột có lúc kinh hoàng và cũng có khi đẹp tuyệt vời giữa tinh thể đá và sắt; sự giãn nở hoàn hảo đúng quy tắc và tuyệt đối thanh khiết của một khối tinh thể trong suốt từ chối mọi thứ mầm bệnh tật, hôi thối, sự đồi bại hiển nhiên mà người anh em của nó đã cam chịu mục ruỗng, và quằn quại đau đớn trong hư vô; cũng như ta có thể dẫn ra đây hiện tượng kỳ lạ của sự hồi phục và liền sẹo tinh thể được Claude Bernard nhắc tới, v.v… Nhưng sự kỳ bí ở đây đã trở nên xa lạ với chúng ta. Ta hãy cứ ở bên những bông hoa, thứ là biểu hiện cuối cùng của một sự sống có mối quan hệ nào đó với sự sống của chúng ta. Giờ ta không bận tâm đến các loài động vật hay côn trùng ta đã gán cho một ý chí đặc biệt và thông minh, mà nhờ vào đó, chúng sinh tồn. Ta tin rằng, dù đúng hay sai, những bông hoa không sở hữu ý chí như vậy; ít nhất là chúng ta không thể phát hiện trong chúng ngay cả những dấu vết nhỏ nhất của những cơ quan tạo nên và chứa đựng ý chí, trí tuệ và sự chủ động trong hành động. Bởi thế, hệ quả kéo theo là mọi thứ hoạt động trong chúng theo một cách thức đáng ngưỡng mộ mà hẳn phải có nguồn gốc trực tiếp từ thứ mà ta gọi là tự nhiên. Ta không nói đến thứ trí tuệ của cá nhân; ở đây ta phát hiện ra cái thế lực vô thức, đồng nhất trong hành động bắt giữ các hình thức khác của chính nó. Có chăng vì thế mà ta bác bỏ rằng những cái bẫy đó chỉ thuần túy là ngẫu nhiên, xảy ra theo một diễn tiến cũng ngẫu nhiên. Ta vẫn chưa đặt tên cho sự suy biến như thế. Có thể, những loài hoa này, nếu thiếu những sự kết hợp thần kỳ đó, sẽ không tồn tại được, nhưng vị thế của chúng có thể sẽ được thay thế bởi những loài khác khồng cần đến phép thụ tinh chéo; và sự không tồn tại nói trên có lẽ sẽ không được ai biết đến, mà sự sống chuyển động khắp trái đất này có lẽ sẽ bớt thần bí đối với chúng ta, bớt đa dạng, và bớt lạ kỳ hơn.
XVIIITuy vậy, thật khó lòng không công nhận rằng những hành vi với mọi biểu hiện thông thái và cẩn trọng tạo nên và hỗ trợ cho những khả năng may mắn này. Chúng xuất hiện từ đâu, - tự thân nó đã tồn tại, hay từ cái thế lực đã sáng tạo nên sự sống? Ngược lại, để biết rằng câu trả lời mang tầm quan trọng tối thượng đối với chúng ta, tôi sẽ không nói câu “Quan trọng gì đâu.” Nhưng đồng thời, ta vẫn nên tìm hiểu liệu đó chính là đóa hoa đang gắng sức bảo tồn và hoàn thiện sự sống mà tự nhiên đặt vào bên trong nó, hay đó chính là tự nhiên đang nỗ lực bảo vệ và phát triển mức độ tồn tại của đóa hoa.