Chú thích
1. Aristée, con trai của Apolon, theo truyền thuyết thần thoại, đã dạy cho con người nghề nuôi ong.↩︎
2. Có thể dẫn thêm nữa một chuyên khảo của Kirby và Spence trong Introduction to Entomology của họ, nhưng nó hoàn toàn mang tính kĩ thuật.↩︎
3. Tổ ong để quan sát là cách gọi những tổ ong có vách bằng kính, lắp thêm các tấm mành hay cửa sổ. Tốt nhất trong số đó là những tổ chỉ có một tầng tổ - điều này cho phép quan sát được nó từ hai phía. Có thể đặt, mà không có nguy hiểm và bất tiện gì, những tổ ong có thêm lỗ ra vào, ở phòng khách, thư phòng và v.v. Những con ong sống trong chiếc tổ được đặt trong phòng làm việc của tôi ở Paris đã tìm được trong một bãi hoang toàn đá sỏi cùa một thành phố lớn những cách thức để sống và phát triển.↩︎
4. Các con số này thực sự chính xác, chúng là số liệu của một tổ ong hoàn chỉnh ở mức phát triển tối đa.↩︎
5. Thông thường con chúa lạ được đưa vào nhập đàn sau khi nó bị nhốt trong một cái lồng mắt lưới nhỏ treo ở giữa hai tầng tổ. Cái lồng có cánh cửa bằng sáp và mật - những con ong thợ sẽ gặm nhấm sáp và mật, khi chúng quá tức giận, thế là chúng đã giải thoát cho con ong chúa bị giam, và đón nhận nó một cách thân thiện. M. S. Simmins, giám đốc một xí nghiệp nuôi ong lớn ở Rottingdeon, mới đây đã tìm ra một phương pháp khác để đưa ong chúa nhập đàn - phương pháp này đơn giản một cách kì lạ và hầu như luôn thành công; nó ngày càng trở nên phổ biến hơn trong các nhà nuôi ong quan tâm đến sự thành công trong công việc của mình. Thói quen đưa ong chúa nhập đàn đặc biệt khó khăn bởi thái độ của con ong chúa: nó lo lắng, bỏ chạy, trốn tránh, xử sự như một kẻ mạo danh bất hợp pháp, gây nên những sự nghi ngờ, mà chúng nhanh chóng bị sự dò xét của bay ong thợ khẳng định. M. Simmins đầu tiên cô lập hoàn toàn con ong chúa cần phải cho nhập đàn, và bắt nó nhịn đói trong nửa tiếng. Sau đó ông nâng một góc của cái nắp bên trong của tổ ong thiếu ong chúa và đăt con ong chúa lạ vào nóc một tầng tổ. Tuyệt vọng vì sự cô đơn của mình lúc trước đó, nó rất mừng là lại được ở giữa bầy ong, và vì bị đói, nên nó hau háu ăn thức ăn được đưa ra cho nó. Đám ong thợ bị lừa bởi sự tự tin này, không theo dõi nữa, vì nghĩ rằng, đây là con ong chúa cũ của chúng đã trở về, và vui mừng đón tiếp nó. Từ thí nghiệm này, có thể rút rạ được rằng, loài ong, trái với ý kiến của Huber và tất cả các nhà nghiên cứu, không thể nhận ra con ong chúa của mình. Bất luận thế nào, cả hai sự giải thích đều có thể đúng như nhau - dù sự thật, có thể, nằm ở sự giải thích thứ ba mà chúng ta còn chưa biết đến - thêm một lần nữa chúng cho thấy tâm lí của loài ong phức tạp và khó hiểu đến thế nào. Nhưng từ đó, cũng như từ mọi vấn đề của đời sống, có thể rút ra chỉ một kết luận - đó chính là, trong khi chờ đợi một điều tốt đẹp hơn, thì cần phải làm thế nào, để trong con tim chúng ta tính ham hiểu biết luôn chiếm ưu thế.↩︎
6. Bộ não ong, theo tính toán của Dujardin, cấu thành 1/174 phần tổng trọng lượng con côn trùng, ở loài kiến là 1/296. Mặt khác, các bộ phận có cuống - là các bộ phận có sự phát triển thường đi kèm với vượt trội về trí thông minh so với bản năng, ở loài ong lại phần nào ít quan trọng hơn ở loài kiến. Có lẽ kết quả từ những ước đoán này - tất nhiên vốn vẫn chỉ là giả thuyết, và còn là một vấn đề quá sức khó hiểu - là định lượng trí tuệ của loài ong và loài kiến chắc hẳn phải ít nhiều tương đương nhau.↩︎
7. Tôi đã làm lại thí nghiệm trong những ngày đầu tiên có nắng vào một mùa Xuân u ám. Nó đã cho tôi một kết quả tồi tệ. Mặt khác, một người bạn nuôi ong của tôi, một người quan sát rất tinh tường và rất trung thực, đã được tôi nhờ làm thí nghiệm này; anh ấy đã viết cho tôi bốn thông tin xác thực, mà anh ấy nhận được, khi dùng đúng những thủ thuật đó. Sự việc đòi hỏi phải kiểm tra lại, và vấn đề cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Nhưng tôi tin rằng, bạn tôi đã cho phép bị lừa bởi mong muốn rất đỗi tự nhiên của mình là được thấy thí nghiệm thành công.↩︎
8. Đơn vị này đã bị loại bỏ một cách hoàn toàn có cơ sở. Đường kính của các lỗ tổ chính xác một cách lạ thường, nhưng tương tự như tất cả những gì do một sinh vật sống tạo ra, nó không bất biến về mặt toán học ở trong một tổ ong. Ngoài ra, như Maurice Girard nhận thấy, các chủng ong khác nhau có đường kính khác nhau của lỗ tổ, vì thế đơn vị đo có thể khác nhau từ một tổ ong này sang một tổ ong khác, tùy theo chủng ong sống trong tổ.↩︎
9. Réaumur đã đưa ra cho Koenig, nhà toán học nổi tiếng một bài toán như sau: “Trong số các lỗ hình lục lăng có đáy hình chóp, được tạo thành bởi ba hình thoi cân và đồng dạng, hãy xác định lỗ nào có thể làm với lượng vật liệu ít nhất”. Koenig đã tìm ra: đó là hình có đáy được tạo thành bởi ba hình thoi mà mỗi một góc tù của nó có số đo là 109 độ 26 phút, còn mỗi một góc nhọn là 70 độ 34 phút. Maraldi, một nhà bác học khác, đã đo được chính xác hơn các góc của hình thoi được ong dựng lên: góc tù là 109 độ 28 phút, còn góc nhọn là 70 độ 32 phút. Tức là là giữa hai lời giải có sự khác nhau chỉ là 2 phút. Có lẽ, nếu có sai số, thì đó là sai số của Maraldi hơn là sai số của loài ong, vì không có một dụng cụ nào cho phép đo chính xác tuyệt đối các góc của những lỗ tổ không lộ ra thật rõ nét đủ các góc cạnh.
10. Cramer, một nhà toán học khác cũng được đề nghị giải bài toán này, đã đưa ra lời giải còn gần đúng hơn với lời giải của loài ong - đó là 109 độ cho các góc tù và 70 độ 31 phút cho các góc nhọn. Maclaunri khi sửa lại cho Koenig, đưa ra con số 70 độ 32 phút và 109 độ 28 phút; Leon Lahanne - 109 độ 28 phút 16 giây và 70 độ 31 phút 44 giây.
11. Về vấn đề vẫn còn tranh luận này, ta có thể tham khảo các tác giả Maclaunn với cuốn Philos, Trans of London 1743; Brougham với cuốn Rech.anal.et exper, sur lies ab; L.Lahane với cuốn Note sur l. Arch.des abeilles, Note sur l. Arch.des abecilles, v.v↩︎
12. Xem thèm «Nature» 29/9/1886.↩︎
13. Có một số người nuôi ong khẳng định rằng, khi mới nở các con ong thợ và ong chúa nhận thứ thức ăn giống nhau, một loại sữa giàu đạm tiêt ra từ những tuyến đặc biệt nằm trên đầu của những con ong-nhũ mẫu.↩︎
14. Ngày nay người ta đã thống nhất một cách rộng rãi rằng, sau vài ngày các ấu trùng ong thợ cai sữa, chuyển sang chế độ ăn kém hơn với mật và phấn hoa; trong khi đó ong chúa non vẫn được nuôi ăn một cách dư dả bằng thứ sữa quý báu, còn được gọi là “món thạch hoàng gia”, cho đến lúc phát triển hoàn chỉnh.↩︎
15. Trong suốt mùa Đông kéo dài gần sáu tháng ở vùng của chúng tôi (từ tháng Mười đến đầu tháng Tư), một tổ ong tốt thường dùng từ hai mươi đến ba mươi lít mật.↩︎
16. Duới đây là vị trí của loài ong nhà trong bảng phân loại khoa học Lớp: Côn trùng
Bộ: Cánh màng Họ: Apidae Chi: Apis
Loài: Mellifica (ong mật)
Thuật ngữ Mellifica thuộc bản phân loại của Cari von Linné. Không thể nói nó là một thuật ngữ thành công nhất, vì cả họ Apidae, trừ một số loài kí sinh, còn lại đều là ong mật. Scopoli dùng từ Cerifica, Reaumur dùng từ domestica, Geoffroy dùng từ gregaria. Con ong Ý Apis ligustica hoàn toàn chỉ là biến thể của Meilica.↩︎
17. Đây là hiện tượng thường thấy trong những tổ ong thứ hai và thứ ba, chúng có ít kinh nghiệm hơn và ít cẩn thận hơn những tổ đầu tiên. Đứng đầu tổ ong như thế [tổ thứ hai và thứ ba] là một con ong chúa- trinh nguyên. Trong tổ ong này cơ bản là những con ong non trẻ, mà bản năng bẩm sinh của chúng đóng vai trò chủ yếu, do chưa quen với nhưng sự thất thường của khí hậu phương Bắc khắc nghiệt của chúng ta. Vả lại, không một tổ ong nào trong số đó có thể đứng vững chống lại thời tiết xấu của mùa Thu, và chúng đến lượt mình, trở thành vật hi sinh trong những thí nghiệm kéo dài và u ám của tự nhiên.↩︎
18. Vì rằng chúng ta sẽ lần cuối cùng đề cập đến vấn đề về các công việc xây dựng của loài ong, nên chúng ra sẽ chỉ ra đôi chút một đặc điểm lạ lùng của Apis Florea: những bức vách của một số lỗ tổ cho các con đực có hình trụ, thay cho hình lục lăng thông thường. Điều này khiến chúng ta nghĩ rằng, ong vẫn còn lưỡng lự trong việc lựa chọn hình dạng và hiện chưa có quyết định dứt khoát xem hình dạng nào được ưa thích hơn.↩︎
19. Hiện tượng tương tự đã được Buchner ghi nhận. Ông chứng minh rằng, sự thích nghi với các hoàn cảnh được thực hiện không phải là hàng thế kỉ, không phải theo một cách vô thức và tiền định sẵn, mà hoàn toàn có lí tính và phụ thuộc trực tiếp vào các hoàn cảnh. Ở Barbados, nơi có rất nhiều nhà máy đường và vì thế có rất nhiều đường trong suốt cả năm, những con ong hoàn toàn ngừng ghé thầm những bông hoa.↩︎
20. Điều quan trọng là không nên lẫn lộn ba thuật ngữ này: Apiens, Apidae và Apitae, những loài mà chúng tôi sẽ lần lượt sử dụng; chúng tôi mượn chúng từ bản phân loại của Emil Blanchare. Chủng Apiens bao gồm tất cả các họ ong. Apidae là một họ trong số này và được chìa thành ba nhóm: Meliponae, Apitae và Bombiti. Sau cùng là Apừae gồm có các loài khác nhau của giống ong nhà của chúng ta.↩︎
21. Các ví dụ: Psithypi là những con kí sinh của ong đất, Stelidae là những con kí sinh nhờ vào Anthidia. “Buộc phải giả định rằng - Perez nói hết sức chính xác - về tính đồng nhất tái diễn của con sống kí sinh và con mồi hi sinh của nó, thì cá hai loại chỉ là hai biến thể của cùng một hình thái và chúng liên quan với nhau bởi sự giống nhau như một. Đối với những nhà tự nhiên học theo học thuyết biến hóa luận sự giống nhau này không chỉ là ý niệm, mà còn là thực tế. Con kí sinh chỉ là một nhánh của dòng giống lao động do lối sống ăn bám nên đã mất đi những công cụ lao động”.↩︎
22. Vẫn còn một điều chưa rõ: ở Meliponitae có sự thống nhất về vương quyền hay mẫu quyền hay không. Bianchare nhận xét vô cùng xác đáng rằng, do hoàn toàn không có ngòi chúng không có khả năng giết hại lẫn nhau một cách dễ dàng như con ong chúa, vì thế có thể cho rằng, trong cùng một tổ có một số con ong mẹ. Vả lại, hiện tượng này cho đến nay vẫn chưa thể chứng thực được: thứ nhất là, bởi sự quá giống nhau giữa những con ong mẹ và những con ong thợ; hai là, Meliponitae hoàn toàn không có khả năng thích nghi với khí hậu của các nước của chúng ta.↩︎