Phần VII Sự tiến hóa của giống loài-I
Chúng ta đã tạm biệt với tổ ong đờ đẫn trong cảnh tượng im lìm của mùa Đông, nhưng trước khi giã từ cuốn sách, tôi muốn bác bỏ một sự phản đối được không ít người, mà trước mắt họ cấu trúc nhà nước kì lạ và kĩ nghệ của loài ong đã được trình bày rõ ràng. “Vâng - họ thầm lẩm bẩm - mọi hiện tượng ấy thật kì lạ, nhưng chúng bất động một cách đáng sợ. Đã suốt hàng ngàn năm rồi đấy, kể từ khi loài ong sống và được chỉ dẫn bằng những quy luật tuyệt vời, song bất chấp nhiều thế kỉ đã trôi qua, các quy luật ấy thảy vẫn thế. Trong suốt hàng ngàn năm loài ong xây các tầng tổ đáng ngạc nhiên của mình, mà chẳng có gì được bổ sung hay lược bỏ và sự hoàn hảo của khoa học ở nhà hóa học, hình học, kiến trúc sư và công trình sư hội tụ ở trong đó vẫn chỉ đến vậy mà thôi, vả lại những cái tầng tổ ấy hoàn toàn giống như những hình vẽ trên các phiến đá và giấy cói của người Ai Cập được tìm thấy trong những chiếc quan quách bằng đá ấy mà. Hãy chỉ cho chúng tôi thấy dẫu chỉ một sự thật chứng minh cho một sự tiến bộ nhỏ nhất trong đời sống của loài ong: hãy giới thiệu với chúng tôi dẫu chỉ một điều mới mẻ hay dẫn ra một ví dụ về một sự thay đổi vô cùng nhỏ do chúng thực hiện trong cái tập tính thủ cựu bao đời nay của chúng - khi đó chúng tôi sẽ đồng ý và chấp nhận loài ong không chỉ có trí tuệ tuyệt vời, mà còn là một trí tuệ, hoàn toàn có sở cứ để nói, tiến gần tới trí tuệ của con người; khi ấy chúng tôi sẽ hi vọng rằng, cái đang chờ đợi chúng là một số phận vượt trội hơn rất nhiều cái số phận đã được tiền định của thứ vật chất vô thức và lệ thuộc”. Không chỉ những người phàm tục mới suy nghĩ như thế đâu; có những nhà côn trùng học danh giá, như Kirby và Spence, cũng sử dụng cái phương pháp suy lí đó để phủ nhận bất kể một trí lực nào ở loài ong; họ thừa nhận là chúng chỉ có cái đặc tính bị giam hãm vào những khuôn khổ hạn hẹp của lí trí, tuy có đấng ngạc nhiên đấy, nhưng dẫu sao vẫn cứ bất động. “Nếu các vị cho chúng tôi thấy dù chỉ một trường hợp thôi, do áp lực của hoàn cảnh loài ong nảy ra trong đầu ý nghĩ thay thế, chẳng hạn như, sáp và keo ong bằng đất sét hay vôi, thì khi đó chúng tôi sẽ nhất trí rằng, chúng có khả năng tư duy”.
Phương pháp suy lí này được Romanes gọi là “câu hỏi khất đề” («the question begging argument») và còn có thể gọi là “lí lẽ bất thỏa” - nó rất nguy hại và được áp dụng cho con người - có thể dẫn chúng ta đi quá xa. Khi nghiên cứu nó đến nơi đến chốn, chúng ta sẽ thấy rằng, nó xuất phát từ cái “mục đích thuần lí lành mạnh” thường dẫn tới tai họa lớn, và bằng cách dựa vào nó người ta đã phản bác Galilée: ” Trái đất không quay, bởi chúng ta thấy mặt trời chuyển động trên bầu trời, nó mọc lên mỗi sáng và chiều chiều lại lặn khuất; chẳng có gì có thể đáng tin hơn cái điều hiển hiện mười mươi”. Mục đích lành mạnh trong sâu tận trí óc của chúng ta hẳn nhiên là điều cần thiết, nhưng chỉ một khi có sự cảnh giác cao độ chỉ đạo nó và nhắc nhở nó đúng lúc về sự không hoàn hảo; nếu thiếu đi cái điều kiện đó, mục đích lành mạnh chỉ là thói thủ cựu của những mặt yếu kém trong trí óc của chúng ta. Tuy nhiên chính loài ong đã đưa ra câu trả lời cho sự phản bác của Kirby và Spence. Sự phản bác này chỉ vừa mới hình thành, thì Andrew Knight, một nhà tự nhiên học khác đã làm mattit từ sáp và nhựa thông để quét cho những cây bị bệnh - ông nhận thấy rằng, đàn ong đã ngừng hẳn việc thu thập keo ong và bắt đầu sử dụng thứ chất chúng hoàn toàn không hề biết; khi nhận thấy thứ chất ấy có rất nhiều ở gần ngôi nhà của chúng, đàn ong đã thử, và sau khi đánh giá tính năng của nó, đã sử dụng nó. Ngoài ra, một nửa nghệ thuật và khoa học của việc nuôi ong là làm sao cung cấp thức ăn cho tinh thần sáng tạo của nó và phát hiện ra khả năng thực hiện những phát minh và sáng chế tương đương với trí lực của nó. Ví dụ như, khi những bông hoa có quá ít phấn, thì để giúp đỡ cho việc nuôi dưỡng ấu trùng và nhộng trần - chúng ngốn một lượng vô cùng lớn phấn hoa - người nuôi ong rải bột ở gần tổ ong. Và chính trong trạng thái nguyên thủy của mình, trong những cánh rừng bạt ngàn thân thuộc của mình hay trên những thung lũng của châu Á, nơi, hoàn toàn có thể, lần đầu tiên chúng chào đời, vào kỉ Đệ tam của trái đất của chúng ta, loài ong còn chưa được thấy thứ chất này. Thế nhưng, nếu có thể “nuôi được” một vài con ong, sau khi buộc chúng đậu xuống lớp bột được rắc ra, thì chúng bắt đầu dò dẫm và thử; khi đã tin chắc rằng tính chất của bột gần giống với tính chất của phấn hoa, chúng trở về tổ và thông báo về phát hiện của mình. Cả bầy ong thu phấn liền nhanh chóng bay tới nguồn thức ăn dự trữ bất ngờ và không thể hiểu nổi, mà trong hồi ức được di truyền của chúng, nó chắc chắn phải là thứ gắn liền với đài hoa trong suốt bao đời nay đã thết đãi các vị khách của mình bữa ăn thịnh soạn và sang trọng.
IIChưa qua 100 năm kể từ khi các công trình của Huber mở đầu cho hoạt động nghiên cứu nghiêm túc đời sống của loài ong và phát hiện ra những sự thật quan trọng đầu tiên đem lại khả năng thành công trong việc nghiên cứu những sinh vật này, và qua năm mươi năm có lẻ thôi kể từ khi, nhờ việc sáng chế ra những bộ khung di động của Dzierzon và Langstroth, mà nghề nuôi ong trong thực tế và có tính hợp lí mới trở thành một việc có thể, tổ ong không còn là một tòa tháp không thể thâm nhập, nơi mọi điều diễn ra ở đó còn là điều bí ẩn với chúng ta và là nơi chúng ta có thể thâm nhập chỉ sau khi cái chết để lại dấu tích cho nó. Cuối cùng, chưa đầy năm mươi năm từ khi việc hoàn thiện kính hiển vi và phòng thí nghiệm của nhà côn trùng học đã đem lại khả năng khám phá ra cấu trúc của các cơ quan của ong thợ, ong chúa và ong đực, mà cho đến lúc đó vẫn còn là điều bí ẩn với tất cả mọi người. Sau sự kiện này, sự hiểu biết của chúng ta cũng như kinh nghiệm của chúng ta vẫn không hề thỏa mãn, thì đó có là một điều đáng ngạc nhiên hay không? Sự sống của loài ong tính đến hàng ngàn năm rồi, trong khi đó những nghiên cứu của chúng ta về chúng chưa được quá năm mươi-sáu mươi năm. Ngay cả khi chúng ta chứng minh được rằng, trong tổ ong không hề có một sự thay đổi nào kể từ khi chúng ta đi sâu tìm hiểu nó, thì dù sao đi nữa liệu chúng ta có thể hoàn toàn có cơ sở rút ra kết luận rằng, trước đó trong tổ ong cũng chẳng có một sự thay đổi gì hay không? Phải chăng chúng ta không biết rằng, trong sự tiến hóa của một loài, một thế kỉ có ý nghĩa vô cùng nhỏ, như một giọt mưa trong một dòng sông, và với sự sống của một thứ vật chất vạn năng hàng ngàn nàm vụt trôi nhanh, như vài năm với lịch sử của một dân tộc.
IIITuy nhiên không có căn cứ gì để phỏng đoán rằng, chẳng hề có gì thay đổi trong tập tính và lối sống của loài ong; trái lại, nếu xem xét chúng một cách không có định kiến và không ra khỏi phạm vi hẹp đã được thí nghiệm của chúng ta làm sáng tỏ, chúng ta sẽ thấy rất nhiều sự thay đổi rõ rệt. Còn biết bao nhiêu những thay đổi như thế đã vuột khỏi tầm nhìn của chúng ta! Nếu như có một sinh vật cao hơn chúng ta gần một trăm năm mươi lần và nặng hơn chúng ta bảy ngàn lần (đây là sự tương quan giữa chiều cao và cân nặng của chúng ta với chiều cao và cân nặng của một con ong mật) không hiểu ngôn ngữ của chúng ta và được ban những cảm xúc hoàn toàn khác biệt với các cảm xúc của chúng ta, có ý định tiến hành quan sát chúng ta, thì có lẽ, nó sẽ tạo ra cho mình những quan niệm về rất nhiều sự thay đổi thú vị mang tính vật chất có chỗ đứng trong hai phần ba thế kỉ gần đây của chúng ta, nhưng chẳng thể nào hiểu rõ được sự tiến hóa về luân lí, xã hội, tôn giáo, chính trị và kinh tế của chúng ta. Có một giả thiết khả dĩ nhất trong số tất cả các giả thiết có tính khoa học khiến chúng ta có thể đặt con ong nhà của chúng ta vào mối liên hệ với họ Apiens rất lớn, mà hoàn toàn có thể, tổ tiên của ong nhà có nguồn gốc từ đó và họ ong này bao gồm tất cả các loài ong hoang dã.14
Vậy là chúng ta sẽ làm quen với những thay đổi về sinh lí, xã hội, kinh tế, kĩ nghệ và kiến trúc ở mức độ lớn hơn hơn cả sự tiến hóa của loài người; nhưng chúng ta tạm thời sẽ chỉ giữ lại con ong nhà của chúng ta trong ý nghĩa chặt chẽ về từ ngữ. Trong số chúng người ta tính có tới mười sáu loài khá rõ nét về hình dáng. Thực chất là, chúng ta có nói đến ong Ấn Độ (Apis Dorsata), loài to nhất trong tất cả các loài ong mà chúng ta biết, hay về Apis Florea, nhỏ nhất trong số chúng, thì đây luôn luôn là cùng một loài côn trùng, nhưng chịu những sự thay đổi nhiều hay ít, tùy thuộc vào khí hậu và hoàn cảnh mà chúng sống ở trong đó. Tất cả các loài ong này khác biệt nhau không hơn gì một người Anh khác với một người Tây Ban Nha hay một người Nhật Bản - với một người châu Âu. Khi giới hạn bằng những nhận nhận xét sơ bộ này, chúng ta sẽ chỉ nói về những gì chúng ta có thể nhìn thấy trong lúc này bằng con mắt riêng của mình, không có sự trợ giúp của bất kể một giả thiết nào dù xác đáng đến đâu và giống như thật đến đâu. Chúng ta sẽ không dừng lại ở tất cả các sự việc có thể dẫn tới việc khẳng định suy nghĩ của chúng ta. Trong tất cả các sự việc này chúng ta chỉ tính vắn tắt những sự việc đặc sắc nhất.
IVTrước hết chúng ta sẽ chỉ ra sự thay đổi quan trọng nhất và cơ bản nhất, mà có lẽ con người phải cần đến những nỗ lực tột cùng - đó là việc bảo vệ phần ngoài của một cộng đồng. Loài ong không sống như chúng ta trong các thành phố nằm lộ thiên và chịu mọi sự thất thường của thời tiết. Các thành phố của ong được bảo vệ từ mọi phía bằng một lớp bao phủ kín mít. Tuy nhiên ở trạng thái tự nhiên, dưới bầu trời của nơi nguyên sản xa xôi của chúng lại hoàn toàn khác; vì thế, nếu như loài ong chỉ nghe theo bản năng của mình, thì bây giờ chúng có lẽ đã xây lộ thiên các tầng tổ của mình. Ở Ấn Độ Apis Dorsata không tìm những cây có bộng rỗng va hang động trên các vách đá cho tổ của mình; đàn ong trú ngụ trong cái khe nằm giữa các cành cây; tầng tổ dài ra; ong chúa đẻ trứng, nguồn dự trữ thức ăn tăng lên - tất cả những điều này diễn ra không có một trở ngại nào, không có một sự bảo vệ nào khác, ngoài chính những con ong. Có nhiều trường hợp, khi con ong phương Bắc của chúng ta bị mùa Hè ấm áp đánh lừa và được chỉ đạo chỉ bằng bản năng, cũng bắt đầu xây các tầng tổ của mình giữa khoảng không trống trải dưới bóng của một bụi cây nào đấy.15 Đây, rõ ràng, là một thói quen bẩm sinh, việc sống giữa khoảng không trống trải kéo theo mình những hậu quả chết người với loài ong ở Ấn Độ.
Bao nhiêu sức lực mất đi chỉ để duy trì nhiệt độ cần thiết xung quanh đàn ong đang bận bịu với những công trình bằng sáp và ấp nở thế hệ mai sau; kết quả là Apis Dorsata chẳng bao giờ xây thành công nhiều hơn một tầng tổ, trong khi đó một sự bảo vệ nhỏ nhất cũng đem lại cho nó khả năng xây được ba-bốn tầng tổ và nhiều hơn nữa, và nhờ thế số dân ong của một đàn, cũng như sự phồn thịnh của nó tăng lên. Và thực tế là, chúng ta đã thấy rằng, hiện nay tất cả các loài ong - của những miền đới lạnh, cũng như ôn hòa - chúng đã hầu như bỏ hẳn thói quen này. Rõ ràng là, quy luật chọn lọc tự nhiên đã tán thành tính sáng tạo có chủ ý của loài ong: chỉ những tổ ong nào mạnh mẽ và tiện nghi nhất mới được bảo vệ khỏi mùa Đông khắc nghiệt; điều trước đây còn là hiện tượng đi ngược lại bản năng đã dần dần trở thành tập tính bản năng. Khi từ bỏ ánh nắng rực rỡ và ấm áp, vì sự tối tăm của bộng cây và hang hốc, loài ong, đã hoàn toàn đi theo những lời khuyên bảo của suy nghĩ có tính lí trí, dựa trên những quan sát, kinh nghiệm và lí lẽ. Tóm lại chúng ta có thể nói rằng, việc loài ong sử dụng những chỗ sống ở nơi kín đáo đối với chúng không hề kém quan trọng hơn việc phát minh ra lửa đối với con người.
VNgoài phát minh quan trọng này - một phát minh, tuy cổ xưa và có tính di truyền, nhưng vẫn không kém đi tính sống còn cho đến tận ngày nay - chúng ta còn thấy hàng loạt phát minh kém quan trọng hơn, vô cùng đa dạng chỉ ra rằng, nền kinh tế và thậm chí cấu trúc chính trị của tổ ong không phải là hằng thường, bất biến. Chúng ta vừa nói về sự sáng dạ của loài ong khi chúng thay phấn hoa bằng bột và keo ong bằng xi măng nhân tạo. Chúng ta cũng thấy với một tài nghệ đến như thế chúng mới thu xếp theo sở thích của mình một chỗ ở ngẫu nhiên, đôi khi hoàn toàn không phù hợp với các nhu cầu của chúng, nơi mà hoàn cảnh dồn ép chúng vào đó, và với một sự khéo léo và lanh lẹ đáng kinh ngạc trong việc chúng sử dụng những mẩu vụn của các tầng tổ bằng sáp nhân tạo. Việc những con ong sử dụng thành công sáng chế của con người này, tuy còn chưa được hoàn toàn hoàn hảo, nhưng thật sự vẫn là một điều kì diệu. Chúng dường như mới nửa lời đã hiểu ngay con người. Bạn hãy thử tưởng tượng, rằng từ thuở hồng hoang chúng ta đã có thể xây các thành phố của mình không phải bằng đá, vôi, gạch, mà từ một chất liệu nằm ngay trong chính bản thân chúng ta và đặc biệt khó khăn mới tiết được nó ra, bằng các cơ quan được dành sẵn cho việc này. Bạn cứ thử tưởng tượng rằng, vào một ngày có một người khổng lồ xa lạ đem chuyển chúng ta vào một thành phố kì lạ nào đó. Chúng ta nhận thấy rằng, chất liệu để xây dựng thành phố chính là thứ chất do chính chúng ta tiết ra từ cơ thể mình, nhưng mọi thứ còn lại hiện ra với chúng ta hoàn toàn là một sự hỗn loạn, mà ở trong đó ngay chính logic trở thành cái phi logic, và dường như là thiển cận và sai lệch. Chúng ta có lẽ sẽ vô cùng bối rối trong một hoàn cảnh như thế. Một thành phố được xây theo quy hoạch của chúng ta; chúng ta thấy ở đó mọi thứ quen thuộc, nhưng trong một tình trạng bị co kéo và dồn nén bởi một sức mạnh vô thủy vô chung nào đó đã chặn đứng sự phát triển và cản trở sự tiến bộ của thành phố. Các ngôi nhà cần phải có độ cao năm-sáu mét, lại chỉ mọc thấp lè tè, không quá hai sải tay. Hàng ngàn bức tường được đánh những dấu hiệu nhất loạt chỉ thị chu vi và chất liệu để xây nên chúng. Song vẫn còn cần phải chỉnh sửa những điểm sai lệch nghiêm trọng, san lấp những hố sâu, đưa mọi thứ vào trong một sự kết hợp hài hòa và gia cố những điểm không chắc chắn. Một công việc không ngờ tới, khó khăn và nguy hiểm. Việc khởi công được ấn định là do một trí tuệ tối cao có thể thấy trước phần lớn những mong muốn của chúng ta, nhưng chính vì tính giản đơn của mình, nên chỉ tạo ra mọi thứ ở dạng thô sơ. Lúc này câu chuyện là làm thế nào hiểu rõ được tất cả những gì được trao cho chúng ta, rút ra được ích lợi từ những dự định kém cỏi nhất của vị ân nhân siêu nhiên và xây dựng trong một vài ngày thôi một công trình, mà thông thường phải mất hàng năm trời, từ bỏ những thói quen cố hữu của mình và đảo ngược toàn bộ hệ thống làm việc. Tất nhiên, con người hơi sức đâu mà phải bận tâm để giải quyết những vấn đề được đưa ra và cũng chẳng mất gì bởi sự can thiệp tương tự như thế của vị thần mầu nhiệm vào đời sống của anh ta. Hình ảnh này gần giống với điều đang diễn ra trong tổ ong của thời nay.16
VINhư tôi đã nói, cấu trúc chính trị của tổ ong, rất có thể, cũng chịu sự thay đổi, tuy vấn đề này còn chưa được làm rõ nhất, bởi vô cùng khó kiểm tra điều này. Tôi sẽ không dừng lại ở những sắc thái đa dạng trong sự đối xử của chúng với những con ong chúa, ở quy luật chia tách đàn, mà ở mỗi một đàn lại khác nhau, và rõ ràng là được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác v.v. Nhưng cùng với những vấn đề chưa được hoàn toàn sáng tỏ này, vẫn có những vấn đề khác, chính xác, được xác nhận và thường trực. Chúng chứng tỏ rằng, không phải tất cả các loài ong nhà đã đạt tới mức độ như nhau trong sự phát triển về chính trị; ở một vài loài trong số đó trí tuệ có tính xã hội được phát triển, nếu có thể nói như vậy, nhờ sự dò dẫm và như thể tìm kiếm một giải pháp mới cho vấn đề chính trị. Như ong Syria chẳng hạn, thông thường ấp nở ra gần 120 con ong chúa, và thường xuyên còn nhiều hơn thế, trong khi đó Apis Mellifica của chúng ta ấp nở ra không quá mười-mười hai con. Cheshire đã kể về một tổ ong, hơn nữa, hoàn toàn không phải là một tổ ong cá biệt, trong đó có hai mươi mốt con ong chúa bị giết và chín mươi con sống tự do. Dẫn chứng này được xem như một ví dụ cho sự tiến hóa lạ thường về mặt xã hội, thật thú vị giá như được nghiên cứu sâu hơn về nó. Chúng ta bổ sung thêm rằng, giống ong đảo Síp rất gần với ong Syria trong việc ấp nở những con ong chúa. Liệu đây có phải là sự trở lại, dù rất xa xưa rồi, của việc cai trị từ hình thức quân chủ sang hình thức tập đoàn thống trị, hay từ hình thức đơn giản sang hình thức mẫu quyền phức tạp? Những họ hàng gần gũi của ong Ai Cập và ong Ý, ong Syria và ong Síp, rất có thể, là những giống ong đầu tiên trong số các giống ong được con người nuôi tại nhà.
Cuối cùng, còn có một nghiên cứu nữa chứng minh hết sức rõ ràng cho chúng ta rằng, lối sống của ong và cơ chế phòng xa của tổ ong không phải chỉ là hệ quả của mỗi cái xung năng bẩm sinh, hoạt động một cách máy móc muôn đời và ở khắp mọi nơi; cái trí tuệ chỉ huy nền cộng hòa bé nhỏ biết chú trọng đến những trở ngại mới đón đợi nó trên đường đời, tuân theo chúng hay bắt chúng tuân phục mình, đúng như nó đã biết đấu tranh với những trở ngại cũ. Con ong đen nhỏ bé của chúng ta được đưa sang Australia hay California sẽ hoàn toàn thay đổi các thói quen của mình. Sau hai-ba năm sống ở những miền đất này, khi biết chắc rằng, ở đó mùa Hè không bao giờ chấm dứt, những bông hoa không bao giờ từ chối niềm nở thết đãi chúng, đàn ong chỉ sống với hiện tại và giới hạn việc thu gom mật và phấn hoa đến một lượng cần thiết để dùng trong ngày. Ở đây cái kinh nghiệm mới, dựa vào trí khôn đã chiến thắng những tập tính di truyền, và đàn ong đã không còn dự trữ cho mùa Đông nữa.17 Tính tích cực của ong trong trường hợp này có thể duy trì được bằng cách dần lấy đi nhưng thành quả lao động của chúng.
VIINhững hiện tượng như thế chúng ta có thể tự mình quan sát được. Cần đồng ý rằng, một số hiện tượng trong só đó bằng tính chính xác và độ hiển nhiên của mình có thể lay chuyển ý kiến của những ai cho rằng, ngoại trừ trí tuệ của nhân loại ở thời hiện tại và tương lai của mình, bất kể một trí tuệ nào khác đều bất động và không phát triển. Nhưng nếu chấp nhận tính đúng đắn ở giả thiết của biến hóa luận trong một phút thôi, tầm nhìn của chúng ta sẽ được mở rộng, và ánh sáng cao cả, dẫu còn có vấn đề, sẽ soi rọi xuống số phận riêng của chúng ta. Với một người nghiên cứu chuyên chú thật khó có thể không nhận thấy sự hiện hữu của ý chí trong tự nhiên đang cố gắng nâng tầm một phần nào đó của vật chất tới trạng thái tinh tế hơn, và có thể, là trạng thái tuyệt vời nhất, từng chút một nuôi dưỡng vật chất này bằng một thực thể huyền bí, ban đầu được gọi là sự sống, sau đó được gọi là bản năng, và muộn hơn nữa thì được gọi là trí tuệ. Vì một mục đích nào đó chúng ta không rõ, ý chí này sẽ cố gắng kiện toàn sự sống, tổ chức nó, giảm nhẹ gánh nặng tồn tại cho toàn bộ giới hữu sinh. Chúng ta không thể hoàn toàn tin tưởng để khẳng định điều này; tuy nhiên có vô vàn sự kiện buộc chúng ta phải cho rằng, nếu như có một khả năng nào đấy bắt chúng ta phải tính toán số lượng vật chất biến hóa như thế ngay từ khi khởi nguồn sự sống trên trái đất này, thì chúng ta sẽ thấy rằng, số lượng này không ngừng tăng lên.
Tôi xin nhắc lại: cái suy nghĩ được đã được trình bày không có những căn cứ xác đáng, nhưng nó là cái duy nhất khả dĩ soi rọi ánh sáng vào thế lực đang chỉ đạo đời sống của chúng ta. Nhưng thậm chí như thế đã là quá nhiều đối với thế giới của chúng ta, nơi nghĩa vụ đầu tiên của chúng ta là tin tưởng vào cuộc đời, thậm chí ngay cả khi chúng ta không thể phát hiện được ở trong cuộc đời một sự minh bạch nào khích lệ chúng ta; điều này cần phải tiếp diễn cho đến khi nào điều ngược lại còn chưa được chứng minh.Tôi biết tất cả những điều có thể chống lại lí thuyết của biến hóa luận. Nhiều bằng chứng và lí lẽ xác đáng của nó, nói đúng ra là, chưa hoàn toàn thuyết phục được về tính chân lí của nó. Không bao giờ dứt khoát tin vào những chân lí hiện tại của thời đại là một việc không nên. Có thể, một trăm năm sau có nhiều điểm trong những cuốn sách đương đại với chúng ta thấm đẫm tư tưởng này có vẻ đã quá lỗi thời, cũng như chúng ta cảm thấy đã quá lỗi thời rồi những tác phẩm của các triết gia thế kỉ XVII - những tác phẩm bắt nguồn từ cái suy nghĩ về con người quá đỗi hoàn hảo và không tồn tại trong thực tế, hay những tác phẩm của thế kỉ XVII đã làm giảm bớt tư tưởng về một đấng thần linh thô thiển và tầm thường của truyền thống Công giáo - một truyền thống đã bị xuyên tạc bởi rất nhiều sự hư ảo và dối trá. Thế nhưng do tính bất khả của việc nhận biết chân lí, chúng ta cần chấp nhận giả thuyết, mà từ thời điểm con người xuất hiện trên thế giới này, bất luận trong hoàn cảnh nào, đã thâm nhập một cách đầy quyền năng vào nhận thức của con người.
Có nhiều điều chứng tỏ rằng, nó là giả; nhưng khi người ta tin vào tính xác thực của nó, thì nó là có ích, bởi nó hỗ trợ cho tinh thần thêm vững vàng và khơi gợi cho những nghiên cứu mới. Thoạt nhìn có thể có cảm tưởng rằng, tốt nhất là thay cho mọi giả định khó hiểu này, nên tuyên bố cho khắp bàn dân thiên hạ một sự thật sâu sắc về sự dốt nát vô cùng của chúng ta. Nhưng sự thật này có ích chỉ trong trường hợp, nếu như đã chứng minh được rằng, từ nay về sau chúng ta cũng sẽ chẳng hiểu biết nổi điều gì.
Trước đó chúng ta ở trong một trạng thái trì trệ còn tồi tệ hơn những ảo tưởng lầm lỗi nhất. Chúng ta đã trưởng thành theo cách thức: từ những lầm lẫn, chúng ta có thể đạt tới sự đam mê tột cùng. Rốt cuộc thì những gì chúng ta biết là quá ít, chúng ta phải mang ơn chỉ những giả thuyết luôn luôn ngẫu nhiên, thường xuyên vô lí và phần lớn là những giả thuyết ít thận trọng hơn các giả thuyết hiện nay. Tuy rằng chúng có thiếu cân nhắc, thì dẫu sao chúng cũng vẫn trợ lực cho tinh thần nghiên cứu. Một người lữ hành qua đường tạt vào để nghỉ ngơi và sưởi ấm ở một khách sạn, thì có liên quan gì đến người chủ khách sạn đã già và mù lòa? Nếu anh ta giữ gìn ngọn lửa, thì đó là tất cả những gì người ta đòi hỏi từ anh ta. Và sẽ là niềm hạnh phúc cho chúng ta, nếu chúng ta biết chuyền tiếp đi xa hơn ngọn lửa nghiên cứu không bị lụi tàn, mà còn bùng cháy hơn; không gì có thể hỗ trợ cho sự phát triển của ngọn lửa ấy, như giả thiết của biến hóa luận: nó bắt chúng ta phải rất nghiêm chỉnh và đầy đam mê trong thái độ đối với tất thảy những gì tồn tại trên thế giới này, trong lòng nó, trong thăm thẳm biển sâu, trên mênh mang bầu trời. Chúng ta có thể lấy cái gì đặng thay thế cho nó và đem cái gì ra để đối lập với nó? Có đáng vui mừng hay không việc công nhận sự dốt nát về học thức - cái sự dốt nát hiểu chính mình đấy, nhưng lại thường ù lì, cản trở sự phát triển tính ham hiểu biết của con người, tức là cái phẩm chất còn cần thiết với con người hơn cả chính sự khôn ngoan, hay cản trở giả thuyết về tính kiên định của các giống loài, hoặc cản trở giả thuyết về sự tạo hóa có tính thần thánh thế giới này? Nhưng các giả thuyết này còn ít được chứng minh hơn giả thuyết của chúng ta. Chúng gạt bỏ vĩnh viễn những khía cạnh sống động nhất của vấn đề và làm cho nó trở thành vấn đề không thể giải quyết được, bởi nó cấm ta căn vặn.
VIIIMột sớm mai tháng Tư lộng lẫy. Giữa những luống hồng đang hồi sinh nhờ tác động thần diệu của giọt sương mai và những khóm anh thảo rung rinh trong vòng ôm của những dây hoa cải cảnh trắng, tôi lại thấy những con ong hoang dã, tổ tiên của những con ong đã thuần phục ý chí của chúng ta, và tôi nhớ lại những bài học của một ông lão yêu thích loài ong ở Zélande. Đã nhiều lần ông ấy dẫn tôi đi dạo quanh những vườn hoa rực rỡ muôn màu của mình, được phân chia và chăm sóc theo quan điểm có từ thời Cats, một nhà văn già - một cây bút thi-văn bất tuyệt của Hà Lan. Những khóm cây được tạo hình khi thì giống như những cái nơ, khi thì thành dây trải dài, ở đây thì có hình ngôi sao, ở kia lại thành chuỗi và thành hàng như giàn chân nến - chúng được sắp đặt vòng quanh một bụi sơn trà hay bên cạnh một ô cao trồng một cây ăn quả nào đấy, được cắt tỉa trông như một quả cầu, một kim tự tháp hay một cọc sợi, còn những hàng hộp có hình ổ trục được sơn màu tô điểm chạy dọc theo các khoảnh vườn, để bảo vệ chúng tránh khỏi sự xâm lấn của các loài hoa, trông như một đàn chó chăn cừu. Ở đâu đó tôi đã học được cách nhận biết tên gọi và thói quen của những chú ong cần mẫn tự chủ, mà người châu Âu rất ít quan tâm đến chúng, coi chúng hoặc là những con ruồi bình thường, hoặc là con ong vò vẽ dữ tợn, hoặc là những con bọ cánh cứng ngu ngốc. Trong khi mỗi con trong số đó mang dưới đôi cánh kép, đặc trưng cho nó trong thế giới côn trùng, cả một lĩnh vực về đời sống, các công cụ và ý niệm về số phận, thường là một số phận tuyệt vời, khác biệt với số phận của những sinh vật khác.
Đầu tiên chúng ta sẽ chỉ ra những thành viên gần gũi nhất vời loài ong nhà. Chúng ta sẽ bắt đầu từ những con ong đất chân lông xồm lực lưỡng, luôn là những con ong to lớn và che thân, giống như người nguyên thủy, bằng một cái áo khoác nhà binh, không có kiểu dáng nhất định, có các đường vòng kẻ màu đồng hay màu đỏ. Đây là những con ong bán hoang dã, chúng không có bất cứ một sự thương xót nào đối với những đài hoa, chúng cắn xé rách những cánh hoa, như những con gấu xông vào các ngôi lều treo đầy lụa là, đính đầy châu ngọc của các nàng công chúa Bizantin, chúng thô lỗ sục vào dưới các lớp phủ nhẵn mịn của vành hoa. Kế bên ong đất là ong đục gỗ (Xylocope) vượt xa nó về kích thước - một sinh vật rực rỡ, óng ánh đủ màu xanh đỏ cùng tím hòa trộn. Đây là gã khổng lồ của toàn bộ vương quốc làm mật. Sau ong đục gỗ là tò vò (Chalicodome) rầu rĩ, nhỏ hơn đôi chút. Nó khoác một cái áo choàng đen và xây những căn nhà chắc chắn của mình bằng đất sét và sỏi, chắc như nhà gạch. Tiếp nữa, không theo trật tự, là Dasypodae, Halictae, chúng giống ong vò vẽ, Andrenidae, thường trở thành nạn nhân của Stylops, một kẻ ăn bám kì quái, thay đổi đến mức không thể nào nhận ra được loại con mồi bị nó chọn. Panurgae - chẳng khác gì những chú lùn - lúc nào cũng ì ạch mang nặng phấn hoa, Osmi, rất khác biệt do có hình dáng đủ kiểu và biết hàng trăm nghề. Một trong số chúng là ong tường anh túc (Osmia Papaveris) không chỉ giới hạn ở việc thu gom từ những bông hoa đồ ăn thức uống cần thiết cho nó, mà còn cắt từ những cánh hoa anh túc các mảnh lớn, màu đỏ, được dùng để trải cho những căn phòng tráng lệ của các cô con gái của mình. Chúng ta còn nhắc đến một con ong hiền dịu nhất trong tất cả các giống loài ong - đây là một hạt phấn hoa bay lượn trong không trung nhờ vào bốn cái cánh đập nhanh như điện. Nó có tên gọi là Maganchile centienculaire. Nó cắt từ những cánh hoa hồng các miếng hình bán nguyệt rất chuẩn xác, nghệ thuật đến mức, ta có thể nghĩ chúng được cắt bằng dao cắt chuyên dụng, và làm thành vô số chiếc hộp nhỏ giống như những cái đê khâu xinh xắn, có cùng một kích cỡ; mỗi một chiếc là một cái nôi cho đứa con nhỏ của nó. Cả một tập sách chưa chắc đã đủ để điểm hết những tài năng và tập tính phong phú của loài ong. Cả một bầy ong khát mật quần đảo chao lượn với đủ các mục đích rất khác nhau trên những bông hoa - những người tình bị chôn chân ở một chỗ, đang mong đợi sứ giả của tình yêu trong số những vị khách vãng lai của mình.
IXNgười ta tính được gần bốn ngàn năm trăm các loài ong hoang dã khác nhau. Đương nhiên là trong cuốn sách này chúng ta sẽ không làm được một bản tổng quan chi tiết về chúng. Có thể, trong tương lai sẽ xuất hiện một công trình nghiêm túc, dựa trên những nghiên cứu và thí nghiệm về vấn đề này. Cho đến nay nó vẫn chưa được viết ra, bởi để làm được công việc này đòi hỏi không chỉ một đời người, nhưng một công trình như thế mới có thể làm sáng tỏ được lịch sử tiến hóa của loài ong. Theo những gì tôi biết, việc biên soạn có hệ thống về một lịch sử như thế cho đến nay thậm chí còn chưa được người ta bắt tay vào làm. Mong sao, để một cuốn sách như thế được hoàn thành, bởi nó sẽ phải đề cập đến nhiều vấn đề không kém phần quan trọng hơn vấn đề về đời sống của nhân loại. Còn về phần chúng ta, thì chúng ta còn chưa hoàn toàn khẳng định được gì - bởi chúng ta đang bước vào một lĩnh vực bị bao phủ bởi những định kiến – chúng ta sẽ giới hạn ở việc, theo dõi xu hướng vươn tới một sự tồn tại có trí tuệ, nhằm đạt được một sự phồn thịnh hơn nữa và sung túc hơn nữa ở các con bọ cánh màng này; chúng ta cũng sẽ đề cập sơ qua đến những hiện tượng đặc sắc của loài này - những hiện tượng bộc lộ ra trong suốt cuộc hành trình nhiều thiên niên kỉ trên con đường đi tới sự tiến bộ của những con côn trùng đang được nghiên cứu này. Bộ lạc mà chúng ta đang nói đến, được gọi, như chúng ta đã biết, là Apies18. Những đặc tính cơ bản của nó đã được xác định chính xác và rõ ràng đến mức, không thể không đi đến kết luận rằng, mọi thành viên của nó đều có phả hệ truy nguyên từ cùng một tổ tiên.
Các học trò của Darwin, trong số đó có Hermann Muler, đều coi đại diện toàn quyền đầu tiên của loài ong là con ong hoang dã bé nhỏ sống phổ biến ở khắp mọi nơi trên trái đất và được gọi là Prosopis. Những con Prosopis thật bất hạnh, khi so với những cư dân của các tổ ong, có một địa vị cũng như người nguyên thủy khi so với những cư dân hạnh phúc trong các thành phố của chúng ta. Có thể bạn đã nhiều lần nhìn thấy ở một góc bị bỏ hoang trong khu vườn của mình một con ong nhỏ đang cắm cúi trong những bụi cây, bạn không để tâm đến nó và đâu ngờ rằng bạn đã được diện kiến một vị tổ tiên đáng kính [của loài ong], mà có lẽ, chúng ta phải mang ơn nó về phần lớn hoa thơm trái ngọt của chúng ta (người ta cho rằng, hơn 100.000 loài thực vật khác nhau sẽ chết, nếu như loài ong ngừng ghé thăm chúng), hoặc ai mà biết được, thậm chí không chỉ chúng ta phải mang ơn chúng mà cả nền văn minh của chúng ta nữa, bởi mọi sự vật trong tự nhiên đều gắn kết với nhau qua những mối liên hệ bí ẩn nhất. Nó thật xinh đẹp và hiếu động, - nó sống phổ biến hơn cả là ở Pháp, - nó diện một bộ quần áo đen trang nhã điểm những chấm trắng; nhưng đằng sau vẻ trang nhã này ẩn giấu một sự nghèo khó không thể tin nổi - nó sống bữa no bữa đói! Nó gần như trơ trụi, trong khi đó thì các chị em của nó được chu cấp một bộ lông mềm và ấm. Nó chẳng hề có một công cụ lao động nào. Nó cũng chẳng có một chiếc giỏ nào để đựng phấn hoa, như Apidae, chẳng có lông chân để thay thế, như ở Andrennes, cho những chiếc giỏ, chẳng có cái bàn chải nhỏ ở bụng, như ở Gastrilegidae. Nố phải rất khó khăn để thu bụi phấn từ các đài hoa, chỉ nhờ vào những cái chân mà thôi và nuốt phấn, để mang về cái hốc của mình. Ngoài lưỡi, miệng và những cái chân, nó chẳng có một công cụ nào khác, đã thế lưỡi của nó lại quá ngắn, những cái chân thì quá yếu, bộ hàm cũng không chắc khỏe. Không thể tạo sáp, chẳng gặm đục nổi gỗ, đào đất cũng không thể, nó xây những đường hầm vụng về ở trong phần ruột mềm của những cái rễ cây khô, đặt vào đó một vài cái lỗ tổ được làm một cách thô vụng, cung cấp cho chúng một lượng thức ăn ít ỏi, để dành cho những đứa con, mà nó chẳng bao giờ được nhìn thấy, thế rồi, sau khi hoàn thành một nhiệm vụ đáng thương của mình, mà mục đích của nó thì chính con ong cũng chẳng biết hơn gì chúng ta, nó lánh đến một góc xa xôi nào đấy, để chết trong cô đơn, đúng như khi nó còn sống.
XChúng ta sẽ không dừng lại ở nhiều giống trung gian, mà ở đó chúng ta có thể theo dõi được hiện tượng cái lưỡi ong mọc dài hơn để hút mật tốt hơn ở các vành hoa dài, sự xuất hiện ban đầu và sự phát triển tiếp theo của cái máy thu phấn hoa, theo dõi được sự phát triển của bộ lông, những cái chổi lông và bàn chải ở bắp đùi, ở gót chân, ở bụng của chúng; xong rồi chúng ta có thể thấy những cái cẳng chân và bộ hàm của ong chắc khỏe lên từng chút một, có thể nhận thấy ích lợi của sự chia tách đàn và tin chắc rằng, có một thiên tài đã chỉ huy việc xây tổ, thực hiện các việc hoàn hảo tuyệt vời về mọi mặt. Một công việc như thế chẳng thể gói gọn trong một cuốn sách; tôi muốn dành cho vấn đề này chỉ một chương, thậm chí ít hơn một chương - một trang thôi, nó sẽ cho chúng ta thấy sự xuất hiện, phát triển và củng cố của trí tuệ về mặt xã hội qua những toan tính rụt rè của ý chí sống và sống hạnh phúc hơn trong chừng mực có thể [ở loài ong].
Chúng ta đã thấy Prosopis bất hạnh an phận thủ thường cam chịu cuộc sống cô đơn của mình giữa những thế lực khổng lồ và đầy đe dọa của thế giới. Có nhiều con trong số các chị em của nó thuộc về những bộ lạc được trang bị tốt hơn và thông minh hơn, ví dụ như Collete ăn diện rõ đẹp hay Meganchile, - cô nàng quá đỗi tài hoa, thợ cắt những chiếc lá hoa hồng, cũng sống hoàn toàn cô đơn như thế, và nếu có ai đó cứ lượn lờ bám theo, thì chắc chắn đó hoặc là kẻ thù, hoặc là kẻ kí sinh ăn bám. Thế giới của loài ong có những bóng ma còn quái lạ hơn thế giới của chúng ta nữa cơ; có nhiều giống ong dường như theo đuổi những kẻ song trùng bí ẩn và thụ động, giống như đúc với những con bị làm vật hi sinh do chúng chọn. Chúng khác với những con bị làm vật hi sinh của mình chỉ ở một điểm, do cái tính lười chảy thây từ đời này sang đời khác chúng đã đánh mất đi mọi công cụ lao động và sống chỉ dựa dẫm vào một nửa số thành viên chăm chỉ trong bộ tộc của mình19.
Tuy nhiên trong giống ong được tặng cho một cái tên quá chuẩn xác là Apides solitaires, giống như một ngọn lửa không bùng cháy lên nổi bởi một thứ vật chất trầm trệ, dập tắt ngay sự sống mới chỉ vừa lóe lên le lói, bản năng mang tính xã hội vẫn bùng cháy lên ở đây đó, theo những chiều hướng bất ngờ nhất; bằng những bước đi rụt rè và dò dẫm giống ong này đã vượt qua cái lớp tầng dày đặc trên đường đi của nó. Nếu mọi thứ trên thế giới này hình thành nên từ vật chất, thì làm sao ta không kinh ngạc cho được trước biểu hiện của sự chuyển động phi tính vật chất nhất của vật chất đây. Ở đây chúng ta bàn về việc, làm thế nào để biến một sự tồn tại ích kỉ, ngẫu nhiên và không hoàn chỉnh thành một đời sống hữu ái, bền lâu hơn và hạnh phúc hơn. Bản chất của vấn đề là ở chỗ, làm thế nào hợp nhất được trong tinh thần cái đã thực sự bị tách biệt trong thể xác, làm thế nào để sự tuân phục giống loài của một cá nhân đạt tới mức dám hi sinh thân mình, làm thế nào để thay thế cái thấy được bằng cái không cảm thấy được. Có đáng ngạc nhiên hay không về chuyện loài ong không thể thực hiện được ngay lập tức một việc, mà thậm chí chúng ta cũng không thể giải quyết nổi, xét theo cách nhìn cao siêu, mang tính đặc quyền của mình, một cách nhìn đang phát tán ánh sáng vào mọi ngóc ngách của nhận thức? Không kém thú vị, mà đôi khi thậm chí còn cảm động nữa việc nhận thấy vẻ hồi hộp âu lo của một tư tưởng mới đang dò dẫm vượt qua cảnh tăm tối bao trùm tất cả những gì nảy sinh trên trái đất. Nó hình thành từ vật chất, nó vẫn hoàn toàn mang tính vật chất. Nó chỉ có cái lạnh, cái đói cùng nỗi sợ hãi thay hình đổi dạng còn chưa được tỏ bày. Nó lo lắng tiếp cận với những mối nguy hiểm lớn, những đêm trường, mùa Đông gần tới - những điều tựa như cái chết này.
XIChúng ta đã biết rằng, Xylocopae là những chú ong khỏe mạnh khoan những cái lỗ sâu trên các thân cây khô để xây những cái tổ của mình. Chúng luôn luôn sống một mình. Thêm nữa, tới cuối mùa Hè đôi khi ta bắt gặp một vài cá thể của giống Xylocopae Cyanscens tập hợp lại thành nhóm trên những cành lan nhật quang, để cùng nhau trải qua mùa Đông. Tình cộng đồng này là một trường hợp ngoại lệ ở Xylocopae, nhưng ở Ceratinae, những người họ hàng rất gần gũi của chúng nó đã trở thành thói quen. Đó là điểm khởi đầu của ý tưởng chung sống. Nhưng ở Xylocopadae ý tưởng này không được phát triển tiếp và không vượt qua được cái ranh giới đầu tiên mơ hồ của tình yêu.
Ở các giống Apies khác ý tưởng đang mò mẫm luồn lách này có những hình thức khác. Chalicodomae, loài tò vò sống dưới những mái nhà kho, đào cho mình những cái lỗ ở dưới đất. Dasypodae và Halictae tập hợp nhau lại thành một bầy đông đúc để xây tổ. Tuy nhiên sự thống nhất này là viển vông thôi, bởi những bầy ong này bao gồm các cá thể đơn lẻ, chẳng có một điểm gì chung với nhau, chẳng có một mối gắn kết nào. Mỗi một cá thể của bẩy ong ấy ở trong sự cô đơn đáng sợ: nó xây nơi ở của mình mà không có bất cứ một sự trợ giúp nào và chẳng quan tâm đến công việc của hàng xóm. “Hiện tượng này, - Perez nói, - chẳng hơn gì một sự liên kết đơn giản của những cá nhân có cùng những sở thích giống nhau và những năng lực như nhau; cái khẩu hiệu “mỗi người vì mình” ngự trị ở đây với toàn bộ sức mạnh của mình; hoạt động sôi nổi của chúng giống như một đàn ong có số thành viên cực kì đông đảo và hăng hái tham gia vào đó. Những tập hợp như thế là kết quả duy nhất của sự tụ tập đông đúc của các cá thể giống nhau, ở cùng một địa điểm”.
Nhưng ở Panurgi, những người chị em họ của Dasypodae, đã le lói một tia sáng yếu ớt làm lộ ra sự xuất hiện một tình cảm mới. Chúng liên kết với nhau, như các đời trước đó, trong một cộng đồng, và dẫu mỗi một con tự lực đào lỗ tổ của mình, nhưng lối vào và đường hầm dẫn từ mặt đất đến từng căn buồng riêng đã là của chung. “Vậy là, - Perez nói, - trong lúc xây phòng mỗi một con ong hành động như thể nó đơn độc, nhưng đường hầm đã trở thành sở hữu chung. Tất cả sử dụng nó và nhờ thế chúng tránh khỏi việc mất quá nhiều sức lực và thời gian cần có để xây cho mỗi phòng một đường hầm riêng. Công việc đang tiếp diễn này có được tiến hành cùng nhau hay không và ở đây có sự đổi ca, để các chú ong có thể lần lượt làm việc hay không? Sẽ thật tuyệt vời nếu điều này được khẳng định”.
Chuyện ở đó dù có thế nào đi chăng nữa, thì ở đây tư tưởng hữu ái đã vượt qua cái trở ngại chia đôi thế giới. Ở nơi đây không phải cái lạnh, cái đói, và sự sợ chết đã tạo ra một cú huých cho bản năng mù lòa và không nhận thức được bản thân mình, mà là sự khơi gợi về một cuộc sống rộng mở hơn. Dẫu lần này sự phát triển của tư tưởng ấy đã dừng lại và không bước tiếp xa hơn nữa, nhưng sự không may ở đây là gì? Tư tưởng này không vì thế mà bối rối và đi tìm kiếm những con đường khác. Khi nó đến với những con ong đất, thì tại đây nó đã chín muồi, tiếp nhận các hình thức khác và tạo ra những điều kì diệu đầu tiên quan trọng nhất của mình.
XIIOng đất là một loài ong rất to, thân phủ một lớp lông mềm, kêu vo vo suốt ngày, bộ dạng thật đáng sợ, nhưng thực ra lại là những con ong hiền lành - trước hết chúng là những con ong sống cô đơn. Từ những ngày đầu tiên của tháng Ba, trải qua mọi nỗi gian khó của mùa Đông ong đất cái mang thai bắt tay vào việc xây tổ ở dưới đất hay trên các bụi cây theo tập tính của giống ong mà nó thuộc về. Mỗi độ Xuân về nó lại phải chịu cảnh sống cô đơn. Nó làm phẳng, đào, rồi trang trí cho nơi được nó chọn để xây tổ; sau đó nó xây những lỗ tổ không có hình thù nhất định, đổ đầy mật của nó và phấn hoa vào đó, đẻ trứng, chăm nom những con ấu trùng, và không bao lâu sau quanh nó đã có cả một gia đình toàn các cô con gái, chuyên giúp đỡ nó trong mọi việc từ trong nhà ra ngoài sân. Một số con ong đất non, đến lượt mình, bắt đầu đẻ trứng. Cuộc sống sung túc lên, công việc xây dựng được cải thiện, và đàn trở nên đông hơn. Linh hồn và cái chủ chốt, “bà mẹ của cả đàn” vẫn là con ong sáng lập; nó đứng đầu vương quốc, có phần nào giống với vương quốc của loài ong mật bình thường. Tuy nhiên, sự giống nhau này khá thô: sự sung túc ở ong đất luôn hạn chế; những luật lệ được đặt ra một cách tồi tệ sẽ ít được tuân thủ; đôi khi xảy ra những chuyện rủi ro: sự man rợ của thời nguyên thủy và giết hại con trẻ; kiến trúc thì xấu tệ và không có tính thực tiễn; nhưng sự khác biệt lớn hơn cả giữa hai thế giới này là, một đằng thì liên tục, một đằng lại tạm thời. Thực tế là, ngôi nhà của những con ong đất sụp đổ hoàn toàn về mùa Thu, ba-bốn trăm con sống trong ngôi nhà ấy sẽ chết, mà không để lại một dấu tích nào, và mọi sự nỗ lực của chúng tan biến. Trong số tất cả các cư dân ở đó chì có một con cái duy nhất còn sống sót đến mùa Xuân tới, trong cảnh cô đơn đến thế và nghèo khổ đến thế, đúng như cái cảnh trong năm ngoái, mà từ đó mẹ nó gây dựng nên; nó sẽ lại bắt đầu đúng cái công việc vô nghĩa đó. Và trong trường hợp này chúng ta chưa thấy rõ được rằng, tư tưởng hữu ái đã nhận ra sức mạnh của mình. Ở những con ong đất tư tưởng này đã không vượt qua được những giới hạn nhất định, nhưng vẫn trung thành với những thói quen của mình, nó, kiên trì trong thuyết luân hồi của mình, vẫn còn xúc động từ thành công mới đây của mình, nó dứt khoát thể hiện mình và lần này gần như đạt tới mức độ lí tưởng ở nhóm Meliponitae.
XIIITổ chức của Meliponitae có nhiều điểm giống với tổ chức của ong nhà thông thường của chúng ta. Ở đây có một con ong chúa, rõ ràng là con duy nhất, những con ong thợ vô sinh và những con đực20. Trong một số phương diện các tiện nghi của chúng còn hoàn hảo hơn. Ví dụ như, những con đực không hoàn toàn sống một cách vô công rồi nghề - chúng chế tạo sáp. Cửa tổ được sắp đặt thuận tiện hơn: vào những đêm lạnh nó được đóng lại bằng cánh cửa nhỏ, còn vào những đêm ấm áp thì bằng một thứ tựa như tấm mành, tuy nhiên, nó vẫn cho luồng không khí mát trong thổi vào tổ.
Bản thân thể chế cộng hòa cũng kém vững mạnh hơn, đời sống xã hội kém sung túc hơn, phúc lợi bị hạn chế hơn, so với những con ong mật của chúng ta, và nếu để chúng sống cùng nhau, thì Meliponitae bắt đầu chết. Tư tưởng hữu ái đã phát triển rất tốt ở cả hai chủng ong này. Và chỉ có một điểm duy nhất là ở Meliponitae nó không tiến xa hơn ở những con ong đất. Tôi đang nói về sự tổ chức về mặt cơ học các hoạt động xã hội, sự tiết kiệm nghiêm ngặt sức lực, nói tóm lại là, về việc xây tổ. Về phương diện này Meliponitae thua kém xa những con ong mật của chúng ta. Để minh họa cho điều này chỉ cần nhớ lại điều tôi đã có dịp đề cập đến ở phần III, chương XVIII, có bổ sung thêm rằng, trong các tổ ong của Apitae của chúng ta tất cả các khoang tổ chỉ phục vụ cho hai mục đích: cho việc nuôi dưỡng thế hệ sau và để bảo quản lượng thức ăn dự trữ. Chúng tồn tại lâu như chính những cái tổ; ở Melipotae các khoang tổ chỉ có một chức năng nhất định và những khoang tổ làm nôi-kén của các con nhộng trần non nhanh chóng bị hủy bỏ khi chúng ra khỏi đó. Chỉ ở loài ong nhà của chúng ta tư tưởng này mới bộc lộ với hình thức hoàn hảo nhất - điều này có thể thấy rõ qua bức phác họa chưa hoàn chỉnh về sự tiến bộ của nó. Sự tiến bộ này có cố định một cách riêng rẽ và bất biến đôi với mỗi chủng loại hay không, và đặc tính liên kết của chúng có phải chỉ là kết quả của trí tưởng tượng của chúng ta hay không? Chỉ cốt sao chúng ta không quên về sự dốt đặc của mình và cố gắng nhìn vào thế giới với đôi mắt mở to; có hàng ngàn thí nghiệm đã được đặt ra, nhưng còn chưa được thực hiện. Ví dụ như, chuyện gì sẽ xảy ra, nếu bắt buộc được Prosopis sống với những con giống mình? Chúng có hủy bỏ hay không sự cô đơn tăm tối của mình, có học được hay không cách thụ hưởng xã hội của những con khác, giống như Dasypodae, và chúng có tham gia hay không vào những công việc chung như Panugri? Và nếu áp đặt Panugri vào những điều kiện bất bình thường - chúng có có chuyển hay không từ cái đường hầm chung sang căn phòng chung? Còn nếu như lấy ra những con ong đất cái được ấp nở và nuôi dưỡng cùng nhau và bắt chúng trú Đông cùng nhau, thì chúng có học được cách hiểu nhau và phân công lao động cùng nhau hay không? Người ta đã thử hay chưa cho những con Meliponitae sáp nhân tạo? Người ta đã mời chào chúng hay chưa nhưng cái vò nhân tạo để đựng mật thay cho những cái hũ méo mó của chúng, và nếu điều này được thực hiện, chúng có chấp nhận hay không các sự vật mới lạ ấy, có biết sử dụng các sự vật ấy và phối hợp các tập quán của mình với việc xây dựng không ngừng của mình hay không? Những câu hỏi, mà chúng ta đang chờ câu trả lời từ các sinh vật vô cùng bé nhỏ, chứa đựng trong mình một ý nghĩa lớn lao của các bí ẩn sâu xa nhất của riêng chúng ta. Chúng ta chưa có được câu trả lời, bởi trải nghiệm của chúng ta, có thể nọi, được để ý đến mới từ ngày hôm qua thôi. Chỉ từ thời Réaumur - tức là khoảng một trăm năm mươi năm - người ta mới bắt đầu nghiên cứu lối sống của một vài giống ong hoang dã; chúng ta nghiên cứu được thêm một số nữa; tuy nhiên, còn lại đến hàng trăm và hàng ngàn giống ong, mà chẳng có ai quan tâm đến chúng, và chẳng một ai để ý đến chúng, có chăng là, ngoại trừ những lữ khách mít đặc tiện thể để mắt đến chúng. Những tập quán của loài ong, mà chúng ta được biết qua các tác phẩm tuyệt vời của tác giả cuốn Hồi kí (Mémoires), chẳng hề thay đổi gì. Được thoa một lớp bụi vàng và lấp lánh sáng, như những tia nắng hé nở nụ cười, những con ong đất no mật vào năm 1730, trong khu vườn của Charenton, chẳng có gì khác với những con ong đất ngày nay về mùa Xuân vo vo kêu trong khu rừng Vincenne cách Charenton không xa. Nhưng thời kì từ Réaumur đến chúng ta chỉ là cái chớp mắt khi so với giai đoạn được chúng ta xem xét, và nếu có xâu chuỗi nhiều đời người lại với nhau, thì chuỗi đời người ấy, so với lịch sử tư duy của tự nhiên, chỉ thoáng qua trong tích tắc.
XIVDù cái tư tưởng, mà chúng ta đã theo dõi, đã có một hình thức hoàn hảo ở những con ong nhà, tuy nhiên, từ đó cũng không thể kết luận rằng, trong tổ ong mọi sự đều miễn chê. Hiển nhiên, cái khoang tổ lục lăng là một kiệt tác trong nghệ thuật của chúng; xét theo mọi cách, nó đã đạt tới một sự hoàn hảo vô cùng, mà tất cả các bậc thiên tài của thế giới chẳng thể tìm thấy một điểm gì đòi hỏi phải thay đổi. Không có một sinh vật đang sống nào, thậm chí con người, biết tạo ra trong môi trường của mình cái mà con ong đã tạo ra trong môi trường của chúng. Và nếu có một ai đó từ một thế giới xa lạ với chúng ta và đề nghị cho thấy trên trái đất của chúng ta một vật thể hiện một cách hoàn hảo nhất tính hợp lí, thì chúng ta chỉ cần cho anh ta thấy một mẩu nhỏ của một tầng mật bình thường.
Thế nhưng không phải mọi sự ở loài ong đều ở mức hoàn hảo, như các tầng tổ. Chúng ta đã nhận thấy một số khuyết điểm và thiếu sót; đôi khi chúng lộ rõ, và đôi khi chúng bí ẩn. Chúng ta chỉ cần lấy số lượng ong đực quá thừa và sự vô công rồi nghề tai hại của chúng là đủ; tiếp nữa là sự trinh sản, nhưng mối nguy hiểm của chuyến bay hôn phối, việc tách đàn quá đáng, sự thiếu vắng tình thương và việc, gần như đã đạt tới độ quái đản, đem một cá nhân ra làm vật hi sinh cho cái toàn thể. Chúng ta nên bổ sung thêm vào đây một thiên hướng lạ lùng nữa của loài ong với việc thu gom vượt quá nhu cầu của chúng, lượng dự trữ phấn hoa không được dùng đến, mau chóng bị hỏng, bị khô và chỉ tốn chỗ; chúng ta hẳn còn nhớ đến thời khuyết ngôi giữa thời gian tách đàn lần đầu với sự mang thai của con ong chúa thứ hai. Những ví dụ như thế có lẽ nhiều vô kể.
Nhưng trong những khuyết điểm ấy, khuyết điểm nghiêm trọng nhất và duy nhất ở các miền đất của chúng ta, dẫn đến kết cục vô cùng nguy hại cho loài ong - đó là việc tách đàn lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, không nên quên rằng, trong suốt cả hàng ngàn năm trời con người đã cản trở sự lựa chọn tự nhiên của ong nhà. Tất cả - từ người nuôi ong ở Ai Cập thời Pharaon cho đến người đang làm đúng công việc đó của người nông dân hiện nay - luôn hành động trái ngược với những mong muốn và lợi ích của loài ong. Những tổ ong chia đàn chỉ một lần thôi, sau khi mùa Hè đến, được coi là những tổ tốt nhất. Nhờ thế tình mẹ của đàn ong được thỏa mãn, việc gìn giữ nguồn gốc, sự đổi mới con ong chúa được đảm bảo. Nhờ thế tương lai của đàn ong đầu tiên, đôi khi quá đông và sớm bay đi được đảm bảo, vì khi ấy phía trước vẫn còn nhiều thời gian cho việc xây cho nó những ngôi nhà vững chắc và cung cấp đủ lượng thức ăn cần thiết cho mùa Thu. Dĩ nhiên, những nguồn gốc tự phát và một số nhánh của chúng sẽ phải trải qua mọi tại họa của những mùa Đông khắc nghiệt, thường tiêu diệt gần như tất cả bầy đàn của các loài côn trùng khác nhau, và như vậy là, quy luật tách đàn một cách hạn chế dần dần tìm được cho mình nền tảng chắc chắn trên các miền đất phương Bắc của chúng ta. Nhưng chính những tổ ong biết lo xa, giàu có và thích nghi với khí hậu này bị con người cướp phá để chiếm giữ các kho báu của chúng. Trong việc thực hành thủ cựu của nghề nuôi ong con người luôn luôn để lại và cho đến tận bây giờ vẫn để lại chỉ toàn những đàn ong từ những cái tổ cạn kiệt, hạng hai, hạng ba, mà nguồn dự trữ của chúng khó lắm mới đủ cho mùa Đông và chính con người phải tự mình bổ sung cho chúng một thứ mật tồi tệ nào đó, để chúng sống được qua mùa Đông. Kết quả của điều này, có thể, là sự suy thoái của chủng loài, mong chia tách đàn quá đáng, phát triển có tính di truyền; giống ong, đặc biệt là giống ong đen, chia tách đàn với một mức độ phổ biến lạ thường. Một vài năm trước đây trong ngành nuôi ong người ta đã bắt đầu đấu tranh bằng cái gọi là “những biện pháp tổng lực” nhằm chống lại cái tập tính nguy hiểm này. Thành công đặc biệt, mà nhờ nó việc chọn lọc nhân tạo đã có ảnh hưởng đến những con vật nhà nuôi như: bò, chó, cừu, bồ câu v. v., cho phép chúng ta nghĩ rằng, qua một khoảng thời gian rất ngắn sẽ xuất hiện một giống ong sẽ gần như hoàn toàn từ bỏ việc tách đàn tự nhiên và hướng toàn bộ sự quan tâm của mình vào việc thu hoạch mật và phấn hoa.
XVSong còn những khuyết điểm khác thì tính sao đây? Tại sao một trí tuệ đã nhận thức được rõ hơn mục đích chung sống, nhưng lại không tự giả