← Quay lại trang sách

Chương 11

Tối hôm ấy, quãng mười giờ, tôi nằm phục trong bụi tử đinh hương um tùm cạnh chỗ rào đổ. Tâm trạng phấn chấn, cảm giác can trường vẫn tràn ngập lòng tôi (tâm trạng ấy còn mãi cho đến tận khi tôi rời Rừng Tùng Đầm Lầy). Tưởng chừng như không phải là thân thể tôi, xương xương và khỏe mạnh mà tôi hằng chăm chút, sẽ có thể làm mồi cho quạ rỉa, mà đó là thân thể của ai đó khác, tôi chẳng việc gì phải đoái hòa. Trong đó tình cảnh nào có vui vẻ gì: cả tôi, cả Rưgôrơ lẫn Xvetilôvich chỉ hoài công húc đầu tứ tung như lũ mèo con chưa mở mắt, chưa làm sao khám phá ra bọn tội phạm. Quang cảnh vị trí tôi phục kích cũng chẳng vui hơn, đêm thì đã khuya.

Trời gần như tối hẳn. Từng đám mây đen nặng trĩu đang đùn lên bầu trời bao phủ trên Bãi thụt, báo hiệu đêm lại mưa tầm tã (mùa thu năm ấy thời tiết xấu, trời u ám, nhưng lại luôn luôn có mưa rào như mùa hè). Gió bắt đầu nổi, những ngọn tùng đen thẫm, nhọn như những kim tự tháp, lúc cất tiếng vi vu, lúc lại lặng đi. Mây đen bay là là, ùn ùn kéo đến bao phủ quang cảnh bằng phẳng, cô tịch. Đâu đó xa tít một ánh lửa lóe lên, nhấp nháy rồi tắt ngấm. Một cảm giác cô đơn bóp nghẹt con tim. Nơi đây tôi là một khách lạ. Xvetilôvich quả xứng đôi với Nađêia Janốpxkaia, còn tôi... tôi chẳng cần cho ai cả.

Tôi nằm đó bao lâu, khó mà nói được. Từng đám mây đen bay đến gần tôi, tan đi, nhưng rồi ở chân trời lại đùn lên đám mới.

Một âm thanh khác lạ vọng đến tai tôi: đâu đó xa xa hình như có tiếng tù và săn rúc lên, và dẫu biết là nó cất lên không phải ở phía con đường đội săn vẫn đi, tôi vẫn bất giác luôn luôn quay nhìn về phía đó. Tôi cũng thấy lo ngại vì trên đầm lầy bắt đầu xuất hiện những mảnh mây mù. Nhưng rồi mọi sự lại chấm dứt. Lát sau, một âm thanh khác vọng đến tai tôi: đâu đó có tiếng lau lách sột soạt. Tôi nhìn về hướng đó, chăm chú đến nhức mắt, và cuối cùng tôi đã phát hiện trên nền tối sẫm của vạt rừng xa những chấm đen đang di động.

Tôi nhắm mắt lại giây lát cho chúng “lui xa đi”, khi mở mắt ra tôi thấy trước mặt tôi, không xa lắm, hiện lên giữa cánh đồng hình bóng lờ mờ của một đoàn kỵ sĩ. Lại cũng như lần trước, họ bay không một tiếng động trong không trung, ngựa nhảy vọt những bước dài. Và hoàn toàn im lặng, như thể tôi bị điếc đặc. Những giáp trụ nhọn đầu, áo choàng cùng tóc tai phấp phới trong gió, những ngọn giáo dài – tất cả khắc sâu vào ký ức tôi. Tôi bò lại gần móng xây gạch của hàng rào. Đội săn dàn đội hình, sau đó túm tụm lại thành một cụm hỗn độn lao nhanh trên cánh đồng, bắt đầu chuyển hướng. Tôi thò tay vào túi rút súng ra.

Lần này họn ít người hơn mọi khi: chỉ có tám kỵ sĩ. Vậy số còn lại đâu rồi, hỡi Quốc vương Xtác? Ngài còn sai phái họ đi những đâu nữa? Tôi đặt súng lên khuỷu cánh tay trái, nổ một phát. Tôi vốn dĩ là một xạ thủ không đến nỗi tồi, thường bắn trúng đích ngay cả trong bóng đêm mù mịt. Vậy mà kỳ lạ chưa: đoàn kỵ sĩ vẫn tiếp tục phóng đi như không có gì xảy ra cả. Ngắm vào kỵ sĩ phi cuối cùng – một người đàn ông cao lớn, chắc nịch, tôi bắn một phát nữa: hắn không mảy may giật mình.

Đội săn dường như cố ý chứng minh với tôi rằng họ là những hồn mà: họ lại chuyển hướng, phơi sườn ra trước họng súng và tiếp tục lao đi, không hề suy chuyển vì mấy phát đạn của tôi. Tôi bắt đầu bò lùi lại bụi rậm, nhưng vừa mới bò đến nơi thì bị ai đó nhảy lên lưng, đè tôi bẹp dí xuống mặt đất. Hơi thở cuối cùng thoát khỏi lồng ngực tôi. Tôi rên lên một tiếng. Ngay tức khắc, tôi hiểu ra rằng mình không thể đọ sức nổi với một người to nặng như vậy.

Hắn cố bẻ tay tôi ra sau lưng, miệng rít lên thì thào:

– Nằm im, đồ quỷ sứ, i-yên nào. Đồ kẻ cướp, mày kh-không thoát tay tao đâu, đồ sát nhân... Mày cứ liệu hồn, quân bỉ ổi...

Tôi biết rằng nếu không vận hết sức bình sinh và sự khéo léo, tôi sẽ chết. Tôic hỉ nhớ: tôi đã lấy làm ân hận khi chợt nghĩ đến đội săn toàn là những hồn ma khiến mấy phát súng của tôi chẳng làm rụng đến cái lông chân của chúng. Một giây sau cảm thấy bàn tay hộ pháp của kẻ bí ẩn cố vươn đến họng mình, tôi vận một miếng võ cổ truyền gạt phắt nó hất ngược lên. Mấy giọt âm ấm nhỏ xuống mặt tôi: thì ra chính tay hắn đã đập vỡ mũi hắn. Chộp lấy tay hắn, tôi bẻ quặt xuống, đè cả người lên và c ùng với hắn lăn đi một vòng. Hắn “ối” to một tiếng. Tôi hiểu ngay là miếng võ thứ hai của tôi cũng đã đạt hiệu quả. Nhưng ngay lập tức tôi nhận được một cú thôi sơn vào giữa sống mũi, khiến trời đất lập tức quay cuồng trước mắt, dựng ngược cả lên. May là tôi bất giác kịp căng các cơ bụng, cho nên cú đấm tiếp theo vào bụng không gây đau đớn gì cho tôi. Hai cánh tay lông lá lại đã gần vươn đến cổ họng tôi thì tôi sực nhớ ra lời khuyên của ông nội về trường hợp đọ sức với địch thủ khỏe hơn. Gắng hết sức bình sinh, tôi lật mình nằm ngửa ra, tì một tay vào cái bụng to nặng, huých cái đầu gối cứng nhọn của mình vào bụng dưới của hắn. Hắn bất giác chúi mũi xuống, đè ngực lên người tôi. Lập tức, tôi thu hết sức dùng đầu gối và hai cánh tay duỗi thẳng nâng bổng hắn lên. Kết quả thật vượt quá cả dự định: hắn lộn ngược đầu, quay nửa vòng trên không và giáng xuống đất toàn bộ cái thân hình nặng nề - ôi chao hắn nặng ghê gớm! Cùng lúc ấy, tôi ngất đi.

... Khi tỉnh lại, tôi nghe có tiếng ai rên trên đầu. Địch thủ của tôi nằm bất động. Tôi gắng gượng hết sức cố đứng dậy. Tôi định cho hắn một cú đá vào phía dưới tim cho hắn chết giấc, nhưng trước héte tôi liếc nhìn về phía đầm lầy, nơi đội săn đã mất hút. Bỗng tôi nghe thấy một giọng rất quen thuộc – giọng từ miệng kẻ đang vừa e hèm vừa rên rỉ:

– Ôi, đồ quỷ sứ, cái đồ ngốc nào ở đâu ra vậy không biết! Quân đê tiện! Ôi chư vị thánh nhân tuẫn tiết.

Tôi bật cười ha hả. Vẫn cái giọng ấy cất lên:

– Té ra là ngài Bêlôrétxki đấy à?! Ta e rằng sau bữa nay chả chắc ta còn có thể sắm vai khách quý của nữ giới. Ô-ôi! Ô-ôi! Cha mẹ anh! Phải chi anh kêu cho một tiếng. Anh bò cạnh rào làm gì vậy?! Làm cho người ta nhầm bét cả. Cái bọn ma quỷ kia, giờ đây chúng tít đâu rồi. Ôn dịch bắt anh đi!... Anh thứ lỗi cho lão...

– Pan Đubôtôpkơ đấy à? – tôi thốt lên, kinh ngạc.

– Cầu cho ôn dịch bắt anh đi, pan Bêlôrétxki ạ. Ô-ôi! Anh thứ lỗi nhé. – Cái bóng đồ sộ ngồi dậy, tay ôm bụng. – Thế mà ta rình mãi. Lo điên lên được. Chả là người ta đồn đại rằng có lắm chuyện kinh người xảy đến với con bé cháu gái ta. Ô-ôi! Ra anh cũng rình chúng à? Cầu cho quỷ sứ bắt tội anh trong ngày Chúa giáng sinh!

Tôi nhặt khẩu súng lên.

– Vậy tại sao ngài lại nhảy bổ vào tôi mà nện như thế, thưa pan Đubôtôpkơ?

– Có mà quỷ sứ biết được! Thấy một thằng cha đang bò như giun đất, ta mới chộp luôn. Ôi lạy chư vị thánh nhân! Cầu cho cha mẹ anh sẽ đón anh tại thế giới bên kia cũng như anh đã đón ta trên đời này. Đồ phải gió, sao đánh đau thế!

Té ra, chửng cần đợi chúng tôi thông báo, ông lão cũng đã dò biết chuyện đội săn hiện về, nên quyết định rình chộp chúng, “nếu như bọn trai trẻ yếu bóng vía đến thế, hèn đến thế, không bênh vực nổi một đứa con gái”. Kết cục cuộc kỳ ngộ của hai chúng tôi ra sao, các bạn đã rõ. Cố nhịn cười để khỏi tỏ ra bất lịch sự, tôi giúp ngài Đubôtôpkơ vừa rên hừ hừ vừa leo lên con ngựa buộc cách đó không xa. Ông ta leo lên ngồi nghiêng trên yên, miệng lẩm bẩm “quỷ xui ma khiến đi đánh nhau với những hồn ma thì lại chạm trán thằng ngốc có hai đầu gối nhọn hoắt”. Đoạn bỏ đi thẳng...

Đubôtôpkơ vừa mất hút thì một nỗi lo âu khó hiểu nhói nơi tim tôi. Ấy là lúc trong tiềm thức đã nhen nhóm một phỏng đoán khủng khiếp nào đó đang sắp sửa nảy sinh khỏi đầu. “Đôi tay” ư? Không, tôi không sao nhớ ra được cớ sao những từ đó lại khiến tôi thắc mắc. Không, đây là chuyện khác kia... À-hả, tại sao số kỵ sĩ lại ít như vậy? Tại sao hôm nay chỉ có tám kỵ sĩ xuất hiện cạnh chỗ rào đổ? Vậy số còn lại đi đâu? Bỗng một ý nghĩ kinh hoàng xuyên thấu óc tôi:

“Xvetilôvich! Cuộc chạm trán của anh với một người trong Hẻm Lạnh. Rồi thì câu nói đùa ngốc nghếch của anh về đội săn mà người ta có thể hiểu theo ý là anh nghi ngờ ai đó hay thậm chí đã khám phá ra những kẻ tham gia vụ ám muội này. Trời! Nếu như kẻ kia quả là một tên tội phạm thì hắn tất phải cố giết bằng được Xvetilôvich ngay đêm nay. Chính vì vậy mà chúng chỉ có một nửa đến đây. Nửa kia hẳn đã đi săn người bạn mới của tôi trong khi bọn này lần mò đến Rừng Tùng Đầm Lầy. Có khi chúng đã nhìn thấy chúng tôi đứng nói chuyện với nhau, bởi vì chúng tôi ngu quá, đứng lồ lộ ở trên bờ cao ngay trước mắt thiên hạ. Trời, nếu như tất cả đúng như vậy thì anh Xvetilôvich ơi, anh đã phạm một sai lầm kinh khủng khi không nói cho chúng tôi biết kẻ đó là ai!

Tôi hiểu rằng cần phải hành động gấp, may ra còn kịp. Sự thành bại của chúng tôi và sinh mệnh một linh hồn niên thiếu nhân hậu phụ thuộc vào tốc độ của đôi chân tôi. Và tôi đã chạy nhanh chưa từng thấy, nhanh hơn cả đêm bị đội săn của Quốc vương Xtác đuổi sau lưng. Tôi lao tắt qua khu vườn, trèo qua rào, chạy đến nhà Xvetilôvich. Tôi không phóng như điên bởi vì biết rằng không đủ sức chạy suốt chặng đường với tốc độ như vậy. Tôi chạy nhịp hàng, ba trăm bước thật nhanh lại năm chục bước chậm hơn. Tôi cứ giữ tốc độ như vậy, mặc dù sau hai cây số đầu tim tôi chỉ rình bật ra khỏi lồng ngực. Sau đó dễ chịu hơn, tôi chạy rồi lại chuyển qua đi chậm gần như một cách máy móc. Tôi chỉ tăng mức chạy lên bốn trăm bước. Những gốc tùng đơn lẻ, mờ ảo trong sương lướt qua. Trong lồng ngực như có lửa đốt, ý thức hầu như tê liệt. Về cuối chặng đường, tôi chỉ còn đếm như một cái máy. Tôi mệt đến nỗi chỉ muốn lăn ra đất hay tăng thêm mỗi bận dăm bước đi thong thả, dễ chịu nữa. Tuy nhiên, tôi đã đấu tranh với bản thân.

Cứ như vậy tôi chạy một mạch đến nhà Xvetilôvich, một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, ở sâu trong một mảnh vườn con xơ xác. Tắt qua những luốn đất trống không, giẫm nát mấy cây bắp cải còn sót lại, tôi xộc lên bậc thềm trang trí bốn cột gỗ, đập thình thình gọi cửa. Ở ô cửa sổ ngoài cùng lóe sáng một ánh đèn thanh bình, rồi một giọng già nua từ cửa sau hỏi vọng ra:

– Quỷ thần nào đưa ai đến đấy?

Đó là giọng ông lão, một “bọ” nhà thờ trước đây, hiện nay đang ở với Xvetilôvich.

– Bác Kônđrát ơi, mở cửa mau. Tôi, Bêlôrétxki đây mà.

– Lạy Chúa tôi! Có chuyện rồi! Làm sao mà ngài phải vội vã đến thế?

Cửa mở. Lão Kônđrát hiện ra mặc áo ngủ dài lê thê, chân đi ủng, tay cầm súng, tay cầm nến.

– Pan có nhà không? – thở hổn hển, tôi hỏi.

– Kh-không mà, - lão đáp, giọng thản nhiên.

– Anh ấy đi đâu?

– Lão làm sao biết được? Pan Xvetilôvich có phải con nít đâu mà hễ đi đâu phải báo.

– Lão đưa tôi vào nhà mau! – tôi quát lên, mất bình tĩnh do vẻ thảnh nhiên lãnh đạm của lão.

– Để làm gì?

– Có thể anh ấy để giấy lại.

Chúng tôi vào phòng Xvetilôvich. Một cái giường của người khổ hạnh, phủ một tấm chăn màu xám, sàn nhà lau nhẵn bóng, đánh véc ni vàng, một tấm thảm trải trên sàn. Trên cái bàn gỗ thông giản dị có vài quyển sách, giấy tờ, vài cây bút lông ngỗng. Một bức chân dung Marat ngồi trong bồn tắm, bị dao găm đâm chết và một chân dung Kalinôpxki, vẽ bút chì, treo trên tường chỗ bàn làm việc. Trên tường đối diện có một bức tranh biếm họa: Muraviôp [32], tay cầm roi ngựa, đang đứng trên đống đầu lâu. Bộ mặt chó bunđốc trông dữ tợn. Katkôp [33] khom lưng liếm đít y.

Tôi lật tung giấy tờ trên bàn, nhưng vì quá xúc động nên chẳng tìm thấy gì ngoài một tờ giấy, nét bút của Xvetilôvich ghi: “Chẳng lẽ lại là anh ta ư?”. Tôi vớ cái bồ con đựng giấy lộn, dốc tuột ra sàn, nhưng ở đó cũng chẳng có gì đáng chú ý, chỉ có một chiếc phong bì bằng giấy thô nháp, trên mặt nét chữ nguệch ngoạc đề: “Gửi Anđruxơ Xvetilôvich”.

– Hôm nay pan có nhận được thư từ gì không? – tôi hỏi lão Kônđrat đang kinh ngạc và bối rối thực sự.

– Có một cái, lão nhặt được dưới khe cửa lúc ở vườn rau về. Tất nhiên lão đưa pan rồi.

– Phong bì này, phải không?

– Lão xem nào... Ừ, đúng rồi, phong bì này.

– Thế thư đâu?

– Thư á? Có mà quỷ biết được, chưa chừng vào lò rồi cũng nên?

Tôi nhảy bổ lại cạnh lò, mở cửa: một luồng hơi không còn nóng lắm phả ra. Ngay cạnh cửa tôi trông thấy hai mẩu thuốc lá và một tờ giấy nhỏ. Tôi vồ lấy: vẫn nét chữ trên phong bì.

– May cho lão là tắt lò sớm đấy, quỷ tha ma bắt lão đi, - tôi rủa.

Khốn nỗi, sự may mắn lại không trọn vẹn. Tờ giấy gấp đôi, mặt gần than đã rám lửa nâu xỉn lại, không đọc ra nét chữ nữa.

“Anđruxơ! Tôi biết anh đang quan tâm đội săn cu Mô... nguy hiểm đ... dọa Nađêia Rômanốpna... Tôi (chỗ này cháy mất một đoạn dài)... ớn. Hôm nay tôi vừa nói chuyện với pan Bêlôrétxki. Anh ta đồng ý... ra huyện lỵ... Đrứctăng là một chứ... trọng. Nhận được thư này, anh đến ngay... anh... chỗ ba cây thông mọc thành cụm. Tôi và Bêlôrétxki sẽ đợi... ân... tiết... đang xây ra trên trái... Anh nhất định đến nhé. Đọc xong thư, đốt ngay vì nó rất nguy hại cho tôi. Các bạn an... Mối nguy hiểm kinh khủng cũng đang đe dọa họ, mà chỉ có anh mới cứu vãn nổi... (lại cháy mất một đoạn dài)... ngay đây.

Người luôn mang điều

tốt lành cho anh, Likôl...”

Sự việc đã rõ ràng: có kẻ nào đó gửi bức thư này để dụ Xvetilôvich ra khỏi nhà. Và anh đã tin. Hẳn là người viết thư là chỗ quen biết đối với anh. Bọn chúng xếp đặt tinh vi xảo quyệt thật. Để anh không đến tôi, chúng bịa ra là đã nói chuyện với tôi, tôi đã ra thị trấn, rồi tôi sẽ đợi anh ở đâu đó “... anh, chỗ ba cây thông mọc thành cụm”, “...anh” là chỗ nào vậy? Hay là “... lạnh” – Hẻm Lạnh? Không thể chậm trễ được nữa.

– Bác Kônđrát này, quanh đây có chỗ nào ba cây thông mọc thành cụm không nhỉ?

– Có mà quỷ biết được, - ông lão suy nghĩ một phút. – Hay là cạnh Bãi thụt Khổng lồ, ở đó quả có ba cây thông to lắm. Đúng cái chỗ người ta bảo là đoàn người ngựa của Quốc vương Xtác thụt cả xuống đầm lầy ấy. Nhưng mà sao cơ?

– Pan Anđrây Xvetilôvich đang nguy lắm. Anh ấy đi đã lâu chưa?

– Chưa đâu ạ, mới độ một tiếng thôi.

Tôi lôi Kônđrát ra thềm, ông lão vừa khóc vừa chỉ đường cho tôi đến ba cây thông. Tôi bảo ông cứ ngồi yên ở nhà rồi chạy đi luôn. Lần này tôi không vừa chạy vừa đi nữa. Tôi chạy như bay, tôi phóng hết sức như thể chủ tâm ngã lăm ra chết dưới ba gốc thông. Vừa chạy tôi vừa vứt bỏ áo khoác, mũ, hộp thuốc lá bằng vàng, tập Đăngtơ bỏ túi mà tôi luôn mang trong mình. Có dễ chạy hơn đôi chút. Tôi sẽ tụt luôn cả ủng ra nếu như không phải dừng lại để cởi tháo. Tôi chạy như điên. Theo tôi nhẩm tính thì tôi sẽ đến ba cây thông chậm hơn bạn tôi khoảng hai chục phút. Sự khủng khiếp, nỗi tuyệt vọng, lòng căm giận truyền thêm sức cho tôi. Một cơn gió đột ngột nổi lên thổi thốc vào lưng. Tôi không khip để ý là mây đen đã bao phủ kín bầu trời, một không khí nặng nề đè nặng lên mặt đất. Tôi vẫn cắm đầu chạy...

Bóng ba cây thông đã hiện ra ở xa, trên ngọn chúng là bóng đêm mù mịt, mây đen kịt, chân trời hắc ám... Tôi lao bừa qua bụi rậm, giẫm đạp chúng dưới chân... Bỗng ở phía trước vang lên một phát súng, kiểu súng ngắn cổ lỗ.

Tôi thét lên một tiếng man rợ. Lập tức, như đáp lại tiếng kêu của tôi, vang lên tiếng vó ngựa rầm rập điên cuồng xé toạc bầu không khí tĩnh mịch.

Nhảy ra cánh đồng, tôi trông thấy mươi bóng kỵ sĩ phóng nước đại rẽ ngoặt vào bụi rậm. Dưới gốc thông, tôi thấy một bóng người đang khuỵu dần xuống.

Khi tôi chạy đến nơi thì người đó đã ngã sóng xoài trên mặt đất, hai tay dang rộng như muốn che đạn cho mảnh đất thân yêu. Tôi kịp nổ liền mấy phát về phía bọn sát nhân và thấy hình như một tên đổ nghiêng trên mình ngựa. Nhưng rồi một nỗi đau đớn khôn tường khiến tôi khuỵu gối xuống cạnh hình người xõng xoài trên mặt đất.

– Bạn ơi! Em ơi! Em!

Anh nằm đó, như vẫn sống, chỉ có một vết thương nhỏ, hầu như không chảy máu, báo cho tôi biết sự thật tàn nhẫn, khôn phương cứu chữa.

Viên đạn xuyên thủng thái dương, phá ra đằng gáy. Tôi nhìn anh trân trân, xót thương một cuộc đời tươi trẻ bị sát hại tàn nhẫn. Tôi bấu véo người anh, lay gọi, rên rỉ như một con sói mẹ, như thể còn cứu vãn được.

Lát sau tôi ngồi dậy, đặt đầu anh lên đùi mình và vuốt ve mái tóc.

– Anđruxơ! Anđruxơ! Tỉnh lại đi! Tỉnh lại đi! Bạn!

Đã chết rồi mà anh vẫn đẹp kỳ lạ. Mặt ngửa ra, đầu rũ rượi, cái cổ thanh tú như tạc bằng cẩm thạch nằm trên đầu gối tôi. Những món tóc sáng dài mượt vương mấy chiếc lá khô vàng. Miệng mỉm cười dường như cái chết đã đem lại cho anh câu giải đáp cho sự sống, đôi mắt nhắm nghiền bình yên, rợp bóng hàng mi dài. Cánh tay khỏe đẹp – đôi cánh tay lẽ ra đáng được phụ nữ nâng lên hôn trong phút giây hạnh phúc, giờ đây buông xuôi dọc thân như đang nghỉ ngơi.

Tôi cứ ngồi mãi đó, như người mẹ đau khổ nâng giấc trên lòng mình đứa con yêu vừa mới chịu nhục hình trên thánh giá. Tôi than khóc, tôi nguyền rủa cả đức chúa quá ư tàn nhẫn đối với nhân dân mình, đối với những người con ưu tú của mình.

– Ôi đức chúa! Đức chúa uy dũng khôn cùng và thông tuệ khôn cùng! Cầu cho Người chết dẫm bởi người đã bội ước, đã phản lại chính nhân dân mình!

Một tiếng nổ rền vang trên đầu tôi rồi lập tức cả một biển nước đổ ập xuống đồng lầy, bãi hoang, xuống khắp miền đất lạc giữa rừng thẳm này. Những ngọn tùng rền rĩ cúi rạp. Mưa xối xuống lưng tôi, xuống mặt đất.

Tôi vẫn ngồi như mất trí, không thấy gì xung quanh. Những lời nói của một con người ưu tú nhất trong mọi người – Những lời tôi vừa được nghe vài tiếng trước đây lại vang lên trong tai tôi.

“Trái tim tôi đang nhức nhối... Họ đi, họ lạc lối, họ chết bởi vì hổ thẹn xiết bao nếu như chỉ đứng dương mắt nhìn... và họ chẳng phục sinh được sau khi bị đóng đinh câu rút... Nhưng anh tưởng chúng giết được hết họ à?... Những tháng năm, những tháng năm dài trước mặt! Một chân trời xa tít, rực rỡ ánh vàng đang chờ đón! Tương lai huy hoàng đang vẫy gọi!... Vầng dương đang lên!”

Tôi rên to một tiếng. Một vầng dương đã khuất sau mây đen, một tương lai huy hoàng vừa bị giết hại, còn đang lạnh dần dưới mưa rơi, hiện đang nằm trên gối tôi đây.

Tôi khóc, lệ hòa nước mưa chảy xuống mặt, xuống miệng. Bàn tay tôi vẫn vuốt hoài mái tóc thiếu niên vàng óng.

– Ôi Tổ quốc tôi! Ôi Người mẹ hiền đau khổ! Hãy khóc nữa đi!

[32] Muraviôp M.N. (1796 – 1866) – bá tước, tướng Nga hoàng, toàn quyền miền Tây bắc Đế quốc Nga, đàn áp tàn bạo cuộc khởi nghĩa 1863 – 1864 ở Ba Lan, Lítva, Bêlôruxia... – (N.D.)

[33] Katkôp M.N. (1818 – 1887) – nhà báo, nhà chính luận, từng tham gia phong trào cách mạng dân chủ trong những năm 30 – 40, sau đó phản bội, trở thành phần tử tối phản động (N.D.)