Chương 16
Ngọn lửa leo lét đâu đó xa thẳm sau mặt kính mờ tối. Mỗi lần ngửng đầu lên, tôi lại bắt gặp ngay cạnh, ngay sau lớp kính, khuôn mặt mình, đôi mắt thâm quầng.
Tôi đang soạn giấy tờ của Bécman. Tôi vẫn có cảm giác là tôi có thể tìm thấy trong đống giấy tờ này đôi điều lý thú. Bécman là con người quá phức tạp nên không thể sống đơn giản như một chú cừu non.
Thế là được sự đồng ý của nữ chủ nhân, tôi lôi trong tủ ra toàn bộ các giấy tờ, chất lên mặt bàn cả sổ sách, thư từ, công văn và ngồi hắt xì hơi liên tục vì lớp bụi phủ dầy trên đống di vật ấy.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý lại quá ít. Tôi vớ được bức thư của bà mẹ Bécman yêu cầu anh ta trợ giúp cho bà và bản nháp thư trả lời của Bécman viết anh ta còn phải nuôi em, giờ đây nó không còn cản trở bà sống theo ý thích riêng, thế là đôi bên đã sòng phẳng với nhau rồi. Lạ thật: đứa em nào nhỉ, giờ nó ở đâu?
Sau đó, tôi bới lục được một cuốn sổ kiểu như nhật ký, trong đó, lẫn với những con số chi thu và những nhận xét khá thông minh về lịch sử Bêlôruxia, tôi đã đọc được những suy luận của Bécman, đại khái như những dòng sau đây:
“Xứ Tây Bắc [34] như một khái niệm chỉ là hư vô. Rất có thể vấn đề là ở chỗ bằng máu nóng và trí não của mình, nó phục vụ ý tưởng toàn vũ trụ, chứ đâu phải chỉ vẻn vẹn năm tỉnh, nó trả giá cho tất cả và nuôi dưỡng trong lòng mình Đấng Cứu thế thứ hai nhằm cứu giúp loài người. Bởi vậy, phận của nó là chịu đau khổ. Tuy nhiên, điều này không can hệ đến những đại diện ưu tú của nó, những con người của sức mạnh, những quý tộc phần hồn”.
– Gớm chưa, một hiệp sĩ của tinh thần, một con người của sức mạnh trong bộ quần áo rách mướp, - tôi lẩm bẩm.
“Mối tình duy nhất của tôi là đứa em trai. Đôi lúc tôi có cảm tưởng mọi người khác chỉ là những bức tranh khôi hài mờ nhạt bắt chước nó. Cần có một người có thể nặn lại cả loài người theo mẫu nó. Con người phải là tạo vật của bóng tối. Có như vậy trong cơ thể con người mới hiện lên rực rỡ tất cả những thú tính tuyệt đẹp mà ta phải gìn giữ và yêu quý. Phải chăng, người thiên tài khác với kẻ nghu độn chẳng qua chỉ ở chiếc lá nho cuối cùng mà con người tự bầy vẽ ra. Anh chàng Bêlôrétxki, với cái tầm thường của anh ta, làm tôi khó chịu, nên, lạy chúa, anh ta nên biến đi sớm sẽ tốt hơn cho chính anh ta”.
Một đoạn ghi chép khác:
“Tiền - ấy là hạt nhân của quyền lực một con người đối với bầy người khác (thực đáng tiếc!). Cần phải tìm ra cách hoạn não tất cả những kẻ không xứng đáng với cuộc sống có ý thức. Và đem lại cho những phần tử ưu tú một hạnh phúc vô hạn, bởi vì những của như “công bằng”, tạo hóa không hề trù liệu. Đối với trường hợp tôi cũng vậy. Tôi cần sự yên ổn mà nơi đây thừa thãi hơn bất kỳ nơi nào khác, và cần tiền để nuôi dưỡng ý tưởng mà vì nó tôi đã ra đời, - ý tưởng về một sự bất bình đẳng tuyệt vời, đặc biệt. Và tôi nghĩ rằng bậc thang đầu tiên có lẽ phải là thắng lợi của tôi đối với cái thể xác tôi khao khát nhưng lại cần phải diệt trừ - tức đối với nữ chủ Rừng Tùng Đầm Lầy. Đằng nào thì cô ta cũng đã bị số phận mù quáng kết án diệt vong rồi. Lời nguyền truyền kiếp đối với cô ta phải linh ứng cùng với sự xuất hiện của đội săn. Nhưng cô ta tỏ ra kiên cường hơn tôi tưởng: cho đến nay vẫn chưa mất trí. Quốc vương Xtác té ra quá yếu, nên tôi có sứ mệnh sửa lại sai lầm của lão. Khốn nỗi, tôi ghen cô ta với tất cả các chàng trai trẻ, đặc biệt với Bêlôrétxki. Hôm qua tôi đã bắn vào hắn, nhưng tôi đã phải đánh bài chuồn. Tôi bắn tồi quá”.
Tờ tiếp theo:
“Có thể, nếu tôi hoàn thành được sứ mệnh của Thượng đế, thực hiện được thiên chức tối cao (đã từng có những trường hợp như vậy xảy ra đối với người trần tục kia mà!) thì cả các thần sẽ rời khỏi nơi đây và tôi sẽ trở thành chủ nhân lâu đài. Tôi thuyết Bêlôrétxki rằng mối nguy hiểm chính là đội săn. Có điều, những ảo ảnh thì nguy hiểm nỗi gì? Làm nên chuyện sẽ là Người Lùn!
... Vàng, vàng! Cần phải xướng lên ngàn vạn bài ngợi ca uy lực của ngươi đối với lòng người. Ngươi là tất cả: cái tã của trẻ thơ, tấm thân đã ngã giá của thiếu nữ, tình bạn, tình yêu và quyền lực, trí tuệ của các thiên tài, thậm chí đến cả cái huyệt tươm tất nữa. Tất cả những thứ đó, ta sẽ đạt tới”.
Tôi vò nát trang giấy, nắm chặt tay đến đau các ngón.
– Quân đê tiện!
Bỗng giữa đống giấy tờ tay tôi sờ phải một tờ giấy da cừu gấp tư. Giở tờ giấy ra, trải trên đầu gối, tôi chỉ còn biết lắc đầu: đó là sơ đồ tòa lâu đài Rừng Tùng Đầm Lầy, sơ đồ từ thế kỷ XVI. Trên bản sơ đồ ấy có vẽ rõ bốn đường truyền thanh ngầm trong tường! Những bốn đường! Nhưng chúng đều được ngụy trang rất kín đáo, tìm được chúng không phải dễ. Một đường dẫn từ các gian hầm dưới tòa lâu đài đến căn phòng cạnh thư viện (hẳn để nghe trộm câu chuyện của tù nhân). Đường thứ hai nối liền thư viện, những phòng cho gia nhân ở tầng dưới, đã bỏ không, và... phòng riêng của Nađêia. Hai đường khác, tôi không lần ra được: Chúng đều dẫn ra hành lang, nơi có phòng tôi, phòng Nađêia, nhưng tiếp đó bị xóa rất kỹ.
Tên vô lại đã tìm thấy bản sơ đồ ở phòng lưu trữ và giấu biệt đi.
Bản sơ đồ còn cho biết vài điều đáng lưu ý khác. Tường phía ngoài của lâu đài có vẽ một ngách đi qua rất hẹp và ba cái cũi gì đó. Lối thoát ra được đánh dấu ở góc ngoặt của hành lang, chỗ một lần tôi đã nạy bóc những tấm ván bịt lối vào căn buồng trống không.
Chưa bao giờ tôi chửi thề tục tĩu như lần này. Lẽ ra tôi đã tránh được biết bao sự rắc rối nếu như chịu khó gõ kĩ những bức tường lát ván. Tuy nhiên, làm việc đó bây giờ vẫn chưa muộn. Tôi vơ vội cây nến, liếc nhìn đồng hồ (đã mười rưỡi tối) và chạy ra hành lang.
Tôi gõ chừng nửa tiếng thì dò đúng chỗ tiếng gõ nghe âm vang như gõ vào đáy thùng. Tôi loay hoay tìm một kẽ hở trên ván để móc vào bóc một mảnh ra nhưng vô ích. Mãi sau tôi mới phát hiện ra những vết xước mờ mờ do một vật gì đó nhọn để lại. Tôi mở con dao díp ra chọc chọc vào vệt khe hở lờ mờ giữa các tấm ván. Lát sau, tôi lách được lưỡi dao vào một chỗ có thể ấn sâu. Tôi ấn mạnh lưỡi dao hơn thì tấm ván két một tiếng và từ từ quay nghiêng, hé ra một khe hẹp. Ngó vào mặt sau tấm ván, chỗ vừa mới chọc dao vào, tôi thấy ở đó nhẵn thín, tức là từ phía trong không thể mở cửa được. Tôi thử xuống sâu hơn, nhưng vừa mới bước được chừng mười lăm bậc thì cánh cửa ở sau lưng bắt đầu rên lên ken két. Tôi đâm bổ trở lên, may sao vừa kịp đệm bàn chân vào ngăn cánh cửa sập lại. Thực ngu ngốc nếu phải ngồi trong cái ổ chuột này với một mẩu nến leo lét mà chờ mong ngày chúa giáng thế một lần nữa.
Vì vậy, tôi nhét chiếc khăn tay vào khe ở trụ cửa, giữ cho cánh cửa luôn hé mở, ngồi rình ngay cạnh đó, súng để sẵn trên đầu gối. Ngọn nến đành phải tắt đi vì ánh sáng có thể đánh động con quái vật bí ẩn nếu như nó định chui ra khỏi hang ổ.
Cây nến đặt ở chỗ ngoặt, vẫn cháy suốt đêm, lờ mờ soi hành lang, với lại, từ ô cửa sổ nhỏ cũng rọi xuống một ánh đục lờ.
Tôi không còn nhớ đã phải ngồi đó bao nhiêu thời gian, đầu gục xuống gối. Khoảng gần mười hai giờ đêm thì cơn buồn ngủ ập đến làm tôi díp mắt lại. Tôi gắng gượng hết sức chống trả nhưng vẫn gà gật liên hồi: kết quả tất nhiên của mấy đêm liền mất ngủ. Rồi đến một khoảnh khắc nào đó, ý chí không còn điều khiển nổi nữa và tôi lập tức rơi tũm xuống một vực thẳm đen ngòm, ngột ngạt.
Bạn đã có bao giờ dựa lưng vào tường hay gốc cây mà ngủ ngồi chưa? Bạn hãy thử xem. Bạn sẽ được thấy là cảm giác rơi, mà nằm trong chăn ấm chỉ đôi khi mới cảm thấy, chính là giác quan thứ sáu của chúng ta thừa hưởng được của loài khỉ - tổ tiên của chúng ta, bởi vì giác quan này, chúng nhất thiết phải có để khỏi ngã từ trên cây xuống. Cho nên, ngủ ngồi cạnh gốc cây, bạn sẽ luôn mê thấy mình bị ngã, bừng tỉnh dậy rồi lại ngủ thiếp đi. Cuối cùng, những giấc mơ kỳ lạ xâm chiếm tâm hồn bạn: sẽ biến đi cả triệu năm dài tồn tại của loài người, và bạn sẽ có cảm tưởng bạn trông thấy một con voi mamút thời tiền hồng thủy đang đủng đỉnh xuống suối uống nước, hoặc bạn bắt gặp ánh mắt rực lửa của một con gấu khổng lồ đang chằm chằm nhìn bạn từ trong hang đá.
Đêm ấy, tôi luôn ở một trạng thái đại loại tương tự. Lúc nào cũng mơ mơ màng màng... Tôi có cảm tưởng đang ngồi chót vót trên ngọn cây, không dám leo xuống vì phía dưới, một con đười ươi pilêk đang rình mò. Đêm đen ngòm, có cả tiếng sói hú sau rừng. Đúng lúc ấy tôi “ngã” và mở choàng mắt ra.
Trong bóng tối nhập nhoạng, một sinh vật kỳ quái đang lần đi trước bóng tối. Áo quần màu xanh lá cây, kiểu cổ lỗ, đày bụi bậm và mạng nhện, đầu dài thuỗn như một hạt đậu, rủ xuống tư lự, hai mí như mí cóc hầu như che kín cặp mắt buòn bã, hai tay buông thõng và những ngón tay dài ngoẵng gần chạm tới tận sàn.
Người Lùn Rừng Tùng Đầm Lầy đi sát ngang qua chỗ tôi ngồi và lững thững đi tiếp, tôi cầm súng bám sát theo sau. Nó mở một cửa sổ, rồi cửa sổ thứ hai và chui ra ngoài. Tôi cũng thò đầu ra thì thấy con quái vật ấy men theo gờ tường rất hẹp, chỉ bằng ba ngón tay chụm lại, khéo léo như một con khỉ. Vừa đi men nó vừa với cánh tay bứt quả trên cành gia vươn sát tường, bỏ vào mồm nhai chóp chép. Tay kia, nó vẫn men theo tường. Sau đó, nó lại chui vào hành lang, đóng cửa lại, chậm chạp lê bước đi đâu đó, ghê rợn như một bóng ma. Có một lần tôi nghe nó lẩm bẩm gì đó. Người Lùn bỗng vỗ trán và mất hút vào bóng tối vì ánh sáng leo lét của cây nến ở tít xa không lọt tới đó. Tôi vội lao theo, sợ nó biến mất. Khi tôi cũng lọt vào vùng tối thì bắt gặp hai ánh mắt sáng quắc từ trong góc chiếu thẳng vào tôi, lừ lừ đe dọa.
Tôi lao tới, nhưng Người Lùn rên lên một tiếng nặng nề và bỏ đi, lảo đảo trên đôi chân khẳng khiu. Nó quay lại, nhìn tôi chằm chằm, giơ một ngón tay dài ngoẵng lên hăm dọa.
Tôi kinh hoàng sững lại giây lát, nhưng rồi trấn tĩnh ngay, đuổi kịp Người Lùn, thộp vai nó. Tim tôi nảy lên mừng rỡ bởi vì đó không phải là cái bóng ma.
Khi tôi lôi con quái vật ra ánh sáng, nó liền chỉ tay vào miệng, cất giọng khàn khàn:
– Ma-ăm!
– Mày là ai? – tôi lắc mạnh hắn.
Người Lùn – bóng ma vừa mới rồi, trả lời như cái máy:
– Con là Bazưlơ. Con là Bazưlơ.
Bỗng trong khóe mắt hắn lóe lên một ánh ranh mãnh thường thấy ở những kẻ đần độn.
– Con đã nhìn thấy ông rồi cơ. Khi con ngồi dưới gầm bàn, dưới gầm cái bàn ấy mà, hôm ấy, anh con đang cho con ăn thì ông xộc vào.
Hắn chóp chép cái miệng rộng đến mang tai.
Tôi đã hiểu ra cả. Hai tên vô lại – đầu sỏ đội săn và Bécman cùng theo đuổi một mục đích là loại trừ Janốpxkaia, đã nghĩ đến một độc kế như nhau. Bécman, khi biết mình là một người có họ hàng với Janốpxkaia, lập tức đến Rừng Tùng Đầm Lầy, lục tìm ra sơ đồ các đường truyền thanh bí mật và các đường ngầm trong tường tòa lâu đài. Sau đó, hắn bí mật trở lại thành phố, đuổi bà mẹ đi tha hương, chỉ đem đứa con trai về đây. Em hắn lẩn tránh mọi người chẳng phải do ưa thích sự cô độc mà vì một lẽ đơn giản: nó bẩm sinh là đứa đần độn. Còn chuyện ở câu lạc bộ mọi người ngạc nhiên về việc nó được giáo dục quá tồi, thì cũng chẳng có gì lạ: Bécman đã dẫn đến đó một người ba vạ nào đó, chứ không phải là đứa em trai hắn. Ở trang ấp Rừng Tùng Đầm Lầy, Bécman giấu đứa em trong phòng riêng của mình, lợi dụng việc không một ai lai vãng phòng hắn. Hắn bắt đứa em ngồi ru rú im lặng trong phòng. Tôi đã bắt gặp hai anh em trong một bữa hắn cho đứa em ăn. Lần ấy, té ra Người Lùn ngồi thu lu dưới gầm bàn, chỉ thò tay xuống là tôi có thể tóm được cổ hắn.
Đêm đến, Bécman đưa Người Lùn vào đường ngầm để nó đi đi lại lại trong đó, tạo ra trong các đường ngầm truyền thanh những tiếng chân bc mà mọi người trong tòa lâu đài đều nghe thấy.
Thỉnh thoảng Bécman cũng cho Người Lùn ra hành lang. Trong trường hợp ấy, Bécman mặc cho hắn một bộ quần áo cổ lỗ đã may sẵn. Suốt thời gian đứa em dạo chơi. Bécman đứng đợi ở cửa vào đường ngầm bởi vì Người Lùn không thể tự mở cửa từ phía trong. Đôi khi Người Lùn còn được phép đi thở hít khí trời trong lành. Những khi ấy, nó chạy trên các gờ tường tài tình như một con khỉ, hay đúng hơn – như một con nhệnh. Nó ngó nhìn vào các cửa sổ, và khi có động, nhanh như chớp mất hút sau vô số những góc tường lâu đài.
Làm tất cả những việc đó đối với Người Lùn dễ như bỡn bởi vì trong trí não thô sơ của nó hoàn toàn không có bản năng tự vệ. Nó đi trên gờ tường bình thản như đôi khi chúng ta đùa nghịch đi trên thanh đường sắt.
Chính trong một lần dạo chơi như vậy, Người Lùn đã ghé nhìn vào cửa sổ phòng tôi. Rồi sau đó ra sao nữa ư? Likôl gửi cho tôi lá thư, trong đó, để nhử tôi ra khỏi nhà, đã ngu ngốc tiết lộ rằng có biết đôi điều về Người Lùn. Bécman thời gian gần đây vẫn theo dõi tôi, đọc trộm được lá thư bèn vội vã nhào ra chỗ hẹn hòng thỏa thuận với tác giả lá thư. Nhưng ở đấy, hắn bị ngộ nhận là tôi, nên đã xảy ra tấn bi kịch mà tôi tới chứng kiến hơi muộn.
Suốt thời gian vừa qua, tên Lùn vẫn bị nhốt trong đường ngầm, không sao thoát ra được, đói đến run rẩy cả thay chân. Nếu như tôi không mở được cửa thì có lẽ nó đành chịu chết đói mà vẫn không hiểu ra tại sao người anh vẫn cho nó ăn uống, từng vuốt ve nó bỗng dưng lại bỏ rơi nó.
Tôi biết làm gì với nó bây giờ? Kẻ bất hạn ấy đâu có lỗi về việc nó sinh ra đã như vậy. Từ đây, nó sẽ biến khỏi câu chuyện của tôi. Tôi cho nó ăn, báo cho Nađêia biết kết cục của một trong những bóng ma từng lẩn khuất trong những bóng ma từng lẩn khuất trong lâu đài, và ngày hôm sau tôi gửi nó tới nhà thương điên của huyện.
Và cũng lần đầu tiên tôi được thấy một tia hy vọng ánh lên le nói trong khóe mắt của nữ chủ Rừng Tùng Đầm Lầy.
[34] Bêlôruxia cùng với vùng ven Bantích ở về phía Tây Bắc Đế quốc Nga hoàng (N.D.)