← Quay lại trang sách

Chương 17

Anh Rưgôrơ đấy à?

– Tôi đây, cậu Anđruxơ ạ. Nói đúng hơn. Chúng tôi đây.

Tôi chìa tay, bắt tay Rưgôrơ. Những ngày gần đây đêm nay là đêm đầu tiên trời quang mây và sáng trăng. Vầng trăng tròn tưới ánh bác trong xanh lên khắp sình than bùn, khắp các bãi hoang, khu vườn trong trang ấp Rừng Tùng Đầm Lầy và lấp lánh xa tít trong ô kính cửa sổ nhà ai đứng cô đơn. Về đêm, trời trở lạnh, sình lầy bốc hơi, sinh ra những mảng mây mù trắng xóa bay là là khắp các lũng.

Rưgôrơ rời đám bụi rậm cạnh đoạn rào đổ bước ra, theo sau anh, từ trong bóng tối hiện ra chừng hơn chục người.

Đó là anh em mugik. Tất cả đều mặc áo da lộn mặt lót lông thú ra ngoài, trong đều mặc áo cánh trắng, trông họ giống nhau như đúc, như thể ruộng đồng đã sinh ra họ trong một lúc. Tôi thấy hai người mang những khẩu súng kíp dài như của Rưgôrơ, người thứ ba cầm một khẩu súng ngắn, những người còn lại vũ trang đòn sóc và đinh ba, có một người chỉ cầm gậy lớn bằng gỗ sồi. Tôi ngạc nhiên, hỏi:

– Những ai thế?

– Anh em mugik đấy mà, - Rưgôrơ đáp, giọng ồm ồm từ đáy lồng ngực, - chịu đựng như thế đủ lắm rồi. Hôm kia, đội săn đã giẫm đạp chết em trai bác mugik này ở bãi lau. Tên bác ấy là Mikhalơ.

Mikhalơ trông quả giống “ông Nâu” tức là một con gấu lớn. Cặp mắt ti hí sâu hoắm, gò má cao, tay chân chẳng thua kém gì tay chân Đubôtôpkơ. Cặp mắt đỏ hoe sưng húp, hai bàn tay nắm chặt khẩu súng đễn nỗi các ngón tay trắng bệch cả ra. Ánh mắt u ám, cau có nhưng thông minh.

– Đủ lắm rồi! – Rưgôrơ nhắc lại. – Lũ chúng tôi chỉ còn nước chết nhăn răng. Nhưng chúng tôi không muốn chết. Cậu Bêlôrétxki ạ, nếu như có điều gì không vừa ý, xin cậu im lặng cho. Việc là việc của chúng tôi. Đối với bọn ăn cắp ngựa, ngay cả đức Chúa cũng cho phép cả làng quật chết. Đêm nay chúng ta sẽ chẳng những dạy cho chúng chừa thói giẫm đạp lên mọi người, mà còn cho chúng nghỉ ăn bánh mì luôn.

– Tất cả đáy à?

– Không, - Trùm quỷ [35] thời nay đáp. – Số anh em này, do Mikhalơ cầm đầu, sẽ ở lại đây với cậu, làm thủ hạ của cậu. Còn tôi sẽ đón lõng chúng ở bãi thụt quanh rừng cấm Janốpxki, gần Cối giã Mụ yêu. Đằng ấy, còn lại chục người nữa. Nếu chúng qua đó, bọn tôi sẽ đón tiếp, nếu chúng đi đường bọn tôi chưa biết thì các bạn đón tiếp chúng ở đây. Bọn tôi sẽ theo dõi rừng cấm, Hẻm Lạnh và các bãi hoang cạnh đó. Các bạn bám sát lâu đài Rừng Tùng Đầm Lầy. Khi cần, ta gặp nhau ở Hẻm Lạnh. Nếu cần chi viện, cậu cứ cho người đến báo.

Nói cong, Rưgôrơ biến vào đêm đen.

Chúng tôi bố trí một ổ phục kích. Tôi ra lệnh cho sáu mugik phục hai bên đường cạnh chỗ rào đỏ, ba người nữa bố trí xa hơn một chút, thành hình một cái túi. Ba người còn lại phải chẹn đường rút của đội săn. Tôi nấp sau một gốc cây lớn ngay cạnh đường.

Tôi còn quên chưa nói là mỗi người chúng tôi mang sẵn ba bó đuốc, nghĩa là đủ để trong trường hợp cần đến sẽ soi sáng cả một vùng xung quanh.

Đội quân mặc áo da lông thú của tôi vừa mới phục xuống đã lập tức lẫn với mặt đất, không tài nào phân biệt nổi họ với các mô đất, lông áo màu xám hòa lẫn với mặt cỏ thu úa tàn.

Chúng tôi chờ đã khá lâu. Mặt trăng vẫn trôi đi giữa bầu trời trên cánh đồng lầy, thảng hoặc đó đây lập lòe đôi ba ánh lửa xanh lẹt, mây mù lúc kết thành một tấm màn dày đặc bay là là mặt đất, chỉ đến giữa cẳng chân ngựa, lúc lại tản ra.

Đội săn xuất hiện cũng như mọi lần, rất bất ngờ. Chừng hai chục kỵ sĩ mờ mờ ảo ảo cưỡi hai chục con ngựa cũng ảo ảo mờ mờ. Chúng lừng lững tiến lại, không một tiếng động. Không nghe tiếng hàm thiếc lách cách, cũng không một giọng người. Một khối lù lù câm lặng tiếng dần đến. Bờm tóc lòa xòa cùng những tấm áo choàng bay phấp phới. Đội săn đang phóng nước đại.

Đi đầu, cũng vẫn như mọi lần, là Quốc vương Xtác, mũ chụp sùm sụp xuống mặt. Chúng tôi tưởng chúng sẽ ào tới như một cơn lốc, nhưng cách độ trăm bước chúng... xuống ngựa, loay hoay dưới chân ngựa, sau đó, khi chúng lại lao đi thì chúng tôi bỗng thấy tiếng vó ngựa rầm rập, rất đột ngột sau sự câm lặng trước đó.

Chúng đang tiến lại gần. Đã qua bãi thụt, đã tiến đến đoạn rào đổ, rồi vượt qua nó. Quốc vương Xtác phóng ngựa thẳng đến chỗ tôi đứng. Tôi trông rõ mặt hắn trắng bệch như phấn.

Hắn đã đến ngay cạnh gốc cây tôi đứng. Tôi liền tiến lên một bước, chộp lấy cương ngựa. Đồng thời, tay trái tôi đang xiết chặt khẩu súng lục và chiếc roi ngựa, hất ngược mũ hắn ra sau gáy.

Bộ mặt nhợt nhạt màu xác chết của Vôrôna nhìn tôi với cặp mắt mở trừng trừng. Vì quá bất ngờ nên có lẽ hắn không biết xử trí ra sao, nhưng tôi thì biết rõ mình cần phải làm gì.

– Té ra chính mày là Quốc vương Xtác đấy? – vừa hỏi, tôi vừa quất mạnh roi ngựa vào giữa mặt hắn.

Con ngựa Vôrôna cưỡi chồm lên, nhảy lui vào giữa đám kỵ sĩ.

Ngay lập tức, mấy khẩu súng trong ổ phục kích nổ vang, các nọng đuốc bùng lên sáng trưng, tất cả nhốn nháo trong ánh lửa quay cuồng. Ngựa chồm lên, kỵ sĩ ngã xuống, có tiếng ai đó thét lên thất thanh. Tôi chỉ nhớ rõ bộ mặt của Mikhalơ đang lạnh lùng ngắm bắn. Một quầng lửa vụt ra khỏi nòng súng dài. Tiếp theo, trước mắt tôi lướt qua bộ mặt có đôi gò má cao của một chàng trai, tóc tai rối bù xõa kín trán. Anh ta hoa cây đinh ba lên, như thường làm trên sân phơi rơm ra, đoạn dồn hết sức bình sinh xọc thẳng vào bụng một con ngựa đang chồm lên. Kỵ sĩ, ngựa và chàng trai cùng ngã lăn xuống. Tôi vẫn đứng y nguyên, mặc dù từ phía đội săn cũng đã bắt đầu vang lên những tiếng súng bắn trả, đạn réo quanh đầu tôi. Tôi ngắm bắn vào từng kỵ sĩ đang loay hoay trên lưng ngựa. Nhưng từ phía sau lưng, súng cũng đang nhả đạn vào chúng.

– Anh em ơi, chúng ta bị phản rồi!

– Sướng chưa, chả phóng nữa đi!

– Chuồn thôi!

– Trời ơi! Lạy chúa tôi!

Tôi đã thấy rõ vẻ kinh hoàng trên mặt lũ côn đồ ấy, và một niềm hân hoan được trả thù tràn ngập lòng tôi. Lẽ ra bọn chúng nên sớm suy nghĩ đến điều một ngày kia sẽ phải đền tội. Tôi được chứng kiến bác mugik cần ngang cây gậy gỗ sồi to tướng xông vào giữa đám hỗn chiến mà phang ngang phang dọc. Bao phẫn nộ tích tụ từ xa xưa, bao nhẫn nhục lâu năm, giờ đây đều bộc phát thành cơn thịnh nộ chưa từng thấy, thành lòng quả cảm táo tợn. Một mugik khác nhảy lên lôi tuột một kỵ sĩ ra khỏi yên và con ngựa cứ thế kéo lết đầu hắn va bừa vào các gốc cây.

Mười phút sau, cuộc hỗn chiến kết thúc. Lũ ngựa không kỵ sĩ đứng hí vang: người chết, người bị thương nằm ngổn ngang như những bó rạ vứt lăn lóc trên mặt đất. Riêng một mình Vôrôna vẫn quay cuồng giữa đám mugik, vung kiếm đánh trả. Khẩu súng lục hắn cắn ngang miệng. Hắn chiến đấu khá lắm. Bỗng hắn trông thấy tôi. Mặt hắn méo xệch đi vì một sự căm thù kinh khủng, khiến đến nay tôi vẫn còn nhớ y nguyên, thỉnh thoảng vẫn thấy rõ trong cơn mê.

Hắn giật cương cho ngựa chồm lên giẫm chết một người nông dân, đoạn vồ lấy súng.

– Thằng đê tiện, hãy coi chừng! Mày đã giành được con bé! Nhưng đừng hòng mà âu yếm nhau!

Một bác nông dân râu ria xồm xoàm vội túm lấy chân hắn giật mạnh, chỉ nhờ vậy mà tôi không bị gục xuống với một viên đạn xuyên thủng sọ. Vôrôna biết hắn có nguy cơ bị kéo tụt xuống đất, nên quay lại bắn chết bác rậm râu.

Chớp thời cơ, tôi nạp đạn vào ổ súng và xả cả sáu phát vào người hắn. Vôrôna, tay chới với, đổ nghiêng người trên yên, nhưng vẫn kịp quay ngựa đạp ngã chàng trai có gò má cao và phòng về phía sình lầy. Tay chới với bắt không khí, nhưng hắn vẫn ngồi được trên yên, cùng cái yên đổ dần sang một bên (có lẽ đai thắng yên đã đứt) cho đến khi bị kéo lết trên mặt đất. Con ngựa bỗng ngoặt gấp, đầu Vôrôna đang đà lao nhanh đập vào cột đá hàng rào. Óc hắn tung tóe.

Vôrôna bay ra khỏi yên, rơi bộp xuống đất, nằm cứng đờ.

Thật là một cuộc đại phá. Cái đội săn khủng khiếp bị chính bàn tay của những người mugik bình thường đập tan ngay trong ngày đầu tiên khi họ nỗ lực một chút và tin rằng có thể cầm đinh ba vùng dậy chống lại cả ma quỷ.

Tôi đưa mắt nhìn khắp quang cảnh chiến trường. Những người nông dân đang tập trung ngựa lại. Đó quả những con đrứctăng vùng Pôlexia – giống ngựa này đã tuỵete chủng. Tất cả đều vằn vằn và lốm đốm như mèo rừng hay báo hoa mai, lỗ mũi trắng và mắt đỏ rực ánh lửa. Tôi biết giống ngựa này có đặc điểm là phi băm những bước dài và khi phóng nước đại thì nhảy những bước xa như bước nhảy của loài nai. Chẳng có gì lạ là trong sương mù có cảm tưởng như chúng bay bổng trên không.

Còn hai điều bí ẩn nữa được khám phá một cách bất ngờ. Một là, cạnh yên ngựa của mỗi kỵ sĩ có treo bốn cái túi khá sâu bằng lông cừu để khi cần thiết có thể bịt vào vó ngựa và buộc chặt lại ở đốt cổ chân, nhờ đó bước đi hoàn toàn không có tiếng động. Hai là, giữa đám kỵ sĩ chết và bị thương tôi trông thấy ba thằng hình nhân ăn mặc hoàn toàn như các kỵ sĩ. Chúng cũng được đội mũ cắm lông, đeo giáp trụ, mặc áo khoác và được buộc chặt vào yên. Rõ ràng là Vôrôna không đủ người.

Thế nhưng, tổn thất của chúng tôi cũng khá lớn. Có lẽ chúng tôi sẽ không đời nào thắng nổi cái bọn cướp giết người chuyên nghiệp ấy nếu như không có yếu tố bất ngờ trong cuộc phục kích. Ấy thế mà kết quả vẫn rất tồi tệ vì anh em mugik hoàn toàn chưa biết chiến đấu. Chàng trai có đôi gò má cao bị Vôrôna thúc ngựa đạp ngã, giờ đây đang nằm kia, đầu phọt óc. Bác nông dân rậm râu bị một phát đạn giữa trán, vết xuyên thủng sâu hoắm. Bác mugik cầm cây gậy gỗ sồi nằm ngửa trên mặt đất, chân vẫn giẫy giụa: bác đang hấp hối. Số bị thương nhiều gấp đôi. Tôi cũng bị một vết: viên đạn va phải vật rắn, bật vào gáy tôi.

Chúng tôi đang cãi nhau: Mikhalơ băng bó đầu cho tôi, nhưng tôi không chịu, cho là vết thương xoàng thôi. Trong khi đó, anh em phát hiện trong đám kỵ sĩ có một tên còn sống và giải đến cạnh đống lửa. Đứng trước mặt tôi là Mackơ Xtakhêvich, chính tên sliăctich từng nói chuyện với Patxúk ở dưới gốc cây mà tôi đã nghe lỏm được. Một tay hắn treo lủng lẳng như sợ thừng. Trông hắn khá hùng dũng trong bộ giáp trụ màu mận chín, đầu đội mũ nhỏ, sườn vẫn đeo cái bao kiếm không.

– Hình như anh từng đe anh em mugik, có phải không Xtakhêvich? Anh sẽ phải chết như bọn kia, - tôi nói, giọng bình thản. – Nhưng chúng tôi có thể tha cho anh, bởi vì còn có một thân một mình, anh không đáng sợ. Anh sẽ được đi khỏi lãnh địa Janốpxki và sống ở một nơi khác nếu như anh thành thực kể cho chúng tôi biết toàn bộ những trò đốn mạt của các anh.

Hắn do dự, đưa mắt nhìn những bộ mặt khắc nghiệt của đám mugik đang bừng bừng ánh lửa, nhìn những chiếc áo da lộn trái, những bàn tay nắm chặt đinh ba. Hăn hiểu ra rằng không thể chờ mong ở họ sự tha thứ. Những mũi đinh ba đang vây lấy hắn từ bốn phía, chạm cả vào da thịt.

– Tất cả đều do Đubôtôpkơ, - hắn nói, mặt cau có. – Tòa lâu đài của dòng họ Janốpxki sẽ truyền lại cho Garabuôcđa, nhưng ông ta mắc nợ Đubôtôpkơ một khoản lớn. Không ai biết điều đó, trừ bọn ta là thuộc hạ của Đubôtôpkơ. Bọn ta thường chè chén ở nhà ông, được ông cho tiền. Ông chỉ mơ ước có tòa lâu đài thôi. Ông không muốn bán bất cứ vật gì ở đó, mặc dù tòa lâu đài khá cao giá. Vôrôna bảo nếu đem bán tất cả đồ vật trong lâu đài cho các viện bảo tàng có thể được hàng chục nghìn. Một sự tình cờ đã xui khiến Đubôtôpkơ và Vôrôna gặp nhau. Thoạt tiên, Vôrôna không muốn giết Janốpxkaia mặc dù cô bé đã khước từ lời cầu hôn của anh ta. Nhưng sau khi Xvetilôvich xuất hiện ở đây thì cả Vôrôna cũng đồng ý với Đubôtôpkơ. Đubôtôpkơ nảy ra ý lợi dụng truyền thuyết về đội săn của Quốc vương Xtác từ ba năm trước đây. Chẳng hiểu do nguồn nào mà dẫu sống có vẻ chẳng sung túc gì, Đubôtôpkơ có những món tiền lớn giấu rất kỹ. Nói chung ông là một con người rất tinh khôn, xảo trá và kín đáo. Người khôn ngoan đến đâu cũng vẫn có thể bị ông dắt mũi, ông giả ngây giả dại, khù khờ như một chú gấu. Vậy là ông ta cất một chuyến mò đến tận trại nuôi ngựa tốt nhất của một điền chủ những năm gần đây đã sa sút, mua toàn bộ đàn ngựa đrứctăng, đưa chúng về rừng cấm Janốpxki, nơi bọn ta đã dựng sẵn lán và chuồng ngựa. Tất cả đều ngạc nhiên là bọn ta có thể phóng ngựa trên những sình lầy không ai qua được. Nhưng không ai biết là bọn ta đã lần mò khắp Bãi thụt Khổng lồ để tìm các con đường mòn bí mật. Và đã tìm ra, nghiên cứu kỹ, dạy cho lũ ngựa đi qua. Sau đó thì tha hồ phóng ngựa ở những nơi đường mòn ngập sâu dưới bùn lầy đến một cánh tay, hai bên là bãi thụt chết người. Với lại, lũ ngựa này thật kỳ diệu! Chúng nhận ra giọng Đubôtôpkơ, chạy đến bên như một lũ chó khôn. Chúng cảm giác được sình lầy, nên chỗ nào đường mòn đứt đoạn, chúng nhảu những bước khổng lồ. Vả lại, bọn ta bao giờ cũng xuất hiện vào đêm tối khi sương mù là là mặt đất. Chính vì vậy mọi người cứ tưởng là những bóng ma. Hơn nữa, bọn ta bao giờ cũng câm lặng. Tất nhiên, vụ này liều lĩnh. Nhưng biết làm thế nào? Chịu chết đói nhăn răng à? Trong khi đó, Đubôtôpkơ trả tiền đều đều. Hơn nữa, bọn ta chẳng những muốn làm cho Janốpxkaia phải mất trí hoặc chết, mà còn nhằm răn đe bọn tôi tớ láo xược, làm cho chúng phải biết kiêng sợ, không dám eo xèo đòi hỏi gì nữa. Đubôtôpkơ đã thông qua Garabuôcđa buộc mụ Kunsa phải mời cô bé đến chơi nhà, bởi vì ông ta biết bố nó nhất định sẽ sinh lo, bổ đi tìm. Thế là bọn ta chộp được Rôman, đón tiếp lão ra trò. Ôi, một cuộc săn đuổi thật tuyệt! Lão chuồn nhanh như quỷ sứ... Khốn nỗi, ngựa lão lại bị gãy cẳng.

– Chúng tôi thừa biết rồi. – tôi xen ngay vào giọng mỉa mai. – Nhân tiện, xin nói để anh biết: ông Rôman đã tốc giác bọn anh đúng sau khi đã chết, dẫu các anh không tin vào lời đe dọa của ông. Thậm chí vài ngày trước đây khi đứng trò chuyện với Patxúk sau vụ ám sát Bécman, anh vẫn còn chưa tin.

Xtakhêvich kinh ngạc, há hốc mồm. Tôi bảo hắn kể tiếp.

– Bọn ta làm cho cả lãnh địa phải khiếp sợ. Lũ cố nông đành phải chấp thuận giá cả do điền chủ đưa ra. Bọn ta đã bắt đầu sống đàng hoàng hơn. Cô bé Janốpxkaia thì đã đến chỗ tuyệt vọng. Đúng lúc ấy anh, Bêlôrétxki, đến đây. Hôm vũ hội, không phải ngẫu nhiên mà Đubôtôpkơ đem bức chân dung cụ tổ Rôman đến. Nếu như không có anh thì chỉ một tuần sau cô bé sẽ phát điên. Nhưng pan Đubôtôpkơ thấy ngay là ông đã tính lầm. Cô bé đêm ấy rất vui. Anh nhảu với cô ta xuốt. Khi làm thủ tục chuyển giao công việc bảo trợ, Đubôtôpkơ cố tình mời anh vào dự để anh thấy là cô bé rất nghèo, mặc dù ông ta quản lý trang ấp rất cừ, bởi vì trong tương lai nó sẽ thuộc về ông ta. Thế nhưng, tình cảnh nghèo khó của Janốpxkaia không mảy may tác động đến anh, cho nên đành phải quyết định thanh toán anh.

– Nhân tiện, - tôi lại xen vào, - xin nói để anh biết là tôi chưa hề có ý định kết hôn với tiểu thư Janốpxkaia.

Xtakhêvich rất ngạc nhiên:

– Thì biết vậy. Dù sao anh vẫn cản trở bọn ta. Có anh, cô bé như sống lại. Công bằng mà nói ông Đubôtôpkơ thực tình yêu quý Nađêia. Phải làm hại cô bé, ông xót lắm, và nếu như có thể tránh được điều đó, ông bằng lòng ngay. Đối với anh, ông rất tôn trọng. Luôn nói với bọn ta răng anh là một người chân chính, chỉ tiếc là anh không đời nào nhất trí với bọn ta. Tóm lại công việc của bọn ta trở nên phức tạp: buộc phải trừ khử cả anh, cả Xvetilôvich vì anh ta có quyền thừa kế, lại yêu Janốpxkaia. Đubôtôpkơ mời anh đến nhà để cho Vôrôna thách đấu súng. Vôrôna đóng vai kịch đó thành công đến nỗi không một ai nghi ngờ rằng không phải anh ta mà chính Đubôtôpkơ mới là kẻ chủ mưu. Trong khi đó bọn ta tranh thủ ngắm nhìn anh vì cần phải ghi nhớ mặt anh.

– Tiếp đi, - tôi giục.

Xtakhêvich hơi do dự, nhưng Mikhailơ lập tức thúc đinh ba vào mông hắn. Măckơ gườm gườm nhìn quanh.

– Trò đấu súng bị xịt. Đubôtôpkơ chuốc rượu liên tiếp mà anh vẫn không say. Hơn thế nữa lại tỏ ra tài ba đến mức hạ đo ván Vôrôna, buộc anh ta phải nằm liệt giường mất năm ngày.

– Làm thế nào mà hôm ấy bọn các anh vừa dự tiệc lại vừa đuổi theo tôi được?

Xtakhêvich dằn giọng:

– Đợi anh ở ngoài trại Đubôtôpkơ là một nhóm khác, toàn bọn lính mới. Thoạt tiên, bọn này định cho chúng đuổi theo Xvetilôvich, nếu giết được anh rồi. Nhưng Xvetilôvich ngồi lì với bọn ta đến tận sáng, Vôrôna thì bị thương. Vì vậy mới cho chúng đuổi theo anh. Cho đến nay, Đubôtôpkơ vẫn không thể tha thứ cho bản thân là đã để cho bọn vắt mũi chưa sạch đuổi theo anh. Nếu không, anh đừng hòng thoát hôm ấy. Vả lại, bọn ta tưởng anh sẽ đi theo đường cái, nhưng anh lại đi tắt qua bãi hoang, lại còn bắt bọn đội săn tiêu phí cả tiếng đồng hồ trước vạt sình lầy. Cho đến lúc lũ chó săn đánh hơi được dấu vết thì đã quá muộn. Đến tận giờ bọn ta vẫn không hiểu nổi bằng cách nào hôm ấy anh thoát khỏi tay bọn ta, cừ thật đấy. Hôm ấy mà anh rơi vào tay bọn ta thì chỉ có chết.

– Thế tại sao tiếng tù và luôn cất lên ở hướng khác? Còn cái bọn “lính mới” kia đâu cả rồi?

Xtakhêvich miễn cưỡng tiếp tục:

– Thổi tù và cũng là một đứa trong bọn ta. Hắn đi tách riêng, cách bọn ta không xa. Còn như bọn lính mới thì chúng đầy kia, nằm dưới đất ấy. Trước kia bọn ta ít người hơn, nên thường phải dắt theo một lũ ngựa buộc hình nân. Còn một bộ phận trẻ ra Hẻm Lạnh nữa. Bọn ta cứ tưởng anh chỉ có một mình với thằng Rưgôrơ rình bắt bọn ta. Không ngờ các anh có cả một đội quân đông đảo thế này. Vụng tính nên phải trả giá đắt. Đấy, họ nằm cả lũ đấy: Patxúk, Jan Xtưrôvich, Papliuk, Bôbôet. Thậm chí cả Vôrôna nữa. Anh không xứng với cái móng tay của anh ta đâu. Vôrôna thực khôn ngoan, vậy mà cũng không thoát khỏi sự phán xử của Chúa.

– Tại sao các anh lại ném cho tôi mẩu giấy báo trước là “đội săn của Quốc vương Xtác thường hiện về lúc nửa đêm”?

– Đâu nào! – Xtakhêvich lắc đầu. – Ai đời hồn ma lại đi ném trộm thư từ. Đời nào bọn ta lại đi làm cái trò ngu ngốc ấy.

“Trò ấy, chắc Bécman làm”, - tôi nghĩ thầm, nhưng lại nói to:

– Chính cái mẩu giấy ấy đã khiến tôi hiểu ra rằng bọn các anh không phải là những hồn ma đúng vào lúc tôi đang bắt đầu tin như vậy. Cho nên các anh phải đội ơn kẻ làm phúc bí ẩn ấy, bởi vì nếu quả là hồn ma thật thì chưa chắc tôi đã dám đương đầu.

Xtakhêvich tái mặt đi, môi mấp máy:

– Thằng cha ấy mà tóm được, bọn ta phải xé xác nó ra. Anh, ta căm thù, chỉ tiếc là ta không còn đủ sức. Ta không thèm nói nữa đâu.

Bàn tay hộ pháp của Mikhalơ lập tức thộp cổ tên kẻ cướp, bóp mạnh:

– Nói đi. Không thì chúng tao tức khắc...

– Đồ chó má, chúng bay đã thắng thế. Thì cứ việc hí hửng đi, quân tôi đòi... Bọn ta cũng đã kịp dạy cho chúng bay những bài học đích đáng. Ta thách thằng nào moi đâu ra được mấy đứa to mồm nhất ở làng Acki trong cái vụ pan Antôxơ Đukhơxitxa đuổi làng lấy đất. Cứ cho thà hồ đi mà hỏi. Chỉ tiếc là ông Đubôtôpkơ không cho rình bắn chết anh – Bêlôrétxki – giữa ban ngày. Chuyện đó dễ không, nhất là lần anh mò đến nhà Kunsa. Hôm ấy ta có nhìn thấy anh. Ngay từ ngày ấy bọn ta biết anh đang chuẩn bị chịt thòng lọng vào cổ bọn ta. Mụ Kunsa già rồi, lại điên điên dại dại, nhưng vẫn có thể buột mồm buột miệng lộ ra điều gì. Mụ bắt đầu đoán ra mụ là công cụ trong tay bọn ta để giết chế Rôman. Cho nên đành phải cho đội săn hiện về một lần. Đầu óc mụ vốn yếu, nên mụ mất trí luôn.

Tôi sôi tiết lên vì những điều đốn mạt mà con người đó kể lại. Mãi giờ đây tôi mới thấy hết vực thẳm sa đọa của tầng lớp sliăcta. Thâm tâm, tôi đồng tới với Rưgôrơ là phải diệt cho nó tuyệt nòi, vì nó bắt đầu làm ô uế cả thế gian này.

– Kể tiếp đi, đồ nhơ bẩn!

– Khi nghe nói Rưgôrơ đồng ý tham gia tìm kiếm, bọn ta biết là gay rồi. Lần đầu tiên được chứng kiến Đubôtôpkơ phát hoảng. Thậm chí ông tái mặt đi. Ông bảo phải kết thúc thôi, chẳng còn mong trở nên giàu có nữa mà cốt cứu lấy mạng mình. Bọn ta liền tới lâu đài.

– Lần ấy dứa nào la hét thế?

– Đứa la hét đâu còn nữa. Nó nằm kia kìa... Pátxúk đấy...

Xtakhêvich trâng tráo đùa cợt, kể tất cả với một giọng trịnh thượng, phô trương như thể sắp ca một bản “Tình ca” của Rubinstêin. Tuy vậy, tôi thấy rõ là hắn sợ, dẫu cố trấn tĩnh.

– Khó gì, ta cũng la hét được như vậy.

Dứt lời, hắn ngửa đầu, gân xanh trên cổ phồng hết lên. Hắn bắt đầu hú, giọng lúc trầm lúc bổng và tôi được nghe lại lần cuối tiếng thét của đội săn – một tiếng thét kinh khủng, không còn là tiếng người nữa mà đã thành tiếng ma quỷ.

– Rôman! – giọng hắn rền rĩ. - Ối Rôman! Rôman! A-ôi! Thù phải trả! Chúng ta sẽ về! Rôman đời chót, ra mau.

Tiếng hắn vang dội trên Bãi thụt Khổng lồ, lan xa mãi, hòa lẫn với tiếng vọng, âm vang trong không trung bao la. Tôi sởn hết gai ốc.

Xtakhêvich cười hô hố.

– Bêlôrétxki, lần ấy a không ra. Phải thằng khác thì có lẽ hắn đã ngoẻo vì khiếp sợ rồi. Mới đầu bọn ta tưởng anh khiếp sợ rồi, nhưng ngày ôm sau đã xả ra một chuyện chí nguy. Thằng Xvetilôvich bắt gặp Vôrôna, hôm ấy đi mộ lính mới nên về muộn. Cuộc chạm trán lại xảy ra ngay cạnh con đường mòn dẫn vào rừng cấm, đến hang ổ mật của bọn ta. Sau đó, bọn ta theo dõi thấy hắn gặp anh ở trong rừng. Và dẫu hắn không nói gì với anh, bọn ta thấy vẫn phải kết liễu hắn. Đubôtôpkơ gửi cho hắn lá thư, nhử ra khỏi nhà. Hôm ấy, một nửa đội săn đến rình ở chỗ ba gốc thông, một nửa kia đến lâu đài. Đubôtôpkơ đích thân xuống ngựa, bò đến sau lưng anh. Khốn một nỗi anh đã kịp nổ súng, bọn lính mới chưa từng ngửi khói súng, liền bỏ chạy ráo. Kỳ lạ nữa là anh đã dần nhừ xương Đubôtôpkơ, khiến ông ta đến giờ vẫn chưa cưỡi ngựa được, phải ru rú suốt ngày ở nhà. Hôm nay, ông cũng phải ngồi nhà, bọn bay cứ liệu hồn... Lần ấy Đubôtôpkơ đã “xiếc” anh rất cừ, cho nên chính mình chưa hoàn hồn mà anh đã loay hoay vực ông ta lên ngựa. Dẫu sao, bọn ta đã may mắn hơn trong vụ thằng Xvetilôvich. Giáp mặt hắn, Vôrôna hỏi: “Khám phá ra đội săn rồi chứ?”. Hắn nhổ vào mặt Vôrôna, Vôrôna bắn hắn chết tươi. Vừa lúc đó, anh mò đến, nổ súng vào bọn ta, bắn thủng tay một đứa. Sau đó anh đánh tên cảnh sát khu vực, bị gọi ra huyện, cũng lại do bọn ta bố trí. Chắc hẳn anh không biết là sẽ bị bắt và trên đường giải đi sẽ bị đập chết. Thế nhưng anh ranh như quỷ, lại gặp vận may, lá thư của quan tổng đốc đã buộc lão chán án thôi không giúp bọn ta nữa. Lão quỳ gối van xin Đubôtôpkơ khử anh mau mau. Nhân tiện ta nói cho mà biết là khi bắn chết Xvetilôvich, Vôrôna đã áp dụng một mẹo tinh khôn, anh không đời nào đoán ra được.

– Sao lại không? – tôi đáp, giọng bình thản. – Đubôtôpkơ xé trong một tờ tạp chí ở nhà Janốpxkaia mấy trang giấy để làm bùi nhùi. Bọn các anh suy tính rằng nếu như tôi xổng khỏi tay các anh, thoát chết thì căn cứ vào bùi nhùi tôi sẽ phải nghi cho Bécman chứ gì.

Xtakhêvich đưa những ngón tay khoằm khoằm như vuốt lên cào cấu ngực.

– Ma quỷ! – Hắn hộc lên khàn khàn. – Lẽ ra bọn ta không nên dây vào với anh. Ai mà ngờ được cơ chứ? Đấy. Chính không tính đến chữ ngờ mà cả lũ nằm lăn lóc nhưng những bì rác kia.

Im lặng một lát, hắn nói tiếp:

– Bọn ta còn mắc một sai lầm nữa. Mải theo dõi anh, bọn ta bỏ quên bọn tôi tớ này cùng tên Rưgôrơ. Cho nên, bọn chúng nó mò tới tận sào huyệt, khám phá ra những con đường mòn bí mật... Thế rồi, anh lại gặp may lần nữa ngay cạnh cây thánh giá của Rôman: bọn ta giết nhầm con gà nhép mà để xổng mất anh. Chỉ tại vừa phóng ngựa vừa bán, không dừng lại. Hạ thủ xong, phóng đi luôn. Sau đó mới quay lại kiểm tra. Và lại đụng phải anh, thực là một lũ ngốc. Sau đó, Garabuôcđa mất hút. Đêm nay bọn ta quyết không trở về nhà chừng nào chưa tóm cổ anh. Vậy mà, kết cục như thế này đây...

– Thôi đủ, - tôi ngắt lời. – Nghe mà phát lợm. Anh cũng đáng phải treo cổ, nhưng chúng tôi không thèm giết anh, vì đã hứa tha cho anh. Chúng tôi sẽ xét kỹ sau, nếu tội anh lớn, sẽ lôi ra tòa án tỉnh, nếu không thì sẽ tha cho về.

Tôi nói chưa dứt lời thì Xtakhêvich bỗng gạt mạnh hai mugik, thoát khỏi tay họ, lao như tên bắn đến chỗ để ngựa. Hắn co cẳng đạp mạnh vào bụng người đứng gác nhảy phóc lên yên, phóng vụt đi. Hắn còn ngoái lại, hét lên, giọng chế giễu:

– Cứ ngồi đấy mà chờ tòa án tỉnh. Tao đến Đubôtôpkơ đây. Ông ta sẽ phát động sliăcta trong toàn lãnh địa này tiêu diệt bọn bay đến mống cuối cùng. Cả mi nữa, đồ chó chết kinh đô kia, cũng không thoát đâu, cả cái con nhân ngãi của mi nữa. Cái thằng Mikhalơ kia, nghe đây: tao đã giẫm nát em mày, thì mày cũng chung phận ấy thôi!

Mikhalơ rê đầu súng và bóp cò, hầu như không ngắm bắn. Xtakhêvich lặng lẽ, như thể đó là điều cần làm, ngã lộn từ trên yên xuống, quay mấy vòng trên mặt đất, rồi nằm bất động.

Mikhalơ bước đến bên hắn, nắm lấy cương ngựa, đoạn bồi thêm một phát vào giữa trán Xtakhêvich. Xong, anh nghiêm nghị bảo tôi.

– Mời thủ lĩnh đi trước. Ngài thương hại chúng nó quá sớm đấy. Hãy vứt cái lòng thương ấy đi. Đám cưới Zigan đâu có cần bánh hạnh nhân. Ngài đi đi, bọn tôi sẽ đuổi theo. Cứ đến Hẻm Lạnh trước đi, và chớ có ngoái cổ lại.

Tôi bỏ đi. Thực vậy, tôi đâu có quyền nương nhẹ bọn bất lương. Thằng kẻ cướp ấy mà chạy thoát về với Đubôtôpkơ thì chúng sẽ tắm máu cả cái lãnh địa này. Phải mau mau tóm cổ lão Đubôtôpkơ. Phải bắt ngay đêm nay.

Phía sau lưng tôi vang lên những tiếng rên la. Ở đó họ đang giết nốt những tên bị thương. Tôi muốn quay đầu lại nhìn mà không nổi. Cổ họng tắc nghẹn. Nhưng phải chăng bọn chúng sẽ không thanh toán với chúng tôi còn ghê tởm hơn?

Anh em mugik đuổi kịp tôi trên nửa đường tới Hẻm Lạnh. Họ cưỡi những con đrứctăng, tay cầm ngang những cây đinh ba.

– Mời thủ lĩnh lên ngựa, - Mikhalơ chỉ ngựa, nói giọng hiền lành. – Bọn tôi kết liễu hết chúng rồi. Bãi thụt nhân từ sẽ không đời nào hé miệng với ai...

Tôi đáp, cố lấy giọng bình thản:

– Thế là tốt. Bây giờ chúng ta mau tới chỗ Rưgôrơ. Sau đó, cùng nhau đi đánh chiếm nhà Đubôtôpkơ.

Trong nháy mắt, chúng tôi phóng đến Hẻm Lạnh, và ở đó được chứng kiến màn chót của tấm bi kịch tương tự. Rưgôrơ đã giữ đúng lời nguyền, giết hết không tha một mống trong đội săn, dẫu không đem hành hạ tàn khốc như đối với bọn ăn cắp ngựa. Khi chúng tôi đến, trước mặt Rưgôrơ còn sót lại một tên cuối cùng đang ngằm ngửa trên mặt đất. Tên sliăctich ấy còn trẻ măng. Tôi lao đến chỗ họ. Nhìn áo quần, hắn biết tôi không phải là nông dân, nên vội kêu toáng lên:

– Mẹ ơi! Mẹ ơi! Người ta giết con.

– Anh Rưgôrơ, - tôi van xin. – Đừng giết hắn. Hắn còn trẻ ranh ấy mà.

Tôi níu vai Rưgôrơ, nhưng từ phía sau, lập tức hai ba người giữ chặt lấy tay tôi.

– Cút! – Rưgôrơ quát lên. – Đem thằng cha ngu ấy đi chỗ khác! Bọn chúng đuổi con trẻ đi khỏi Jacki thì không xót à? Lũ trẻ ấy chết đói cả rồi... Chết đói đấy! Cậu nghĩ sao, con người ta không được quyền ăn cho đỡ đói à?! Hắn kêu mẹ ơi! Bọn tôi không có mẹ chắc?! Thằng em Mikhalơ không có mẹ chắc? Cậu nữa, cậu không có mẹ hay sao mà cậu nhân từ thế?! Đồ giẻ rách! Cậu biết không, cái thằng trẻ ranh này vừa mới bắn chết Xưmôn – em trai Zôxia đấy! Đã thế, bọn ta sẽ cho chúng một đêm tắm máu!

Dứt lời, Rưgôrơ xoay người cắm phập cây đinh ba vào cái thân hình nằm xõng xoài trên mặt đất.

Tôi lùi ra xa, ngồi sụp xuống, nôn ọe... Tôi không nghe thấy tiếng chân Rưgôrơ bước lại bên tôi, sau khi họ đã ném tất cả xác chết xuống bãi thụt. Anh đặt ta

y lên vai tôi:

– Cậu ngu lắm... Cậu tưởng tôi không mủi lòng ư? Tim tôi ứa máu. Có lẽ, suốt đời tôi sẽ không thể nào ngủ yên được nữa. Nhưng đã nhịn thì nhịn cho trót, đã đánh thì đánh đến cùng. Không được để sống sót một mống nào, chỉ còn bọn ta biết với nhau, cùng làm cùng chịu... “Trẻ ranh”! Cậu tưởng cái đứa trẻ ranh ấy lớn lên không thành tên kẻ cướp già ư? Thành quá đi chứ! Nhất là khi hắn nhớ lại đêm nay. Và rồi hắn sẽ “thương xót” bà con nông dân bọn tôi phải biết. Thả hắn ra, lập tức hắn sẽ lôi quan tòa về đây. Tôi với cậu sẽ lên giá treo cổ, Mikhalơ và anh em khác sẽ đi đầy biệt xứ. Khắp lãnh địa này sẽ đầu rơi máu chảy, chúng sẽ đánh đập bà con cho kỳ thịt nát xương tan.

– Tôi hiểu, - tôi đáp. – Phải không để thoát một tên nào. Tôi vừa mới nhớ đến anh Xvetilôvich. Phải gấp rút đến thanh toán nốt tên cuối cùng – lão Đubôtôpkơ.

– Thế thì được, - Rưgôrơ dịu giọng, lầu bầu. – Cậu dẫn bọn tôi đi.

Cả đoàn rầm rập theo tôi tiến về phía ngôi nhà của Đubôtôpkơ. Chúng tôi phóng nước đại, ngựa lao đi vùn vụt như bị sói đuổi. Ánh trăng lờ mờ chiếu xuống kỵ đội, thấp thoáng những tấm áo da lông thú, những ngọn đinh ba, những gương mặt lầm lì, những hình nhân ngất ngưởng trên lưng vài ba con ngựa. Chúng tôi phải vòng qua đồng lầy xung quanh rừng cấm Janốpxki. Tôi có cảm tưởng chúng tôi phải đi một chặng đường rất lâu mới thấy hiện ra trước mắt những tán lá um tùm của rặng cây già cạnh ngôi nhà Đubôtôpkơ. Trăng trải ánh sáng bạc lạnh lẽo lên khu trại. Mặc dù đêm đã khuya, trong ba ô cửa sổ vẫn sáng ánh đèn.

Cách nhà Đubôtôpkơ chừng ba chục mét, tôi hạ lệnh cho mọi người xuống ngựa, bao vây chặt ngôi nhà, cầm sẵn đuốc trong tay, nghe hiệu lệnh thì cùng đốt lên. Các lệnh đều được lặng lẽ chấp hành. Tôi leo qua một bờ rào thấp, tiến lên giữa những hàng cây táo đã rụng gần trụi lá, đứng chết lặng dưới ánh trăng mờ ảo.

– Ai ở lại giữ ngựa? – tôi hỏi Rưgôrơ, anh vẫn luôn bám sát theo tôi.

– Một cậu trai trẻ. Có gì hắn sẽ báo động cho bọn ta. Hắn hút còi mồm kêu to lắm, chẳng kém gì Họa mi – côn đồ [36], đến lũ ngựa nghe tiếng cũng khuỵu gối.

Chúng tôi rón rén bước, giày ủng nhẹ nhàng đạp lên mặt đất đẫm sương đêm. Tôi đến bên cửa sổ: Đubôtôpkơ đang bồn chồn đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc lại nhìn đồng hồ treo trên tường.

Tôi không thể nhận ra lão nữa. Trước mắt tôi là một Đubôtôpkơ khác hẳn, và tất nhiên ở đây, khi chỉ còn một mình giáp mặt với mình, lão mới lộ rõ chân tướng. Đã biến mất tăm vẻ hiền từ, chân thành và trìu mến, cũng chẳng còn thấy đâu gương mặt khỏe khoắn và tươi rói của một ông già Nôen. Đubôtôpkơ trước mắt tôi có bộ mặt vàng võ, hai mép trệ hẳn xuống, hai bên cánh mũi hằn lên hai nếp nhăn. Cặp mắt sâu hoắm, ánh mắt đờ đẫn, u tối. Tôi thấy ghê rợn giống như cảm giác ghê rợn của người qua một đêm ngủ ngon trong chăn nệm êm ấm, sáng hôm sau phát hiện ra có con rắn chui vào sưởi ghé.

“Sao ta có thể vô tâm đến thế được?” – tôi hãi hùng thầm nghĩ.

Đúng, phải kết liễu lão ta càng sớm càng tốt. Một mình lão nguy hiểm hơn cả đội săn gộp lại. Thực may là trong cuộc ẩu đả đêm nọ tôi đã làm cho lão mất thả năng cưỡi ngựa trong một thời gian, nếu không chúng tôi sẽ gay go to. Lão nhất định sẽ không đâm đầu vào giữa làn đạn, sẽ không phân tán lực lượng mà sẽ tập trung vó ngựa đè bẹp tôi cùng đám Rưgôrơ như đè một lũ gà nhép, và hẳn giờ đây bọn tôi bị chọc mắt cắt tai, đang chìm sâu dưới đáy bãi thụt.

– Rưgôrơ, cử ngay lại đây độ bảy người. Cho họ phá cổng tiền, tôi sẽ thử bóc ván ở phía kho cỏ và bất ngờ tấn công lão từ phía sau lưng. Phải làm cho cùng một lúc.

– Hay là thử đóng giả làm đội săn, gõ cửa sổ. Lão mở cửa là ta chộp liền. Lão đuổi người nhà đi đâu cả rồi, chỉ có một mình thôi, - Rưgôrơ bàn.

– Không ăn thua. Lão già cáo lắm.

– Thf ta cứ thử xem. Đỡ tốn máu, cậu ạ...

Tôi lắc đầu:

– Coi chừng kẻo lại tốn máu hơn đấy, anh bạn ạ.

Anh em dắt ngựa đến gần hơn. Tôi mừng rỡ khi qua ô kính cửa sổ thấy nét mặt Đubôtôpkơ vụt rạng lên. Lão cầm nến tiến lại gần cửa, nhưng bỗng sững lại, mặt lộ rõ vẻ thắc mắc. Ngay tức khắc, lão tắt phụt cây nến, căn phòng lập tức tối om. Cơ mưu thế là đã bại lộ. Tôi hết to:

– Anh em! Phá cửa!

Lập tức, rộn lên tiếng chân chạy thình thịch, tiếng reo hò. Anh em mugik bắt đầu phá cửa bằng một vật gì đó rất nặng. Ngay lúc đó, vang lên một phát súng từ trên tầng nóc bắn xuống. Tiếp theo là một giọng hét to đầy tức tối:

– Quân chó má, nhâu nhâu quây tứ phía! Liệu hồn đấy. Sliăcta không bao giờ đầu hàng!...

Từ một cửa sổ khác, lại một quầng lửa tóe ra. Rõ ràng Đubôtôpkơ đang di chuyển từ ô cửa này sang ô cửa khác, nhả đạn ra tứ phía vào những người tấn công.

– Ô, lão có đến cả một kho súng chứ chả chơi, - Rưgôrơ nói nhỏ.

Một phát súng nữa ngắt lời anh. Chàng trai đứng cạnh tôi gục ngã, đạn xuyên thủng đầu. Đubôtôpkơ vốn bắn giỏi hơn cả tay thợ săn thiện xạ. Lại một phát súng nữa nổ vang. Tôi hét to:

– Nép vào tường. Đạn sẽ không trúng được.

Đạn do anh em mugik đứng nấp sau các gốc cây bắn ra tước từng miếng gỗ, từng mảng vôi vữa rơi tung tóe. Nhưng khó lòng mà xác định được Đubôtôpkơ sẽ xuất hiện ở ô cửa nào. Chiến thắng của chúng tôi nghe chừng sẽ hão huyền.

– Đốt đuốc! – tôi hạ lệnh. – Ném lên mái nhà.

Tức khắc, quanh ngôi nhà bùng lên đến ba chục ngọn lửa. Vài ba ngọn đuốc vạch một đường cung lửa, rơi xuống mái nhà. Nhựa thông cháy chảy lan dần xuống các ô cửa sổ. Tiếng Đubôtôpkơ gầm lên:

– Bốn chục thằng đánh một! Lại còn dùng lửa nữa! Cao thượng thế đấy!

– Câm họng đi! – tôi quát. Dễ thường thả hai chục tên côn đồ săn đuổi một người con gái thì cao thượng lắm đấy. Bọn đội săn của mi nằm cả đống dưới kia, dưới đáy bãi thụt ấy! Mi cũng sẽ phải xuống đó!

Đáp lại, một viên đạn đập cái chát vào tường, ngay cạnh đầu tôi.

Ngôi nhà của Đubôtôpkơ bốc lửa. Cố lùi ra xa tường, tôi lao về phía rặng cây và suýt chết: viên đạn của Quốc vương Xtác bay vèo ngay cạnh tai. Tóc tôi dựng ngược cả lên.

Lửa đã lan vào bên trong tầng nóc làm cho những khẩu súng nạp sẵn đạn bắt đầu nổ tung. Chúng tôi yên trí lùi xa ngôi nahf đang cháy đùng đùng như một bó duốc. Bỗng chàng trai đứng gác ngựa kêu thất thanh. Chúng tôi cùng nhìn về phía đó thì thấy Đubôtôpkơ chui từ dưới đất lên, cách ngôi nahf chừng trăm mét.

– Chà! – Rưgôrơ nghiến răng: - bọn ta quên mất là hang cáo bao giờ cũng có hai cửa.

Đubôtôpkơ đang cắm đầu chạy về phía Bãi thụt Khổng lồ. Tay phải lão buông thõng xuống, lủng lẳng. Có lẽ dẫu sao tôi cũng đã găm được vào hắn một viên đạn.

To béo như vậy mà không ngờ lão chạy đến nhanh. Tôi bắn theo một phát súng lục, nhưng cự ly đã quá xa. Một loạt súng kíp của anh em mugik nổ theo – vẫn không nước non gì. Đubôtôpkơ băng qua vạt cỏ nhỏ, nhảy đại xuống sình lầy và bắt đầu nhảy chuyền từ mô đất này qua mô đất khác như một con cào cào. Khi đã vượt qua khỏi vùng nguy hiểm, lão quay lại giơ nắm đấm lên dọa bọn tôi:

– Cứ chờ đấy, lũ chuột kia! – cái giọng khủng khiếp của lão vọng tới chỗ bọn tôi đang đứng. – Không một mống nào thoát tay tao đâu. Tao xin lấy danh dự sliăcta, lấy máu tao mà thề rằng tao sẽ cắt tiết tất cả bọn bay cùng lũ con cháu.

Chúng tôi đứng ngây cả ra. Nhưng ngay lúc ấy, một tiếng còi mồm rít lên lanh lảnh làm điếc cả hai tai tôi. Tôi thấy một chàng trai chọc mạnh cành cúc gai khô vào dưới đuôi một con ngựa. Lại một tiếng còi mồm lanh lảnh rít lên...

Cả bầy ngựa hí vang, chồm lên. Chúng tôi lập tức hiểu ra ý đồ của chàng trai, nhất loạt nhào đến cạnh lũ đrứctăng quất chúng tới tấp. Bầy ngựa hốt hoảng lao về phía Bãi thụt Khổng lồ. Trên lưng mấy con ngựa vẫn còn ngất ngưởng những thằng hình nhân giả dạng kỵ sĩ đội săn của Quốc vương Xtác.

Tiếng vó ngựa rầm rập xé toạc đêm thanh. Bầy ngựa phóng đi như điên. Đubôtôpkơ hẳn cũng hiểu ngay ra nguy cơ. Lão thét lên kinh hoàng, cắm đầu chạy. Bầy ngựa lập tức rượt theo vì chúng đã được chính kẻ đang bỏ chạy dạy cho biết săn đuổi người.

Chúng tôi đứng nhìn đội săn của Quốc vương Xtác, đã hầu như mất hết kỵ sĩ, lao đi như phát khùng, bờm ngựa phấp phới trong gió, vó ngựa hất tung tóe bùn lầy, và ở trên đỉnh đầu chúng rực sáng một ngôi sao cô đơn.

Ngắn dần! Ngắn dần! Khoảng cách giữa Đubôtôpkơ và bầy thú phát khùng cứ ngắn dần. Tuyệt vọng, lão già rẽ khỏi đường mòn, bầy ngựa điên khùng cũng rẽ theo.

Một tiếng kêu thất thanh đầy kinh hoàng vọng đến tai chúng tôi.

– Cứu tôi với! Ôi Quốc vương Xtác!...

Ngay khoảnh khắc ấy, chân lão già đang đà chạy thụt sâu xuống sình lầy, bầy ngựa đuổi kịp lão cũng theo đà lao xuống bãi thụt. Con đrứctăng đầu đàn đạp lên người Đubôtôpkơ, giẫm xuống mặt bùn hôi thối và cất tiếng hí vang rền. Sình lầy vang lên muôn tiếng ộp oạp.

– Quốc vương Xtác!... – Chỉ còn nghe vọng lại có vậy.

Sau đó, dưới sình lầy như có con quái vật khổng lồ trở mình, nuốt nước ừng ực. Cả người, cả ngựa đều đã mất hút, chỉ nghe tiếng những bong bóng nước to tướng tan vỡ xì hơi trên mặt sình lầy.

Ngôi nhà vẫn cháy đùng đùng như một cây đuốc lớn – ngôi nhà của “hiệp sĩ” cuối cùng, hiệp sĩ của cướp đêm và loài lang sói. Đám mugik mặc áo da lông thú lộn trái, tay nắm chắc những cây đinh ba, đứng lặng lẽ quanh ngôi nhà. Một ráng đỏ chập chờn hắt lên người họ.

[35] Biệt hiệu của gã “đại hảo hán” Bêlôruxia thời quốc vương Alêchxanđrơ. (1461-1506) một nhân vật nửa thực nửa huyền thoại. – (chú thích của tác giả).

[36] Một nhân vật trong thần thoại Nga (N.D.)