← Quay lại trang sách

Chương 1

Sáng sớm ngày 19 tháng 8 năm 1946, mẹ tôi - lúc ấy đã là góa phụ - sinh ra tôi vào một ngày trời trong sau cơn bão mùa hè dữ dội tại bệnh viện Julia Chester ở Hope, một thị trấn khoảng 6.000 dân ở tây nam bang Arkansas, cách biên giới bang Texas ở Texarkana 33 dặm về phía đông. Mẹ đặt tên cho tôi là William Jefferson Blythe III theo tên cha tôi, William Jefferson Blythe Jr., một trong chín người con của một nông dân nghèo ở Sherman, Texas. Ông nội tôi mất khi cha tôi mới 17 tuổi. Theo các cô tôi, cha tôi luôn cố chăm sóc họ, và lớn lên là một người đàn ông điển trai, chăm chỉ và ưa vui nhộn. Ông gặp mẹ tôi trong bệnh viện Tri-State ở Shreveport, bang Louisiana vào năm 1943 khi bà đang tập sự làm y tá. Sau này khi lớn lên, tôi đã nhiều lần đòi mẹ kể lại chuyên hai ông bà gặp nhau ra sao, yêu nhau, hẹn hò và lấy nhau thế nào. Hồi đấy cô bạn ông đang hẹn hò bị bệnh gì đó, ông chở cô này vào bệnh viện nơi mẹ tôi làm việc, họ nói chuyện và tán tỉnh nhau trong lúc cô kia được điều trị. Trên đường ra khỏi bệnh viện, ông chạm vào ngón tay bà - lúc ấy đang đeo chiếc nhẫn của bạn trai bà - và hỏi bà đã có gia đình chưa. Bà ấp úng "chưa" - bà vẫn còn độc thân. Ngày hôm sau ông gửi hoa cho cô bạn kia làm tim bà tan nát. Sau đó ông gọi điện cho bà hẹn hò, giải thích rằng ông luôn gửi hoa mỗi khi ông muốn kết thúc mối quan hệ.

Hai tháng sau, họ lấy nhau và ông ra trận. Ông phục vụ tại một đội quân xa trong cuộc tấn công vào nước Ý chuyên lo sửa chữa xe jeep và xe tăng. Sau chiến tranh, ông trở về Hope và cùng mẹ chuyển đến Chicago, nơi ông trở lại công việc cũ là nhân viên bán hàng cho Công ty Thiết bị Manbee. Họ mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Forest Park nhưng mấy tháng sau cũng chưa dọn đến được và vì mẹ lại mang thai tôi, nên họ quyết định bà nên về ở Hope cho đến khi họ có thể chuyển đến nhà mới. Ngày 17 tháng 5 năm 1946, sau khi chuyển đồ đạc vào nhà mới, cha tôi lái xe từ Chicago về Hope để đón vợ mình. Khuya hôm đó, trên xa lộ 60 bên ngoài Sikeston, bang Missouri, ông lạc tay lái khi chiếc xe Buick đời 1942 của ông bể bánh trên đường trơn trượt. Ông bị tung ra khỏi xe và ngã vào, hoặc bò vào một mương thoát nước được đào để cải tạo đầm lầy. Cái mương này chỉ có một mét nước. Khi người ta tìm thấy ông sau hai giờ tìm kiếm, tay ông còn nắm chặt một cành cây ngay trên mặt nước. Ông đã cố nhưng không thể kéo mình lên được. Ông chết đuối năm mới 28 tuổi, mới lấy vợ được hai năm tám tháng, trong đó chỉ có bảy tháng ở bên vợ.

Những thông tin sơ sài ấy hầu như là tất cả những gì tôi biết về cha mình. Cả đời mình, lúc nào tôi cũng mong mỏi tìm cách lấp đầy thêm các khoảng trống thông tin về cha, bám víu vào từng tấm ảnh hay câu chuyên kể hay mẩu giấy tờ nào có thể cho tôi biết thêm về người đàn ông đã ban cho tôi cuộc sống.

Khi tôi khoảng 12 tuổi, đang ngồi ở thềm nhà ông bác Buddy tại Hope, một người đàn ông bước lên thềm, nhìn tôi và nói: "Cậu là con của Bill Blythe. Cậu trông giống cha như đúc". Thế là tôi sung sướng mấy ngày liền.

Năm 1974, tôi tranh cử vào quốc hội. Đó là lần ứng cử đầu tiên của tôi và tờ báo địa phương làm một phóng sự về mẹ tôi. Lúc bà đang ngồi trong quán cà phê quen thuộc vào buổi sáng và bàn luận về bài báo với một người bạn luật sư thì một người thường hay ăn sáng ở đó mà bà chỉ quen sơ bỗng lại gần và nói: "Tôi có mặt đêm hôm ấy, tôi là người đầu tiên đến bên xác chiếc xe ấy". Rồi ông ta kể cho bà nghe những gì ông ta thấy, có cả chuyên cha tôi còn giữ được đủ tình Ịáo hoặc bản năng sinh tồn để cố bám vào cành cây và ngoi mình khỏi mặt nước trước khi chết. Mẹ tôi cám ơn ông ta, đi ra xe và khóc, sau đó lau khô nước mắt và đi làm.

Năm 1993, vào Ngày của Cha đầu tiên khi tôi làm tổng thống, tờ Washington Post đăng một bài điều tra dài về cha tôi, sau đó hai tháng liền là các bài điều tra khác của hãng thông tấn AP và các báo nhỏ khác. Các bài báo này xác nhận những gì mà mẹ và tôi biết về cha. Chúng cũng đưa ra nhiều điều chúng tôi chưa biết, trong đó có chuyện cha tôi có lẽ đã có đến ba đời vợ trước khi gặp mẹ, và rõ ràng là có ít nhất hai người con.

Người con trai kia của cha tôi được xác định là Leon Ritzenthaler, ông chủ đã về hưu của một dịch vụ lao công ở bắc California. Trong bài báo, anh ấy nói đã viết thư cho tôi trong chiến dịch tranh cử năm 1992 nhưng không nhận được trả lời. Tôi không nhớ là đã nghe nói đến bức thư này, và trong lúc chúng tôi phải tránh mọi sự chỉ trích khi đó, có thể. nhân viên của tôi đã không cho tôi biết về bức thư ấy. Hoặc là bức thư đã bị thất lạc trong cả núi thư từ chúng tôi nhận được. Dù sao đi nữa, khi tôi đọc được tin về Leon, tôi đã liên lạc với anh và sau đó gặp anh cùng Judy - vợ anh - trong một lần dừng chân ở bắc California. Chúng tôi đã có một chuyến thăm vui vẻ và từ đấy chúng tôi vẫn liên lạc với nhau trong các dịp nghỉ lễ. Anh ấy và tôi trông giống nhau, giấy khai sinh của anh ấy đề tên cha anh chính là cha tôi. Tôi ước gì mình biết về anh ấy sớm hơn.

Cũng khoảng thời gian này, tôi còn nhận được thông tin xác nhận một số bài báo viết rằng con gái của cha tôi, Sharon Pettijohn, nhũ danh Sharon Lee Blythe sinh năm 1941 ở thành phố Kansas và có mẹ là người mà cha tôi đã ly dị sau đó. Chị ấy gửi cho Betsey Wright, cựu cố vấn trưởng của tôi ở văn phòng thống đốc, bản sao giấy khai sinh, giấy hôn thú của cha mẹ mình, một bức ảnh của cha tôi, và một bức thư của ông gửi cho mẹ chị ấy hỏi thăm về "con của chúng ta". Tôi lấy làm tiếc phải nói rằng vì lý do gì đó tôi chưa bao giờ gặp chị.

Tin tức vào năm 1993 này đến thật đột ngột với mẹ tôi, lúc ấy đang chống chọi với bệnh ung thư, nhưng bà đã can đảm chấp nhận. Bà nói những người trẻ tuổi làm nhiều việc trong thời kỳ Đại khủng hoảng và thời chiến tranh mà trong thời kỳ khác người ta không đồng tình. Điều quan trọng là cha tôi chính là tình yêu của đời bà và bà không hề hồ nghi gì về tình yêu của ông dành cho bà. Dù sự thật có thế nào, bà chỉ cần biết có thế khi cuộc đời của chính bà đang đi dần đến kết thúc. Còn với mình, tôi không chắc phải đón nhận những tin tức ấy như thế nào, nhưng xét lại đời mình, tôi cũng chẳng ngạc nhiên nếu cha mình phức tạp hơn cái hình ảnh lý tưởng về ông mà tôi đã ấp ủ hơn nửa thế kỷ qua.

Năm 1994, khi chúng tôi chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 50 ngày quân Đồng minh đổ bộ Normandy, nhiều tờ báo đăng tin về hồ sơ thời chiến của cha tôi, kèm ảnh ông mặc quân phục. Không lâu sau, tôi nhân được thư của ông Umberto Baron ở Netcong, bang New Jersey, kể lại kinh nghiệm thời chiến và sau đó của ông ấy. Ông nói rằng khi quân Mỹ đến ông ấy là một chú nhóc ở Ý, rất khoái đến trại lính Mỹ. Ở đó có một anh lính kết bạn với ông, hay cho kẹo và giảng giải về cách thức vận hành và sửa chữa máy móc. Lúc ấy ông chỉ biết anh lính kia tên Bill. Sau chiến tranh, Baron sang Mỹ, và nhờ cảm hứng mà anh lính Mỹ - người thường gọi Baron là "Nhóc GI Joe" - truyền cho, đã mở xưởng sửa xe hơi của riêng mình và lập gia đình. Ông nói với tôi là ông đã sống trong "giấc mơ Mỹ", làm ăn phát đạt và có ba con. Ông nói ông mang ơn người lính đó về những thành công trong đời mình, nhưng lúc bấy giờ đã không có dịp chào tạm biệt, và thường tự hỏi người lính ấy sau này ra sao. Rồi ông viết: "Vào Ngày chiến sĩ trận vong năm nay, khi tôi vừa uống cà phê vừa liếc qua tờ New York Daily News bỗng cảm thấy như bị sét đánh. Ở dưới góc trái của trang báo là bức ảnh của anh lính Bill. Tôi thấy ớn lạnh khi biết anh Bill đó chẳng phải ai khác mà lại chính là cha của Tổng thống Hoa Kỳ".

Năm 1996, các con của một trong các bà cô của tôi lần đầu đến Nhà Trắng để tham dự tiệc mừng giáng sinh gia đình hàng năm và tặng tôi một món quà: bức thư chia buồn cô tôi nhận đứợc của hạ nghị sĩ vĩ đại Sam Raybum1 sau khi cha tôi mất. Đó chỉ là một bức thư ngắn theo mẫu và có vẻ như là một bức thư được ký bằng máy theo kiểu thường thấy hồi đó, nhưng tôi vui sướng như một đứa trẻ lên sáu lần đầu được ông già Noel tặng bộ đồ chơi tàu hỏa vậy. Tôi treo bức thư trong văn phòng riêng của mình ở lầu hai Nhà Trắng, và hàng đêm vẫn nhìn ngắm nó.

Không lâu sau khi rời Nhà Trắng, lúc tôi đang lên máy bay hãng USAir từ Washington đi New York thì một nhân viên hàng không chặn tôi lại và nói cha kế của anh ta kể rằng ông ấy phục vụ trong chiến tranh cùng với cha tôi và rất thích cha tôi. Tôi hỏi số điện thoại và địa chỉ người cựu binh, anh nhân viên nói anh không có nhưng sẽ chuyển cho tôi sau. Tôi vẫn đang chờ, hy vọng sẽ có thêm một người nữa có liên hệ với cha tôi.

Vào cuối nhiệm kỳ tổng thông, tôi chọn một số nơi đặc biệt để đi chào tạm biệt và cảm ơn nhân dân Mỹ. Một trong những nơi ấy là Chicago, sinh quán của Hillary, nơi tôi gần như giành được vai trò ứng viên tổng thống của đảng Dân chủ vào Ngày lễ Thánh Patrick năm 1992; nơi có nhiều ủng hộ viên tích cực nhất của tôi và là nơi phần lớn các sáng kiến của tôi về chống tệ nạn, an sinh xã hội và giáo dục tỏ ra hiệu quả; và tất nhiên cũng là nơi cha me tôi chuyển đến ở sau chiến tranh. Tôi thường đùa với Hillary rằng nếu cha tôi không mất mạng trên xa lộ trơn trượt ở Missouri hồi xưa thì có lẽ tôi đã lớn lên cách Hillary có vài dặm và chắc chẳng bao giờ gặp được nhau. Điểm dừng chân cuối của tôi là khách sạn Palmer House, bối, cảnh của tấm ảnh cha mẹ chụp chung duy nhất mà tôi có - tấm ảnh, được chụp ngay trước khi mẹ tôi về lại Hope năm 1946. Sau khi diễn thuyết và chào từ biệt, tôi vào một phòng nhỏ và gặp một phụ nữ, bà Mary Etta Rees, cùng hai con gái của bà. Bà kể rằng bà đã cùng lớn lên, học cùng trường trung học với mẹ tôi, sau đó chuyển đến bang Indiana để làm việc trong ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh, lấy chồng, và ở lại đó nuôi con. Rồi bà ấy tặng tôi một món quà quý giá: bức thư của mẹ tôi hồi 23 tuổi, viết trong ngày sinh nhật của mình khoảng ba tuần sau khi cha tôi mất, hơn 54 năm trước. Hình ảnh mẹ thật tuyệt vời. Với nét chữ đẹp, bà viết về nỗi đau và sự quyết tâm tiếp tục sống: "Lúc ấy gần như không thể tin được, nhưng bạn biết đấy, mình đang có mang sáu tháng và ý nghĩ về đứa bé giúp mình tiếp tục sống và thực sự đã mở ra cả một thế giới trước mặt mình".

Mẹ tôi để lại cho tôi chiếc nhẫn cưới bà đã tặng cha cùng với một vài câu chuyện cảm động, và một ý thức chắc chắn rằng bà đã yêu thương tôi giùm cả phần cha tôi nữa.

Cha tôi để lại cho tôi cảm giác rằng tôi phải sống cho hai con người, và rằng nếu tôi sống tốt, thì bằng cách nào đó tôi có thể bù đắp lại cho cuộc đời lẽ ra ông đã phải có. Và kỷ niệm về ông nhắc nhở cho tôi, ở vào cái tuổi sớm hơn so với hầu hết. mọi người, về kiếp hữu sinh hữu tử của chính mình. Cái ý thức rằng cả tôi cũng có thể chết khi còn trẻ thúc đẩy tôi sống cho trọn mỗi giây phút cuộc đời và sẵn sàng tiếp đón thách thức to lớn phía trước. Ngay cả khi chưa rõ mình đang đi đâu, tôi vẫn luôn vội vã.

Chú thích:

1- Sam Rayburn (1882 - 1961) dân biểu bang Texas, chủ tịch hạ viện 17 năm kể từ 1940 (có gián đoạn bốn năm).