Chương 2
Tôi sinh trùng ngày sinh của ông ngoại, bị sinh non vài tuần, nặng khoảng 3,2kg, cao hơn sáu tấc. Mẹ và tôi về nhà ngoại trên phố Hervey ở Hope, nơi tôi sống bốn năm tiếp theo. Căn nhà ấy lúc đó với tôi thật khổng lồ và đầy bí ẩn, và cho tới nay vẫn còn lưu giữ những kỷ niệm sâu sắc. Người dân ở Hope đã quyên góp tiền phục chế nó và để đầy bên trong những hình ảnh, vật kỷ niệm cùng đồ đạc thời bấy giờ. Họ gọi là Nơi sinh Clinton. Đó chắc chắn là nơi tôi thức tình để bước vào cuộc sống - với mùi thức ăn đồng quê, với sữa trộn bơ, máy làm kem, ván giặt, và dây phơi quần áo; với bộ sách tập đọc vỡ lòng Dick and Jane; với những đồ chơi đầu tiên, có cả một đoạn dây xích tôi thích nhất, với những giọng nói kỳ lạ trên dây điện thoại tự chế, với những người bạn đầu tiên; và với công việc ông bà ngoại tôi làm.
Khoảng một năm sau, mẹ tôi quyết định phải quay về bệnh viện Charity ở New Orleans, nơi bà từng có lần thực tập làm y tá, để học làm chuyên viên gây mê. Trước đấy, các bác sĩ thường tự gây mê, vì thế người ta cần loại chuyên viên khá mới mẻ này, điều này giúp bà có thêm uy tín và kiếm thêm tiền cho chúng tôi. Nhưng chắc hẳn bà thấy khó khăn khi bỏ tôi ở nhà. Mặt khác New Orleans sau chiến tranh là một nơi kỳ thú, đầy người trẻ tuổi nhạc Dixieland, đầy những nơi cuốn hút như câu lạc bộ My-Oh-My, nơi nam giới mặc đồ phụ nữ nhảy nhót và hát như các quí cô dễ thương. Tồi nghĩ, với một góa phụ trẻ muôn vượt qua sự mất mát của mình, đó không phải là một nơi quá tồi.
Tôi được đi thăm mẹ hai lần cùng với bà ngoại bằng xe lửa đến New Orleans. Tôi chỉ mới ba tuổi, nhưng tôi nhớ rõ hai thứ. Thứ nhất là chúng tôi ở khu vực tầng cao của khách sạn Jung, đối diện khu phố Pháp bên kia đường Canal. Đó là tòa nhà có hơn hai tầng lầu đầu tiên tôi từng ở, trong thành phố thực sự đầu tiên tôi được thấy. Tôi còn nhớ cảm giác kinh ngạc khi nhìn cảnh thành phố lên đèn vào ban đêm. Tôi không nhớ rõ mẹ và tôi làm gì ở New Orleans, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được lần tôi lên tàu rời thành phố. Khi tàu bắt đầu lăn bánh khỏi ga, mẹ quỳ xuống bên cạnh đường ray và vừa khóc vừa vẫy. Tôi vẫn còn có thể nhìn thấy bà như vậy, vừa quỳ vừa khóc, như thể vừa mới hôm qua.
Trong hơn 50 năm kể từ chuyến đi đầu tiên ấy, New Orleans luôn đặc biệt cuốn hút tôi. Tôi thích âm nhạc, thức ăn, con người và tinh thần của thành phố này. Khi tôi 15 tuổi, gia đình tôi đi nghỉ ở New Orleans và vùng Gulf Coast, và tôi được nghe tay kèn trumpet vĩ đại AI Hirt chơi trong câu lạc bộ cửa ông. Ban đầu họ không cho tôi vào vì chưa đủ tuổi. Khi mẹ và tôi định bỏ đi thì người gác cửa bảo rằng ông Hirt đang ngồi đọc trong xe của ông ấy ngay góc đường, và chỉ có ông ta mới cho tôi vào được. Tôi tìm ra ông ấy, trong chiếc Bentley đường hoàng, gõ lên cửa kính xe, và trình bày hoàn cảnh. Ông ấy bước ra, đưa mẹ và tôi đến câu lạc bộ, và cho chúng tôi ngồi bàn gần sân khấu. Ông cùng ban nhạc chơi một buổi diễn tuyệt vời - đó là buổi nghe nhạc jazz "sống" đầu tiên của tôi. AI Hirt mất khi tôi làm tổng thống. Tôi gửi thư cho vợ ông và kể lại chuyên này, bày tỏ lòng biết ơn đối với sự tốt bụng từ xa xưa mà con người vĩ đại ấy đã dành cho một cậu bé.
Khi học trung học, tôi chơi độc tấu kèn saxo một bài về New Orleans có tên Cresent City Suite - Căn hộ thành phố lưỡi liềm. Tôi nghĩ tôi đã chơi khá hay vì tôi chơi với những kỷ niệm về lần đầu tôi nhìn thấy thành phố này. Năm 21 tuổi, tôi được học bổng Rhodes ở New Orleans. Có lẽ tôi thành công trong cuộc phỏng vấn xin học bổng vì tôi cảm thấy thoải mái như ở nhà tại đây. Khi tôi còn là giáo sư luật trẻ, Hillary và tôi đã đi New Orleans vài lần thật'tuyệt để dự hội thảo, ở tại một khách sạn kiểu cổ nho nhỏ trong khu phố Pháp - khách sạn Cornstalk. Khi tôi làm Thống đốc bang Arkansas, đội bóng tiểu bang đã thi đấu ở sân Sugar Bowl ở đây, và thua đội bang Alabama trong một trong những chiến thắng vĩ đại cuối cùng của Bear Bryant huyền thoại. ít ra thì cũng có điều an ủi rằng ông ấy cũng sinh ra và lớn lên ở Arkansas! Khi tôi ra tranh cử tổng thống, nhân dân New Orleans đã hai lần làm nên chiến thắng thuyết phục, cho tôi, đảm bảo số phiếu cử tri đoàn của tiểu bang Louisiana cho chúng tôi.
Bây giờ tôi đã từng đến phần lớn các thành phố tuyệt nhất thế giới, nhưng New Orleans sẽ mãi mãi đặc biệt - với cà phê và beignet1 ở quán Morning Call bên bờ Mississippi; với âm nhạc của Aaron và Charmaine Neville; với những ông cụ ở Cung bảo tồn, và, với kỷ niệm về Al Hirt, về những buổi sáng chạy bộ xuyên qua khụ phố Pháp, về những bữa ăn tuyệt hảo ở các nhà hàng với Johni Breaux, cảnh sát trưởng Harry Lee và các bạn bè khác; và trên hết, với những kỷ niệm về mẹ tôi. Chúng chính là những nam châm hút tôi xuôi dòng Mississippi về New Orleans.
Khi mẹ tôi còn ở New Orleans, tôi được ông bà chăm sóc. Họ cực kỳ tử tế với tôi. Họ yêu tôi nhiều, và thật buồn là nhiều hơn cả họ yêu nhau; bà tôi cũng thương tôi hơn thương mẹ. Nhưng may thay là lúc bấy giờ tôi không hề biết tất cả những chuyện đó. Tôi chị biết là mình được yêu thương. Sau này, khi tôi quan tâm đến trẻ em lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn và tìm hiểu cách nuôi dạy trẻ qua công việc của Hillary ở Trung tâm nghiên cứu trẻ em Đại học Yale, tôi mới biết mình đã may mắn đến thế nào. Dù họ có thói tật gì đj nữa, ông bà và mẹ tôi lúc nào cũng làm tôi cảm thấy đối với họ tôi là nhất trên đời. Phần lớn trẻ em khác.
Ngoại tôi, Edith Grisham Cassidy, chỉ cao hơn l,50m và nặng khoảng 90kg. Ngoại rất thông minh, kiên quyết và ngang ngạnh, và rõ ràng là hồi trẻ cũng xinh đẹp. Bà có nụ cười tuyệt vời, nhưng bà cũng hay thịnh nộ, thất vọng hoặc bị ám ảnh điều gì đó mà chỉ có bà mới hiểu. Bà hay trút giận vào ông ngoại và mẹ tôi, cả trước lẫn sau khi tôi ra đời, nhưng tôi thì được bà chừa ra. Hồi xưa bà học giỏi và có tham vọng, nên sau trung học bà theo một khóa đào tạo hàm thụ y tá ở trường Y tá Chicago. Lúc tôi chập chững biết đi, bà đang làm y tá riêng cho một ông ở gần nhà chúng tôi trên phố Hervey. Tôi vẫn còn nhớ mình hay chạy xuống phố đón bà đi làm về.
Mục tiêu của bà ngoại đối với tôi là làm sao tôi phải ăn thật nhiều, học thật nhiều và lúc nào cũng sạch sẽ gọn gàng. Chúng tôi ăn ở một cái bàn trong bếp cạnh cửa sổ. Cái ghế cao của tôi đối diện với cửa sổ, và ngoại hay xếp mấy lá bài lên bệ cửa sổ để tôi vừa ăn vừa học đếm. Ngoại bữa nào cũng ép tôi ăn nhiều, vì hồi đó người ta tin rằng mấy đứa trẻ càng khỏe càng thông minh, miễn là ngày nào cũng phải tắm. Ít nhất một lần trong ngày, bà đọc cho tôi nghe từ những cuốn tập đọc Dick an Jane cho đến khi tôi tự đọc được. Ngoại còn đọc cả World Book Encyclopedia - Bách khoa toàn thư thế giới cho tôi, loại sách mà hồi đó mấy ông bán hàng rong đi bán từng nhà một và trở thành cuốn sách thứ nhì thường thấy nhất sau cuốn Kinh thánh trong nhà dân lao động. Những bài học từ rất sớm này giải thích vì sao tôi bây giờ thích đọc sách, chơi bài, chăm sóc đến cân nặng của mình và không bao giờ quên rửa tay và đánh răng.
Tôi rất yêu ông ngoại - nguồn ảnh hưởng nam tính đầu tiên trong đời tôi - và tự hào rằng mình sinh trùng ngày sinh của ông. James Eldridge Cassidy người mảnh khảnh, khoảng l,80m, nhưng lúc đấy vẫn còn khỏe mạnh và đẹp trai. Tôi vẫn luôn nghĩ ông trông giống tài tử Randolph Scott.
Khi ông bà tôi từ Bodcaw chuyển đến Hope, một nơi chỉ có vài trăm dân, ông tôi làm nghề đánh xe ngựa giao đá cho một xưởng sản xuất đá lạnh. Hồi đó, tủ lạnh trong nhà chỉ là dạng tủ đá, được giữ lạnh bằng mấy cục đá đủ kích cỡ tùy theo cỡ tủ. Dù chỉ nặng khoảng 75kg nhưng ông tôi có thể vác những súc đá nặng 50kg hoặc hơn, dùng hai cái móc sắt kéo lên lưng có lót sẵn một miếng da lớn.
Ông tôi là một người cực kỳ tốt bụng và rộng rãi. Trong thời Đại khủng hoảng, lúc mà chẳng ai có tiền, ông hay cho mấy chú nhóc cùng đánh xe chở đá để chúng khỏi lang thang ngoài phố. Nhờ thế mà mỗi chú nhóc kiếm được 25 xu mỗi ngày. Năm 1976, khi tôi tranh cử chức Bộ trưởng tư pháp ở Hope, tôi có| nói chuyện với một trong mấy chú nhóc này, nay là thẩm phán John Wilson, Chú nhóc ấy nay đã thành một luật sư đáng kính và thành công, nhưng vẫn còn nhớ rất rõ những ngày xưa. Ông ấy kể với tôi là có một lần khi ông tôi đưa 25 xu tiền công nhật, ông đã đề nghị ông tôi đưa hai đồng 10 xu và một đồng năm xu chỉ để cố cảm giác rằng mình có nhiều tiền. Ông tôi chiều theo, và cậu bé vừa đi về nhà vừa xóc mấy đồng xu leng keng trong túi. Nhưng cậu xóc mạnh quá, đến nỗi một đồng 10 xu văng ra ngoài. Thế là cậu bỏ hàng giờ ra để tìm lại mà không được. Bốn mươi năm sau, ông thẩm phán nói rằng mỗi lần đi ngang đoạn phố ấy ông đều để ý tìm lại xem đồng xu kia còn đó không.
Thật khó mà giảng giải cho thanh niên thời nay về ảnh hưởng của thời kỳ Đại khủng hoảng đối với thế hệ ông bà và cha mẹ tôi nhưng tôi lớn lên và cảm thấy rõ ảnh hưởng này. Một trong những chuyện đáng nhớ nhất thời thơ ấu của tôi là chuyện mẹ tôi kể về Ngày thứ sáu tuần thánh trong thời Đại khủng hoảng, khi ông tôi một hôm đi làm về và khóc, nói rằng ông không làm sao kiếm được khoảng một đôla để mua váy mới cho mẹ mặc lễ Phục sinh. Mẹ tôi không bao giờ quên chuyện đó, và mỗi mùa Phục sinh tôi lại được cho một bộ cánh mới, dù muốn dù không. Tôi nhớ một lễ Phục sinh những năm 50, lúc ấy tôi đang mập và có ý thức về chuyên này. Tôi đi nhà thờ trong bộ trang phục áo màu sáng tay ngắn, quần lanh trắng, giày Hush Puppies hai màu hồng đen, và một thắt lưng màu hồng. Thật đau khổ, nhưng mẹ tôi lúc nào cũng theo đúng thông lệ mua đồ mới vào dịp Phục sinh của ông tôi.
Khi tôi ở chung với ông, ông làm hai nghề mà tôi rất khoái trông coi một tiệm tạp hóa nhỏ, và kiếm thêm bằng cách nhận một chân bảo vệ ban đêm ở xưởng cứa. Tôi rất thích cùng trực đêm với ông ở xưởng. Chúng tôi hay đem theo bánh mì kẹp đựng trong túi giấy để ăn khuya, còn tôi thì hay ngủ ở băng ghế sau xe hơi. Vào những đêm trăng sáng, tôi hay trèo lên đống mùn cưa, hít cái mùi bí ẩn của gỗ mới xẻ và mùn cưa. Ông tôi cũng thích làm việc ở đó. Như thế, ông có thể ra khỏi nhà và nhắc ông nhớ lại thời từng làm việc ở nhà máy hồi mới sinh mẹ tôi. Ngoại trừ lần vì tối quá ông tồi đóng cửa xe kẹp vào ngón tay tôi, còn thì những đêm đi trực đó là những chuyên phiêu lưu tuyệt hảo.
Tiệm tạp hóa lại là một kiểu phiêu lưu khác. Trước tiên/ trên quầy trong tiệm có một hũ kẹo Jackson khổng lồ, và tôi hay khua khoắng. Kế đến là khách hàng toàn là những người lớn mà tôi không biết, và lần đầu tiên tôi tiếp xúc với người lớn không phải là ruột thịt của mình. Thứ ba là rất nhiều khách hàng của ông tôi là người da đen. Dù miền Nam nước Mỹ hồi đó nạn phân cách vẫn bao trùm, nhưng ở những thành phố nhỏ hoặc nơi thôn quê vẫn luôn có những giao tiếp đa chủng tộc. Dù vậy, rất hiếm khi mới gặp được một nông dân miền Nam ít học nào mà lại không có tí máu kỳ thị trong người. Ông tôi lại chính là người hiếm có ấy. Tôi có thể nhận thấy người da đen bề ngoài trông khác, nhưng vì ông tôi đối xử với họ như với mọi người khác, hay hỏi thăm con cái và công việc của họ, nên tôi nghĩ họ cũng y như mình. Thỉnh thoảng, mấy chú nhóc da đen hay vào tiệm và chúng tôi cùng chơi chung. Phải nhiều năm sau tôi mới biết đến nạn kỳ thị, định kiến và ý nghĩa của sự nghèo khổ; phải nhiều năm sau tôi mới biết phần lớn người da trắng không như ông và bà tôi, người vốn ít khi đồng tình với ông tôi nhưng lại cùng quan điểm về chủng tộc. Thực ra, mẹ tôi kể rằng có lần mẹ bị đòn quắn đít hồi mới ba, bốn tuổi, bà đã gọi một phụ nữ da đen là "mọí đen". Nói một cách nhẹ nhàng thì việc bà ngoại đánh đòn mẹ lần ấy là một cách ứng xử rất bất thường của một phụ nữ da trắng ở nông thôn miền Nam hồi những năm 20.
Mẹ tôi có lần kể rằng sau khi ông mất, mẹ tìm thấy một cuốn sổ kế toán trong tiệm tạp hóa của ông, trong đó ghi nhiều nợ chưa trả, phần lớn của khách hàng người da đen. Mẹ nhớ lại là ông bảo với mẹ rằng những người tốt đã cố gắng hết mình đáng được quyền nuôi sống gia đình, và dù có kẹt đến đâu đi nữa thì ông cũng không bao giờ từ chối cho họ mua thiếu. Có lẽ vì thế mà tôi luôn tin tưởng vào tem phiếu thực phẩm..
Sau khi thành tổng thống, tôi lại được nghe kể về tiệm tạp hóa của ông tôi. Năm 1997, một phụ nữ Mỹ gốc Phi, Ernestine Campbell, trả lời phỏng vấn báo dịa phương ở Toledo, bang Ohio, về chuyện ông của bà hay đem bà cùng đến mua chịu thức ăn tại tiệm của ông tôi. Bà ấy nói bà còn nhớ có chơi cùng với tôi, và rằng tôi là "nhóc da trắng duy nhất trong xóm chơi với trẻ con da đen". Nhờ ông ngoại mà tôi chẳng bao giờ biết mình là đứa nhóc da trắng duy nhất làm việc đó.
Ngoài tiệm tạp hóa của ông tôi, xóm tôi ở cũng là nơi cho tôi tiếp xúc với người ngoài gia đình. Tôi đã chứng kiến nhiều điều trong khu vực nhỏ hẹp ấy. Tôi thấy một căn nhà bên kia đường cháy rụi, và hiểu rằng tôi không phải là người duy nhất phải gánh chịu những điều tồi tệ. Tôi kết bạn với một cậu bé thích sưu tập những con vật kỳ lạ, và một lần cậu mời tôi qua xem con rắn của cậu. Cậu bảo rắn bị nhốt trong tủ. Thế rồi cậu ấy mở cửa tủ, đẩy tôi vào, đóng cửa lại, bảo là tôi đang ở trong bóng tôi một mình với con rắn. Thực ra rất may là không phải thế, nhưng tôi sợ chết khiếp. Tôi hiểu ra rằng cái mà kẻ mạnh cho là buồn cười đôi khi lại rất tàn bạo và nhục nhã đối với kẻ yếu.
Cách nhà của chúng tôi một dãy phố có một cầu chui xe lửa, hồi đấy làm bằng những súc gỗ trét nhựa đường. Tôi thích bám lên mấy súc gỗ đó, lắng nghe xe lửa rầm rập chạy bên trên và tự hỏi tàu chạy đi đâu và tôi có bao giờ đi đến đó không.
Và tôi hay chơi trong sân sau với một cậu có sân nhà kế liền bên. Cậu ấy ở cùng với hai bà chị xinh đẹp trong một căn nhà to và đẹp hơn nhà chúng tôi. Chúng tôi thường ngồi trên cỏ hàng giờ, tập phóng dao sao cho cắm dính xuống đất. Tên cậu ấy là Vince Foster. Cậu ấy tốt với tôi và không bao giờ lên mặt kẻ cả như mấy đứa lớn thường làm với bọn nhóc nhỏ tuổi hơn. Sau này cậu ấy trở thành một người đàn ông cao lớn, đẹp trai, thông minh và tốt bụng. Cậu ấy trở thành một luật sư tuyệt vời, một ủng hộ viên mạnh mẽ cho sự nghiệp của tôi hồi mới đầu, và là bạn thân của Hillary ở Công ty luật Rose. Gia đình hai chúng tôi thăm hỏi qua lại ở Little Rock, chủ yếu là ở nhà cậu ấy, nơi vợ cậu ấy - Lisa - đã dạy Chelsea bơi. Cậu ấy đến thăm tôi ở Nhà Trắng, và là một tiếng nói bình tĩnh, tỉnh táo trong vài tháng đầu tiên căng thẳng của chúng tôi ở đó.
Có một người khác ngoài gia đình có ảnh hưởng đến tôi trong thời thơ ấu. Odessa là một phụ nữ da đen đến giặt giũ, dọn dẹp nhà chúng tôi và trông coi tôi khi ông bà tôi đi làm. Răng của bà to và vuông, làm tôi thấy nụ cười của bà càng rạng rỡ và đẹp hơn. Tôi vẫn liên lạc với bà nhiều năm sau khi rời Hope. Năm 1966, tôi và một người bạn đi thăm Odessa sau khi thăm mộ cha và ông tôi. Phần lớn người da đen ở Hope sống gần khu nghĩa trang, ngay bên kia con đường đối diện với tiệm tạp hóa của ông tôi. Tôi còn nhớ chúng tôi ngồi ở thềm nhà của Odessa khá lâu. Khi đến lúc phải đi, chúng tôi lên xe và lái đi trên con đường đất bụi bặm. Những con đường đất duy nhất tôi thấy ở Hope, hoặc sau đó ở Hot Springs khi tôi chuyển đến đó, đều nằm ở khu da đen, đầy những người làm việc chăm chỉ, nuôi những đứa con như tôi, và đều đóng thuế. Odessa đáng được hưởng điều tốt đẹp hơn thế.
Những nhân vật lớn trong thời thơ ấu của tôi là họ hàng thân thích: các cụ ngoại, dì của mẹ tôi Otie, cậu của mẹ tôi Carl Russel, và trên hết là bác của mẹ tôi Oren - còn được gọi là Buddy, cũng là một trong những điểm sáng của đời tôi - và vợ của bác, dì Ollie.
Dòng họ Grisham của các cụ tôi sống trong một căn nhà nhỏ xây nổi trên mặt đất ở nông thôn. Vì bang Arkansas có nhiều lốc xoáy hơn hầu như bất cứ nơi nào khác ở Mỹ nên phần lớn những ai xây nhà kiểu này đều đào một cái hầm để trú bão. Cái hầm của các cụ tôi ở sân trước, có một cái giường nhỏ, một cái bàn nhỏ, trên đó để một đèn đốt dầu và than. Tôi còn nhớ có lần nhìn vào cái chỗ chật hẹp đấy và cụ tôi bảo "ừ, thỉnh thoảng cũng có rắn chui xuống dưới đấy nhưng nếu còn để đèn thì nó không cắn cháu đâu". Tôi chẳng bao giờ biết điều này có thật hay không. Kỷ niệm còn lại của tôi về cụ tôi là lần ông đến thăm tôi ở bệnh viện khi tôi bị gãy chân lúc lên năm. Cụ cầm tay tôi và chụp hình chung. Cụ mặc chiếc áo sơmi trắng cài kín nút đến tận cổ và một áo khoác đen giản dị, trông già cỗi như những ngọn đồi và cứ như thể vừa bước ra từ trang sách American Gothic vậy.
Chị của bà ngoại tôi Opal - chúng tôi gọi bà là Otie - là một phụ nữ dễ coi có giọng cười tuyệt vời đặc trưng của dòng họ Grisham; yà người chồng Carl kín tiếng của bà là người đầu tiên tôi biết có rồng dưa hấu. Đất cát được sông bồi đắp xung quanh Hope thật lý tưởng với dưa hấu, và kích cỡ dưa Hope trở thành thương hiệu của thành phố vào đầu thập niên 50, khi người dân ở đây gửi cho Tổng thống Truman quả dưa to nhất tính đến thời điểm đó, gần 100kg. Tuy nhiên, dưa ngon chỉ khoảng 30kg hoặc ít hơn. Chính ông Carl trồng loại dưa này, hay tưới nước từ bồn xuống đất quanh mấy quả dưa và xem mấy cái rễ hút nước y như máy hút bụi vậy. Khi tôi thành tổng thống, anh họ của ông Carl vẫn còn quầy bán dưa hấu ở Hope và bạn có thể mua dưa đỏ hoặc thứ dưa vàng ngọt hơn.
Hillary nói rằng lần đầu tiên cô ấy gặp tôi, tôi đang đứng ở sảnh của khoa Luật Đại học Yale và khoe khoang về kích cỡ của dưa hấu Hope cho mấy ông bạn sinh viên đang lắng nghe đầy nghi hoặc. Khi tôi làm tổng thống, bạn cũ của tôi ở Hope mở tiệc đãi dưa hấu ở Bãi cỏ phía Nam Nhà Trắng, và tôi lại được dịp kể chuyên dưa cho một thế hệ mới, những người trẻ tuổi giả vờ tỏ ra thích thú đến đề tài mà tôi biết từ lâu qua ông bà Otie và Carl.
Anh của bà tôi, Buddy, và vợ ông, Ollie, là những thành viên chính của đại gia đình chúng tôi. Buddy và Ollie có bốn người con, trong đó ba người đã đi khỏi Hope khi tôi đến đây. Bác Dwayne làm điều hành cho một xưởng sản xuất giày ở New Hampshire. Các bác Cònrad và Falba lúc bấy giờ ở Dallas, nhưng thường về thăm và nay đã chuyển về ở Hope. Bác út Myra làm nghề rodeo - cưỡi bò. Bà bác này có thể cưỡi ngựa như một tay chuyên nghiệp, nhưng sau đó bỏ nhà đi theo một tay chăn bò, có hai con, ly dị, rồi về nhà lại, và điều hành cơ quan quản lý gia cư địa phương. Myra và Falba là hai phụ nữ tuyệt vời, cho dù khổ đến đâu vẫn có thể mỉm cười và không bao giờ bỏ rơi bè bạn, gia đình. Tôi mừng vì họ vẫn đang là một phần cuộc đời tôi. Tôi dành nhiều thời gian ở nhà bác Buddy và Ollie, không chỉ trong bốn năm đầu đời, mà còn trong suốt 40 năm sau cho đến khi bác Ollie mất, bác Buddy bán nhà về ở với bác Falba.
Cuộc sống xã hội trong đại gia đình tôi, cũng giống như phần lớn người nghèo khó ở nông thôn, xoay quanh các bữa ăn, bàn tán và kể chuyên. Họ không đủ tiền đi nghỉ, cũng hiếm khi đi xem phim, và mãi cho đến giữa cuối thập niên 50 mới có tivi. Họ chỉ đi chơi vài lần trong năm - đi hội chợ huyện, hội dưa hấu, thỉnh thoảng đi vũ hội hoặc xem hát đồng ca nhà thờ. Đàn ông thì đi săn, câu cá,trồng rau và dưa hấu trên những mảnh đất ngoài đồng mà họ vẫn giữ khi chuyển vào thành phố làm việc.
Dù không dư dả gì nhưng họ chẳng bao giờ cảm thấy nghèo miễn là họ có một căn nhà gọn gàng, quần áo sạch, và đủ thức ăn để đãi bất cứ ai đến thăm. Họ làm việc để sống, chứ không phải sống để làm việc.
Những bữa ăn ưa thích thời thơ ấu của tôi là ở nhà ông bà Buddy và Ollie, quây quần quanh cái bàn lớn trong căn bếp nhỏ của họ. Thường thì một bữa ăn trưa (mà chúng tôi gọi là bữa chiều, còn bữa vào buổi tối thì gọi là bữa chính) cuối tuần có thịt heo hoặc thịt rôti, bánh ngô, xà lách hoặc rau xanh, khoai tây nghiền, khoai lang, đậu, đậu xanh, bánh trái cây và rất nhiều loại trà đá mà chúng tôi uống bằng những cốc vại khổng lồ. Được uống bằng mấy cái vại đó làm tôi cảm thấy mình người lớn hơn. Trong những dịp đặc biệt, chúng tôi ăn kem nhà làm cùng với bánh. Mỗi khi đến sớm, tôi hay phụ nấu ăn, tước vỏ đậu hoặc quay tay cầm của máy làm kem. Trước, trong và sau bữa ăn lúc nào mọi người cũng nói chuyện: tán gẫu chuyện xóm làng, chuyện gia đình, và kể rất nhiều chuyện. Họ hàng tôi ai cũng biết kể chuyện, làm cho những sự việc đơn giản, những lần gặp gỡ và cả những điều rủi xung quanh cuộc sống bình thường trở nên sống động, đầy kịch tính và tiếng cười.
Ông Buddy là người kể chuyện hay nhât. Giông như hai chị mình, ông Buddy rất thông minh. Tôi thường tự hỏi không biết họ sẽ thế nào nếu được sinh ra vào thế hệ của tôi hoặc của con gái tôi. Nhưng hồi đó cũng có nhiều người như họ. Ông thợ bơm xăng cho bạn có lẽ cũng có chỉ số IQ cao bằng bác sĩ cắt amiđan cho bạn. Ở Mỹ còn nhiều người giống như dòng họ Grisham; nhiều người trong số này là dân nhập cư, và vì thế khi làm tổng thống tôi cố gắng mở rộng cửa các trường đại học cho tất cả những ai muốn đến.
Dù học vấn hạn chế, ông Buddy đầu óc minh mẫn và có hiểu biết của một tiến sĩ về bản chất con người, nhờ vào một đời quan sát tinh tường và phải đối phó với những thói tật của chính mình cũng như gia đình ông. Hồi mới cưới vợ ông có tật nhậu nhẹt. Một hôm ông về nhà và nói với vợ rằng việc nhậu nhẹt của ông làm hại đến vợ con và gia đình, rồi hứa sẽ không uống nữa. Và đúng như vậy, ông bỏ nhậu cho đến hơn 50 năm sau.
Sau này khi đã ngoài 80, ông Buddy vẫn có thể kể những chuyên hấp dẫn về tính cách những chú chó ông nuôi cách đó năm hay sáu thập kỷ. Ông nhớ tên, hình dáng, các thói quen riêng của chúng cách ông nuôi chúng và cách chúng tha chim bị bắn hạ về cho ông. Nhiều người hay đến chơi với ông và ngồi ở bậc thềm nhà. Sau khi họ về, ông hay kể chuyện về họ hoặc con cái họ - lúc thì vui, lúc thì buồn, thường là với thái độ thông cảm và luôn luôn thấu hiểu.
Tôi học được nhiều điều từ những chuyện mọi người kể; rằríg không có ai hoàn hảo cả nhưng phần lớn con người là tốt; rằng không thể phán xét người ta khi họ đang trong những giờ khắc khó khăn và yếu đuối nhất; rằng những xét đoán khắc nghiệt ấy có thể biến tất cả chúng ta thành bọn đạo đức giả; rằng một phần lớn của cuộc sống là phải có mặt và phải cố gắng; rằng tiếng cười thường là cách ứng phó tốt nhất, và đôi khi là duy nhất, trước những nỗi đau. Có lẽ quan trọng nhất là tôi hiểu được rằng mỗi người đều có một câu chuyện - về giấc mơ và ác mộng, về hy vọng và khổ đau, về tình yêu và mất mát, về lòng dũng cảm và sự sợ hãi, về sự hy sinh và tính ích kỷ. Suốt đời mình tôi luôn quan tâm đến câu chuyện của người khác. Tôi luôn muốn biết họ, hiểu họ và cảm thông với họ. Khi lớn lên và làm chính trị, tôi luôn cảm thấy mục đích chính của công việc của tôi là cho mọi người cơ hội để có được những câu chuyện đời tốt đẹp hơn.
Chuyện đời của ông Buddy hay cho đến khi kết thúc. Ông mắc bệnh ung thư phổi năm 1974, phải cắt một bên phổi nhưng vẫn sống đến năm 91 tuổi. Ông tư vấn cho tôi trong sự nghiệp chính trị, và nếu tôi nghe lời ông và bãi bỏ chính sách tăng lệ phí bảng số xe vốn làm mất lòng dân chúng thì có lẽ tôi đã không thua trong kỳ vận động tái cử thông đốc bang vào năm 1980. Khi tôi trúng cử tổng thống ông vẫn còn sống và rất hào hứng về chuyện đó. Sau khi bà Ollie mất, ông vẫn sống tích cực bằng cách thường đến tiệm bánh vòng của con gái mình Falba và lại làm say mê một thế hệ trẻ con mới bằng những chuyện kể và những quan sát khôn ngoan của mình về con người. Ông không bao giờ mất đi óc hài hước. Ngay cả khi đã 87 tuổi, hàng tuần ông vẫn lái xe đưa hai bà bạn, một bà 91 và bà kia 93, đi chơi riêng. Khi ông kể cho tôi nghe về chuyện "hò hẹn" này tôi hỏi: "Vậy bây giờ ông chuyển qua mấy phụ nữ lớn tuổi hơn mình à?". Ông cười tinh quái và bảo: " Ừ, đúng thế. Mấy bà này có vẻ trầm tĩnh hơn".
Trong suốt bao nhiêu năm ở cùng nhau, tôi chỉ thấy ông khóc có một lần. Lúc ấy bà Ollie bị bệnh Alzheimer (mất trí nhớ) và phải chuyển đến ở nhà dưỡng lão. Nhiều tuần sau đấy, hàng ngày có vài phút bà vẫn nhớ ra mình là ai. Trong những lúc tỉnh táo ấy, bà hay gọi điện cho ông Buddy và nói: "Này ông, sau 56 năm chung sống với nhau, sao ông lại để tôi trong cái chỗ này? Đến đón tôi về ngay". Ông cũng lái xe đến với bà, nhưng khi đến nơi thì trí nhớ của bà lại lạc vào trong mớ hỗn mang của bệnh tật và không nhận ra ông.
Vào một buổi xế chiều trong quãng thời gian này tôi có ghé thăm ông - chuyến thăm cuối cùng của chúng tôi ở căn nhà cũ. Tôi hy vọng làm ông vui lên. Thế mà, chính ông đã kể chuyên đùa và nhận xét thời sự hóm hỉnh làm tôi cười. Khi trời tối, tôi nói với ông tôi phải về nhà ở Little Rock. Ông tiễn tôi ra cửa, và khi tôi định bước ra ngoài, ông nắm lấy cánh tay tôi. Tôi quay lại và lần đầu tiên trong suốt gần 50 năm, tôi thấy mắt ông nhòa lệ. Tôi nói: "Thật khổ, phải không ông?". Tôi sẽ không bao giờ quên câu trả lời của ông. Ông mỉm cười và đáp: "Ừ, khổ thật, nhưng ta đã chấp nhận toàn bộ cả gánh, mà phần lớn gánh ấy là tốt". Ông Buddy dạy tôi rằng mỗi người đều có một câu chuyện. Ông đã kể câu chuyên đời mình trong vỏn vẹn một câu nói đó.
Chú thích:
1. Beignet: bánh bột chiên nhân thịt và trái cây.