← Quay lại trang sách

Chương 5

Thời gian này những phim tôi thích là những phim dựa theo các tích trong Kinh thánh: The Robe, Demetrius and The Gladiators, Samson and Delilah, Ben-Hur, và đặc biệt là phim The Ten Commandments - phim đầu tiên mà tôi dám bỏ hơn 10 xu để xem. Tôi xem The Ten Commandments khi bố và mẹ đi chơi ngắn ngày ở Las Vegas. Tôi đem theo cơm trưa trong hộp và ngồi lì xem liền hai suất. Nhiều năm sau, khi tôi mời Charlton Heston vào Nhà Trắng với tư cách người được Trung tâm Kennedy vinh danh, ông ấy là chủ tịch Hiệp hội súng trường quốc gia và người cực lực chỉ trích các nỗ lực lập pháp của tôi nhằm ngăn chặn súng lọt vào tay tội phạm hay trẻ em. Tôi nói đùa với ông ấy và cử tọa rằng tôi thích ông đóng vai Moses hơn là vai trò hiện nay của ông ấy. Thật may là ông ấy không giận vì lời nói đùa đó.

Năm 1957, hai lá phổi của ông ngoại tôi cuối cùng đã không chịu nổi nữa. Ông mất ở bệnh viện Ouachita, bệnh viện còn khá mới và là nơi mẹ làm việc. Ông mới 56 tuổi. Đời ông đã phải chịu quá nhiều nghèo khó, bệnh tật và cuộc sống hôn nhân không êm xuôi nhưng bất chấp khó khăn ông vẫn luôn tìm ra nhiều điều để an vui. Và ông yêu mẹ và yêu tôi hơn cả cuộc sống. Tình yêu của ông và những điều ông dạy tôi, chủ yếu bằng cách tự làm gương, rằng hãy quý trọng những món quà mà cuộc sống hàng ngày mang lại cũng như hãy hiểu những rắc rối của người khác - những điều ấy làm tôi nên người hơn là nếu không có ông.

Năm 1957 cũng là năm có sự kiện ở trường trung học Central High ở Little Rock. Vào tháng 9, chín học sinh da đen, được sự ủng hộ của Daisy Baites - chủ bút tờ Arkansas State Press (báo cho người da đen ở Little Rock), đã biến trường Central High thành trường trung học không phân cách màu da. Thống đốc Faubus, vì muốn phá vỡ thông lệ một thống đốc bang chỉ giữ chức hai nhiệm kỳ, đã từ bỏ truyền thống tiến bộ của gia đình mình (cha ông bỏ phiếu cho Eu­gene Debs, ứng viên tổng thống lâu năm của đảng Xã hội) và kêu gọi đưa Vệ binh quốc gia đến ngăn chặn mấy học sinh da đen kia nhập trường. Sau đó Tổng thống Dwight Eisenhower đặt Vệ binh quốc gia dưới sự chỉ huy của liên bang1 để bảo vệ các học sinh này, và khi đến trường họ phải đi xuyên qua những đám đông giận dữ gào thét những lời chửi rủa đầy tính kỳ thị chủng tộc. Phần lớn các bạn tôi hoặc chống lại chuyện học sinh nhiều mằu da học chung, hoặc có vẻ chẳng quan tâm gì. Tôi không nói gì nhiều về việc này, có thể vì gia đình tôi không liên quan đến chính trị lắm, nhưng tôi ghét việc Faubus làm. Thế nhưng dù ông Faubus đã gây tác hại lớn cho hình ảnh của tiểu bang, ông ta đã đảm bảo cho mình không chỉ trúng cử tiếp một nhiệm kỳ thứ ba, mà còn trúng thêm ba nhiệm kỳ nữa. Sau này ông ta cũng nhiều lần tranh cử trở lại với Dale Bumpers, David Pryor, và tôi, nhưng lúc ấy tiểu bang đã không còn có phản ứng tương tự như xưa nữa.

Chín học sinh Little Rock trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng. Năm 1987, vào dịp kỷ niệm 30 năm sự kiện này, tôi với tư cách thống đốc bang đã mời chín người này về. Tôi mở tiệc chiêu đãi họ tại công thự của thống đốc và dẫn họ vào căn phòng nơi mà Thống đốc Faubus từng điều động chiến dịch nhằm ngăn họ nhập trường. Trong dịp kỷ niệm lần thứ 40 sự kiện này, vào năm 1997, chúng tôi tổ chức một lễ lớn ở bãi cỏ trường trung học Central High. Sau chương trình buổi lễ, Thống đốc Mike Huckabee và tôi mở cửa trường Central High và chín người đó bước vào. Bà Elizabeth Eckford, vào lúc sự kiện xảy ra mới 15 tuổi và bị chấn động mạnh khi phải đi một mình giữa đám đông giận dữ để vào trường, đã dàn hòa với Hazel Massery, một trong những nữ học sinh từng bêu riếu bà 40 năm trước. Năm 2000, trong một buổi lễ ở Bãi cỏ phía Nam Nhà Trắng, tôi trao tặng cho chín học sinh Little Rock năm nào Huân chương danh dự quốc hội - một phần thưởng danh dự từ gợi ý của Thượng nghị sĩ Dale Bumpers. Vào cuối mùa hè năm 1957, chín học sinh ấy đã giúp cho chúng tôi, cả da đen lẫn da trắng, thoát khỏi bóng đen tăm tối của sự cách biệt và kỳ thị. Bằng việc làm này, họ đã mang lại cho tôi nhiều hơn bất cứ thứ gì tôi có thể mang lại cho họ. Nhưng tôi hy vọng điều tôi mang đến cho họ, và cho dân quyền trong những năm sau này đã vinh danh những bài học tôi đã từng học được hơn 50 năm trước đây trong tiệm rượu của ông tôi.

Mùa hè năm 1957 và sau giáng sinh năm đó, tôi có những chuyến đi đầu tiên ra ngoài bang Arkansas kể từ hồi đi thăm mẹ ở New Orleans. Cả hai lần tôi đều đáp xe buýt Trailways đi Dallas để thăm bác Otie. Lúc ấy đi xe này là sang lắm, có cả người phục vụ bánh mì kẹp trên xe. Tôi ăn thỏa thích.

Dallas là thành phố thực sự thứ ba tôi từng đến cho tới lúc bây giờ. Hồi lớp năm tôi đã thăm Little Rock và đến xem tòa nhà quốc hội tiểu bang, hay nhất là vào thăm cả văn phòng của ông thống đốc và ngồi vào ghế bỏ trống của ông. Tôi bị ấn tượng đến nỗi nhiều năm sau tôi vẫn thường cho trẻ em ngồi trên lòng tôi trên ghế ở phòng thống đốc hoặc Phòng Bầu dục để chụp ảnh.

Ngoài thức ăn Mexico tuyện vời, vườn thú và sân tập golf mini đẹp nhất mà tôi từng thấy, những chuyến đi Dallas còn quan trọng đối với tôi vì ba lý do khác. Thứ nhất, tôi được gập vài người họ hàng của cha tôi. Em trai của ông, Glenn Blythe, là cảnh sát ở Irving, ngoại ô Dallas. Chú ấy bự con, đẹp trai, và ở cùng với chú làm tôi cảm thấy có liên hệ với cha mình. Thật buồn là chú mất vì đột quỵ khi còn quá trẻ, mới 48 tuổi. Cháu gái của cha tôi, Ann Grigsby, từng làm bạn với mẹ tôi từ lúc lấy cha tôi. Trong những chuyến đi này, Ann đã trở thành bạn thân thiết của tôi, hay kể cho tôi nghe về cha tôi và về mẹ tôi khi bà còn là một cô dâu trẻ. Ann hiện vẫn là đầu mối gần gũi nhất của tôi đối với dòng họ Blythe.

Thứ hai, vào ngày đầu năm 1958, tôi đến sân vận động Cotton Bowl xem trận cầu đại học đầu tiên trong đời. Đội Rice do thủ quân King Hill dẫn dắt đấu với đội Navy có hảo thủ Joe Bellino, người hai năm sau đó đoạt cúp Heisman. Tôi ngồi ở khán đài cuối sân nhưng có cảm tưởng như ngồi trên ngai vàng khi đội Navy thắng 20 - 7.

Thứ ba, ngay sau giáng sinh tôi đi xem phim một mình vào một buổi chiều khi bác Otie phải đi làm. Hình như hôm đó chiếu phim The Bridge on the River Kwai - cầu sông Kwai. Tôi mê phim này, nhưng lại không thích việc phải mua vé người lớn dù hồi đấy tôi chưa tròn 12 tuổi. Tôi trông to hơn tuổi, còn người bán vé thì chẳng chịu tin là tôi còn nhỏ. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi gặp người không tin lời tôi nói. Thật khó chịu, nhưng tôi nhận ra được sự khác nhau giữa các thành phố lớn lạnh lùng và những thị trấn tỉnh lẻ, và tôi bắt đầu quá trình chuẩn bị công phu của mình cho cuộc sống ở Wash­ington, nơi chẳng ai tin lời bạn về bất cứ điều gì.

Năm học 1958 - 1959 tôi bắt đầu vào cấp trung học cơ sở. Trường nằm đối diện bệnh viện Ouachita và giáp vách với trường Trung học Hot Springs. Cả hai tòa nhà đều được xây bằng gạch đỏ sẫm. Trường trung học cao bốn tầng lầu, có một giảng đường cũ lớn với nét trang trí đặc trưng từ thời 1917. Trường trung học cơ sở nhỏ hơn và trông chán hơn nhưng vẫn là đại diện cho một thời kỳ mới trong đời tôi. Tuy nhiên, chuyện lớn với tôi trong năm đó lại chẳng liên quan gì đến trường học cả. Một trong số các thầy giáo lớp học chủ nhật của tôi tổ chức đưa một số nhóc học sinh trong hội thánh đi Little Rock để nghe mục sư Billy Graham giảng trong cuộc vận động của ông ở sân War Memorial, sân nhà của đội Razorbacks. Hồi nặm 1958 vấn đề chủng tộc vẫn còn căng thẳng lắm. Các trường học ở Little Rock vì muôn ngăn chặn học sinh khác màu da học chung đã đồng loạt đóng cửa, đẩy học sinh về các trường ở các thị trấn lân cận. Những người có đầu óc kỳ thị của Hội đồng Công dân Da trắng và các hội đoàn khác đề nghị mục sư Graham chỉ cho người da trắng tham dự cuộc vận động của ông xét vì không khí căng thẳng hiện nay. Ông đáp lại rằng Chúa Jesus thương yêu tất cả các con chiên, rằng mọi người đều cần có cơ hội để tiếp đón tin mừng, và vì thế ông thà hủy bỏ cuộc vận động còn hơn là phải thuyết giảng trước một cử tọa phân cách chủng tộc. Hồi đó, mục sư Billy Graham là hiện thân của lực lượng giáo hội Baptist Phương Nam, là nhân vật tôn giáo lớn nhất của miền Nam, và có lẽ của cả nước Mỹ. Sau khi ông bày tỏ quan điểm như vậy, tôi càng muốn nghe ông thuyết giảng. Những người mang đầu óc kỳ thị nhượng bộ, và mục sư Graham trong bài nói 20 phút đặc trưng của mình đã truyền lại một thông điệp mạnh mẽ. Khi ông mời mọi người bước xuống thảm cỏ sân vận động để tiếp nhận Chúa hoặc hiến dâng đời mình cho Chúa, hàng trăm người da đen và da trắng cùng nhau đi dọc các lối đi của sân để xuống đứng và cầu nguyện cùng nhau. Đó là một điểm nhấn mạnh mẽ tương phản với không khí chính trị phân biệt chủng tộc lan tràn khắp miền Nam lúc bấy giờ. Tôi yêu mến Billy Graham về điều này. Nhiều tháng sau tôi thường xuyên dành ra một khoản trong số tiền ít ỏi của mình để ủng hộ cho hội thánh của ông.

Ba mươi năm sau, mục sư Billy quay lại Little Rock đê tổ chức một cuộc vận động nữa ở sân War Memorial. Với tư cách là thống đốc bang, tôi hân hạnh được ngồi cùng ông trên sân khấu một tối và còn hân hạnh hơn khi đi cùng với ông và bạn tôi Mike Coulson đến thăm vị mục sư của tôi, bạn cũ của Billy, là w. o. Vaught, người sắp chết vì bệnh ung thư. Thật kinh ngạc khi nghe hai người thuộc về Chúa bàn chuyên cái chết, về những nỗi sợ, và về niềm tin của họ. Khi Billy đứng dậy để ra về, ông cầm tay mục sư Vaught và nói: "W. O. à, với cả hai chúng ta chắc cũng chẳng còn lâu đâu. Hẹn gặp lại bạn, ngaỵ bên ngoài Cửa Đông", tức là cửa vào Nước Chúa.

Khi tôi là tổng thống, Billy và Ruth Graham đến thăm Hillary và tôi ở Nhà Trắng. Billy cùng cầu nguyên với tôi trong Phòng Bầu dục, và viết những bức thư đầy khích lệ và chỉ dẫn trong thời gian tôi bị kiện tụng. Trong mọi điều ông đối xử với tôi, cũng như trong cuộc vận động năm 1958 ấy, Billy đã luôn sống đúng đức tin của mình.

Thời gian học trung học cơ sở mang lại những trải nghiệm và thách thức mới, khi tôi bắt đầu nhận thức nhiều hơn về trí óc, cơ thể, tinh thần và thế giới bé nhỏ của mình. Nói chung tôi thích hầu hết những điều học về bản thân, nhưng không phải thích hết mọi thứ. Đôi khi những điều chợt đến trong ý nghĩ và trong đời thực làm tôi khiếp sợ, như cơn giận bố, những tơ tưởng đầu tiên đến bọn con gái, và cả những hoài nghi về niềm tin tôn giáo - mà tôi nghĩ xuất phát từ việc tôi không thể hiểu tại sao một ông Chúa mà sự hiện hữu của ông tôi không chứng minh được lại tạo ra một thế giới có nhiều điều tồi tệ xảy ra đến vậy.

Năm 1956, cuối cùng thì tôi cũng có em trai, và nhà tôi mua tivi. Em tôi, Roger Cassidy Clinton, sinh ngày 25 tháng 7, trùng ngày sinh nhật của bố. Tôi rất vui. Mẹ và bố trong một thời gian dài đã mong có em (mấy năm trước mẹ từng bị sảy thai). Tôi nghĩ mẹ, và chắc là cả bố, nghĩ rằng có con chung sẽ cứu vãn cuộc hôn nhân của họ. Phản ứng của bố ban đầu có vẻ không hứa hẹn lắm. Khi sinh em, mẹ phải mổ, và lúc này tôi đang ở với ông bà ngoại. Bố đến đón tôi đi thăm mẹ, rồi chở tôi về nhà và đi tiếp. Từ vài tháng qua, bố tôi bắt đầu uống trở lại, và thay vì làm cho bố hạnh phúc và cảm thấy có trách nhiệm, việc đứa con duy nhất của ông ra đời lại càng làm cho ông quay lại thói quen say xỉn.

Ngoài sự phấn khích vì có thêm em bé trong nhà còn có sự phấn khích vì có tivi. Có nhiều chương trình dành cho trẻ em: phim hoạt hình, Captain Kangaroo và Howdy Doody với nhân vật Buffalo Bob Smith mà tôi đặc biệt thích. Có cả các trận bóng chày nữa: Mickey Mantle và đội Yankees, Stan Musial và đội Cardinals, và đội mà tôi ưa thích nhất: đội New York Giants với Willie Mays.

Nhưng dù có kỳ khôi đến đâu đi nữa, đặc biệt là với một đứa bé lên 10, tôi dành thời gian xem tivi nhiều nhất vào mùa hè đó để theo dõi các đại hội của đảng Dân chủ và Cộng hòa. Tôi ngồi dưới sàn nhà ngay trước tivi và xem cả hai, say mê đến mức không nói được gì. Nghe thì có vẻ điên rồ, nhưng tôi cảm thấy thực sự thoải mái trong thế giới chính trị và chính trị gia. Tôi thích Tổng thống Eisenhower và vui khi thấy ông được tái đề cử, nhưng vì nhà chúng tôi theo đảng Dân chủ, nên tôi xem rất kỹ đại hội Dân chủ. Thống đốc bang Tennessee Frank Clement đọc một bài diễn văn mở đầu hùng hồn. Tranh chấp đề cử chức phó tổng thống cũng gay go giữa Thượng nghị sĩ trẻ John F. Kennedy với người về sau này thắng cuộc Thượng nghị sĩ Estes Kefauver - người đại diện cho Tennessee trong thượng viện cùng với cha của AI Gore. Khi Adlai Stevenson, ứng cử viên năm 1952, chấp nhận lời kêu gọi của đảng ông ta để ra tranh cử, ông ấy nói ông ấy đã cầu nguyện "Lạy cha, xin cha cất cho con chén đắng này" (Lời chúa Jesus, trong Kinh thánh). Tôi ngưỡng mộ sự thông minh và tài hùng biện của Stevenson, nhưng ngay từ hồi đó tôi đã không hiểu được tại sao có người lại không muốn có cơ hội để trở thành tổng thống. Bây giờ thì tôi nghĩ rằng ông ấy đã không muốn nỗ lực vô ích một lần nữa. Tôi hiểu điều này. Chính tôi cũng đã thua một vài cuộc bầu cử, dù tôi không bao giờ bước vào một trận đấu mà trước đó lại không tự thuyết phục mình rằng tôi có thể chiến thắng.

Tôi không dành hết thời gian để xem tivi. Bất cứ khi nào có thể, tôi vẫn đi xem phim. Hot Springs có hai rạp chiếu phim cũ kỹ, rạp Paramount và rạp Malco, đều có các sân khấu lớn với các ngôi sao phim viễn tây hay xuất hiện vào cuối tuần. Tôi đã được thấy Lash LaRue mặc đồ cao bồi đen và quất roi ngựa, và cả một màn biểu diễn bắn súng của Gail Davis - người đóng vai Annie Oakley trên ti vi.

Vào cuối thập niên 50, Elvis Presley bắt đầu làm phim. Tôi thích Elvis. Tôi có thể hát tất cả các bài hát của ông, và cả các bài hát đệm của ban Jordanaires nữa. Tôi ngưỡng mộ ông ấy khi ông nhập ngũ, và thích thú khi ông cưới người vợ trẻ Priscilla. Không giống như phần lớn các bậc cha mẹ, vốn cho rằng kiểu lắc hông của Elvis là tục tĩu, mẹ tôi cũng mê Elvis, có thể còn mê hơn tôi. Chúng tôi cùng xem buổi biểu diễn huyền thoại của ông trên chương trình The Ed Sullivan Show, và phá lên cười khi ống kính camera cắt đi phần thân dưới lắc lư của ông để giữ cho người xem khỏi phải xem cảnh bất nhã. Ngoài âm nhạc của ông, tôi còn hòa nhập với gốc gác tỉnh lẻ miền Nam của ông. Và tôi nghĩ rằng ông ấy là người có cái tâm tốt. Bạn tôi, Steve Clark, từng làm chưởng lý tiểu bang hồi tôi làm thống đốc, có một lần đưa em gái của anh ấy đang sắp chết vì ung thư đến xem Elvis biểu diễn ở Memphis. Khi Elvis biết chuyện bé gái này, ông đã cho hai anh em ngồi hàng ghế đầu, và biểu diễn xong ông còn mời cô bé lên sân khấu và trò chuyên với cô một lức. Tôi không bao giờ quên điều đó.

Phim đầu tay của Elvis, Love Me Tender, là phim tôi ưa thích nhất lúc bấy giờ và đến nay vẫn vậy, dù tôi cũng thích các phim khác của ông như Loving You, Jailhouse Rock, King Creole, và Blue Hawaii. Mấy phim sau đấy nữa của ông bắt đầu trở nên nhàm chán và dễ đoán. Điều thú vị trong phim Love Me Tender - một phim viễn tây thời hậu Nội chiến - là Elvis, lúc ấy đã thành thần tượng hấp dẫn của nước Mỹ - lấy được cô gái, Debra Paget, nhưng chỉ sau khi cô này tưởng rằng người yêu của mình, nhân vật anh trai của Elvis, đã chết trong chiến tranh. Cuối phim, Elvis bị bắn chết, để lại anh trai và người vợ mình.

Tôi chưa bao giờ chán Elvis. Tror.g chiến dịch tranh cử năm 1992, một số người trong ban tham mưu của tôi đặt cho tôi biệt danh là Elvis. Vài năm sau, khi tôi bổ nhiệm Kim Wardlaw của Los Angeles làm thẩm phán liên bang, cô ấy đã chu đáo đến mức gửi cho tôi một khăn quàng cổ mà Elvis từng đeo và ký tặng cô ấy trong một buổi biểu diễn hồi thập niên 70, lúc cô ấy 19 tuổi. Tôi vẫn còn giữ nó trong phòng nghe nhạc của mình. Và tôi thú nhận: tôi vẫn còn mê Elvis.

Tôi ngày càng ham âm nhạc. Dạo này tôi bắt đầu ngày nào cũng đi tập với ban nhạc trung học cơ sở, mong đến ngày biểu diễn trong dịp nghỉ giữa hiệp của các trận đấu bóng và được đi trong đoàn diễu hành giáng sinh, hay được đi biểu diễn ở các buổi hòa nhạc, và đi dự các liên hoan ban nhạc trong vùng - nơi có các giám khảo cho điểm cho các ban nhạc, cũng như các màn biểu diễn cá nhân và tập thể. Tôi đoạt khá nhiều giải, và lần nào mà tôi không đoạt giải thì chỉ vì tôi cố chơi một bài quá khó đối với mình. Tôi vẫn còn giữ vài phiếu chấm điểm của giám khảo cho một sô lần đầu biểu diễn solo của tôi, chỉ ra khiếm khuyết trong kiểm soát những nốt bè thâp, sai nhịp hoặc thói phồng mang trợn má của tôi. Tôi càng lớn thì phiếu điểm càng cải thiện, nhưng tôi cũng không sửa được tật phồng má. Bản solo ưa thích của tôi thời đó là một trích đoạn trong Rhapsody in Blue mà tôi rất ưa tập và một lần còn biểu diễn cho khách xem ở khách sạn Majestic cổ. Tôi hồi hộp ghê lắm, nhưng quyết tâm tạo ấn tượng tốt bằng cách mặc áo choàng trắng mới, đeo nơ và khăn chẽn lưng màu đỏ.

Các ông bầu ban nhạc học sinh khuyến khích tôi chơi tốt hơn và tôi quyết định thử xem. Hồi đó tiểu bang Arkansas có vài trại nhạc công mùa hè được tổ chức trong các cơ sở của trường đại học và tôi muốn dự một trại. Tôi quyết định đến trại ở cơ sở chính của Đại học Arkansas tại Fayetteville vì ở đấy có nhiều thầy giỏi, mà tôi thì muốn ở vài tuần trong cơ sở mà tôi đoán sau này mình sẽ học đại học ở đó. Trong suốt bảy năm, hè nào tôi cũng đến đây, cho mãi đến tận mùa hè sau khi tôi tốt nghiệp trung học. Hóa ra đó là một trong những trải nghiệm quan trọng nhất trong thời kỳ trưởng thành của tôi. Thoạt tiên, tôi cứ chơi kèn miệt mài. Và tôi cũng khá lên. Có hôm tôi tập kèn liền 12 tiếng cho đến khi môi tôi đau đến nỗi không mấp máy nổi. Tôi cũng có dịp nghe và học hỏi từ những nhạc công lớn tuổi và giỏi hơn.

Trại nhạc công mùa hè còn là một nơi lý tưởng cho tôi phát triển các kỹ năng chính trị và lãnh đạo. Trong suốt thời kỳ tôi trưởng thành dần lên, đó là nơi duy nhất mà việc bạn chỉ là một "nhóc nhạc công quèn" thay vì là cầu thủ bóng bầu dục không hề đem lại hệ lụy chính trị nào hết. Đó cũng là nơi duy nhất mà làm "nhóc nhạc công quèn" không phải là điểm yếu cho các chú choai choai khi đi tán gái đẹp. Chúng tôi lúc nào cũng vui vẻ, từ phút thức dậy đi ăn sáng trong nhà ăn trường đại học cho đến khi đi ngủ trong ký túc xá, và luôn cũng cảm thây mình rất quan trọng.

Tôi cũng khoái cái cơ sở này. Ngôi trường này là trường đại học được chính phủ cấp đất xưa nhất phía tây sông Mississippi. Hồi còn ở trung học cơ sở, tôi viết bài luận về trường này, còn khi đã là thống đốc tôi ủng hộ việc dành ngân sách để khôi phục tòa nhà Old Main, tòa nhà cổ nhất trong trường. Được xây từ năm 1871, nó là kiến trúc độc đáo nhắc nhớ về cuộc Nội chiến, có hai cái tháp, tháp bắc cao hơn tháp nam.

Việc chơi trong ban nhạc cũng đem lại cho tôi người bạn tốt nhất thời trung học cơ sở, Joe Newman. Cậu ấy chơi trông, và chơi giỏi. Mẹ cậu, bác Rae, là giáo viên trong trường chúng tôi; bác ấy và bác trai Dub lúc nào cũng làm tôi cảm thấy mình được chào đón trong căn nhà bằng gỗ trắng lớn của họ trên đại lộ Ouachita, gần nhà hai bác Roy và Janet. Joe thông minh, hoài nghi, tính khí hơi thất thường nhưng hài hước và trung thành. Tôi thích chơi hoặc nói chuyện với cậu ấy. Bây giờ vẫn vậy - suốt bao năm qua chúng tôi vẫn thân thiết với nhau.

Ở trung học cơ sở tôi thích nhất là học toán. Thật may là tôi nằm trong nhóm đầu tiên ở thành phố được học đại số năm lớp tám chứ không phải lớp chín, có nghĩa là tôi có cơ hội học hình học, đại số nâng cao, lượng giác và tích phân trước khi tốt nghiệp trung học. Tôi thích toán vì đó là môn đòi hỏi giải quyết vấn đề, vốn luôn làm tôi phân khích. Dù khi lên đại học tôi không học toán nữa, nhưng tôi luôn tưởng mình vẫn giỏi toán cho đến một lần tôi không thể làm giúp bài tập lớp chín của Chelsea. Thế là một ảo tưởng nữa tan vỡ.

Cô Mary Matassarin dạy tôi đại số và hình học. Chị của cô, Verna Dokey, dạy sử, và chồng của cô Verna - Vernon, một huấn luyện viên về hưu - dạy khoa học lớp tám. Tôi thích họ, và dù tôi không học giỏi khoa học mấy, một bài học của thầy Dokey tôi vẫn còn nhớ như in. Vợ và em vợ của thầy Vernon Dokey rất xinh, nhưng phải nói thẳng rằng thầy không phải là người đẹp trai - đấy là đã nhẹ lời lắm rồi. Thầy bự con, bụng hơi nặng nề, đeo kính dày cộm và hay hút xì gà rẻ tiền bằng một ống đót có đầu ngậm nhỏ, khiến mặt thầy trông thiểu não nhăn nhúm kỳ quặc khi thầy rít thuốc. Thầy hay cư xử thô lậu, nhưng lại có nụ cười thật tuyệt, có óc hài hước và sự hiểu biết con người nhạy bén. Một hôm thầy nhìn chúng tôi và nói: "Các em, sau này có thể các em sẽ không còn nhớ gì đã học được trong giờ khoa học, vì thế tôi sẽ dạy cho các em một điều về bản chất con người mà các em nên nhớ lấy. Mỗi sáng tôi thức dậy, tôi vào buồng tắm, dấp nước lên mặt, cạo râu, rồi lau kem cạo râu đi, nhìn vào gương và nói, "này Vernon, cậu trông đẹp lắm". Các em nhớ lây nhé. Ai cũng muôn cảm thây là mình đẹp đẽ cả". Và tôi đã ghi nhớ điều đó trong hơn 40 năm. Nó giúp tôi hiểu được những điều tôi có thể đã bỏ lỡ nếu như thầy Vernon Dokey không nói với tôi rằng thầy đẹp, và nếu như tôi đã không nhìn ra được rằng thực sự thầy đẹp thật.

Tôi phải chật vật lắm mới hiểu được người khác ở trường trung học cơ sở. Chính ở trường tôi phải đối diện với việc không phải ai cũng thích tôi, mà thường là do những nguyên do gì đó tôi không biết. Có lần tôi đang đi bộ đến trường, cách trường một dãy phố thì một học sinh lớp trên, vốn thuộc dạng đầu bò đầu bướu đang đứng trong hẻm trống giữa hai tòa nhà hút thuốc, búng tàn thuốc đang cháy vào tôi, trúng ngay giữa mũi và suýt nữa làm bỏng mắt tôi. Tôi chẳng hiểu sao hắn lại làm thế, nhưng chắc là dù gì thì tôi cũng chỉ là một thằng nhóc phục phịch mà lại không có quần jean thời thượng (loại quần Levis đã gỡ đường khâu viền ở túi phía sau).

Cũng khoảng thời gian này tôi có cãi cọ với Clifton Bryant, một đứa lớn hơn tôi một, hai tuổi gì đấy nhưng lại nhỏ con hơn tôi. Một hôm đám bạn tôi và tôi quyết định đi bộ về với nhau sau khi tan học, khoảng ba dặm. Nhà Clifton cũng ở phía đó nên nó đi theo chúng tôi về nhà, vừa đi vừa chòng ghẹo và đẩy vào vai tôi. Chúng tôi cứ đi như thế đến tận đài phun nước trên đại lộ Central, đoạn quẹo phải vào đại lộ Park. Khoảng hơn một dặm đường tôi đã cô lờ đi, nhưng cuối cùng không chịu nổi nữa. Tôi quay lại, vung tay một vòng lớn và đấm nó. Cú đấm khá mạnh, nhưng lúc chạm tới nó thì nó đã kịp quay người chạy nên chỉ trúng vào lưng. Như đã nói, tôi thì chậm chạp. Lúc Clifton chạy về nhà, tôi gào lên thách nó quay lại và đánh nhau cho đáng mặt nam nhi. Nó vẫn chạy. Lúc tôi về đến nhà, tôi đã bình tĩnh lại và những lời tán dương của đám bạn cũng tan biến dần. Tôi sợ tôi làm nó chấn thương, nên tôi nhờ mẹ gọi điện đến nhà nó hỏi xem nó có bị sao không. Từ sau đó giữa hai đứa không còn chuyện gì nữa. Tôi hiểu ra rằng tôi có thể tự vệ, nhưng tôi không thích thú gì khi đánh cậu ta và cũng hơi khó chịu về cơn giận dữ của mình, vốn càng trở nên mạnh mẽ hơn theo năm tháng. Bây giờ tôi biết cơn giận của mình ngày hôm đấy là phản ứng bình thường và lành mạnh khi bị đối xử như vậy. Nhưng chính vì cách cư xử của bố tôi khi giận hoặc say xỉn mà tôi cho rằng sự giận dữ nghĩa là thiếu kiểm soát, và tôi quyết tâm không bao giờ nổi nóng. Làm như thế có thể làm bùng nổ những cơn giận dữ âm ỉ thường trực bị dồn nén mà tôi cũng chẳng biết là từ đâu ra nữa.

Ngay cả khi tôi phát khùng tôi vẫn đủ tỉnh táo để không phải lúc nào cũng đối đầu với mọi thách thức. Những năm đó đã có hai lần tôi tránh đi, hoặc nếu bạn muốn nói một cách thẳng thừng, là đánh bài chuồn. Lần thứ nhẩt là lần tôi đi bơi với đám trẻ nhà Crane ở sông Caddo, ở phía tây Hot Springs, gần một thị trấn nhỏ tên Caddo Gap. Một chú nhóc địa phương trèo lên bờ sông gần chỗ tôi bơi và bắt đầu chửi bới tôi. Tôi chửi lại. Thế là nó nhặt một cục đá và ném tôi. Nó đứng cách chỗ tôi khoảng 20 mét, nhưng ném trúng ngay đầu tôi gần thái dương, chảy cả máu. Tôi muốn lên bờ đánh nhau với nó, nhưng tôi thấy nó bự hơn, khỏe hơn và ngầu hơn tôi, nên tôi bơi đi chỗ khác. Nhờ đã có kinh nghiệm bị cừu húc, bị Tavia Perry bắn và những lần sai lầm tương tự như vậy trước đấy, chắc là tôi làm như vậy là phải rồi.

Lần thứ hai tôi tránh né trong thời kỳ trung học cơ sở thì tôi biết chắc là tôi đã làm đúng. Vào các tối thứ sáu bao giờ ở câu lạc bộ của YMCA[2] địa phương cũng có nhảy nhót. Tôi thích nhạc rock-and- roll, thích nhảy và thường đi nhảy từ hồi lớp tám hay lớp chín, dù tôi mập, trông không có vẻ ngon lành gì cả và cũng không được bọn con gái hâm mộ gì. Thêm nữa, tôi vẫn chẳng mặc đúng loại quần jean thời thượng.

Một buổi tối, tôi tạt vào phòng chơi bida cạnh sàn nhảy để mua đồ uống từ máy bán Coca Gola tự động. Mấy đứa học sinh trung học lớn hơn đang tụ tập đánh hoặc xem bida. Một trong số đó là Henry Hill, nhà nó là chủ sân bowling Lucky Strike Lanes ở trung tâm thành phố. Henry bắt đầu chế giễu cái quần jean của tôi, mà hôm đó đúng là hề hết chỗ nói. Cái quần ấy là loại quần thợ mộc, có một cái khoen vải ở hông bên phải để đeo búa. Không có Henry chọc tôi thì tôi cũng đã khó chịu lắm rồi, nên tôi cũng xấc xược lại ngay. Thế là nó dùng hết sức quại vào hàm tôi. Lúc này tôi cũng đã to con hơn so với tuổi, cao cỡ mét tám và nặng 90kg. Nhưng Henry cao cỡ mét chín và bự hơn nữa. Không thể đánh lại được. Hơn nữa, thật ngạc nhiên là tôi cũng chẳng đau lắm. Thế nên tôi đứng yên tại chỗ và nhìn chằm chằm vào Henry. Tôi nghĩ Henry cũng lấy làm lạ tại sao tôi không ngã ra hoặc bỏ chạy, vì nó phá lên cười, vỗ vào lưng tôi và bảo rằng tôi được lắm. Từ đó chúng tôi luôn thân thiện với nhau. Một lần nữa tôi hiểu ra rằng tôi có thể chịu đựng được cú tấrì công và có nhiều cách để đứng vững trước sự hung hăng.

Khi tôi lên lớp chín, vào tháng 9 năm 1968, chiến dịch tranh cử tổng thống đã rầm rộ lắm. Cô giáo tiếng Anh và phụ trách điểm danh lớp tôi, cô Ruth Atkins, cũng quê ở Hope và cũng là một người chí cốt theo đảng Dân chủ. Cô bắt chúng tôi đọc Great Expectations của Charles Dickens, nhưng dành rất nhiều thời gian để chúng tôi bàn chuyện chính trị. Hot Springs hồi đó có nhiều người theo đảng Cộng hòa hơn phần lớn các nơi khác của tiểu bang Arkansas, nhưng những thế hệ lớn lại ít bảo thủ hơn nhiều so với thế hệ sau này. Một số gia đình kỳ cựu đã đến ở Hot Springs từ trước Nội chiến và họ theo đảng Cộng hòa chỉ vì họ chống lại chế độ nô lệ và tư tưởng ly khai. Một số gia đình có gốc gác Cộng hòa thì theo chủ nghĩa tiến bộ của Teddy Roosevelt. Một số khác thì ủng hộ sự bảo thủ ôn hòa của Eisenhower.

Thành phần những người theo phe Dân chủ ở Arkansas còn đa dạng hơn. Nhóm giữ truyền thống thời Nội chiến là đảng viên Dân chủ vì tổ tiên họ ủng hộ việc miền Nam ly khai và chế độ nô lệ. Một nhóm lớn hơn vào đảng này trong thời Đại khủng hoảng, khi mà công nhân thất nghiệp và nông dân nghèo coi FDR (Tổng thống Franklin D. Roosevelt - ND) như vị cứu tinh và sau đó rất yêu mến người xuất thân từ bang láng giềng Missouri, Harry Truman. Một nhóm nhỏ hơn là những người nhập cư, phần lớn từ châu Âu, theo đảng Dân chủ. Đa phần người da đen theo Dân chủ vì Roosevelt, vì quan điểm dân quyền của Truman, và vì họ cảm thấy Kennedy sẽ còn tích cực hơn Nixon về chuyện này. Một nhóm nhỏ người da trắng cũng cảm thấy như vậy. Tôi thuộc nhóm này.

Trong lớp của cô Atkins phần lớn học sinh ủng hộ Nixon. Tôi nhớ David Leopoulos bảo vệ Nixon và viện dẫn rằng ông ta có kinh nghiệm hơn Kennedy, đặc biệt về đối ngoại, và rằng thành tích dân quyền của ông ấy khá tốt - mà đúng như vậy thật. Lúc ấy tôi thực ra cũng không có gì chống Nixon cả. Tôi còn chưa biết về chiến dịch vận động gán tội thiên cộng sản của ông ta ở hạ viện và thượng viện California nhằm chống lại Jerry Voorhis và Helen Gahagan Douglas. Tôi thích cách ông ta đương đầu với Nikita Khrushchev. Năm 1956, tôi ngưỡng mộ cả Eisenhower lẫn Stevenson, nhưng đến năm 1960, tôi bắt đầu theo hẳn một đảng. Tôi từng ủng hộ LBJ (Tổng thống Lyndon B. Johnson - ND) trong vòng bầu cử sơ bộ vì thành tích lãnh đạo thượng viện của ông ta, đặc biệt trong vụ thông qua một đạo luật dân quyền năm 1957, vì gốc gác miền Nam nghèo khó của ông ta. Tôi cũng thích Hubert Humphrey vì ông ấy là người ủng hộ cuồng nhiệt nhất cho dân quyền, thích Kennedy vì sự trẻ trung, mạnh mẽ và quyết tâm thúc đẩy đất nước. Khi Kennedy trở thành ứng viên tổng thống, tôi có những cơ sở tốt nhất để thuyết phục các bạn cùng lớp.

Tôi rất mong ông ấy thắng cử, đặc biệt là sau khi ông ấy gọi điện cho Coretta King để bày tỏ lo lắng khi chồng bà bị bỏ tù, và sau khi ông nói chuyện với những người theo Tin Lành Baptist Phương Nam ở Houston để bảo vệ niềm tin của mình và bảo vệ quyền của những người Mỹ Công giáo ra tranh cử tổng thống. Phần lớn các bạn cùng lớp tôi và cả cha mẹ đều không đồng tình. Tôi bắt đầu quen với việc này. Trước đấy vài tháng, khi ra ứng cử chức trưởng ban đại diện học sinh, tôi đã để vuột chức này vào tay Mike Thomas, một người tốt, và sau này trở thành một trong bốn bạn cùng lớp tôi chết ở Việt Nam. Nixon thắng trong hạt của chúng tôi, nhưng Kennedy lại thắng ở bang Arkansas với 50,2% số phiếu, bất chấp những người Tin Lành chính thống đã cố hết sức thuyết phục những người Tin Lành theo đảng Dân chủ rằng Kennedy sẽ phải tuân lệnh Giáo hoàng.

Tất nhiên việc ông ấy theo Công giáo là một trong những lý do tôi mong ông thành tổng thống. Từ kinh nghiệm bản thân ở trường Công giáo St. John và những lần gặp gỡ với các sơ cùng làm với mẹ tôi ở bệnh viện St. Joseph, tôi thích và ngưỡng mộ những người Công giáo - những giá trị của họ, sự tận tụy và lương tâm xã hội của họ. Tôi cũng tự hào rằng người Arkansas duy nhất ra tranh cử ở cấp liên bang, Thượng nghị sĩ Joe T. Robinson, đứng chung liên danh với ứng cử viên Công giáo đầu tiên tranh cử tổng thống, Thống đốc AI Smith của bang New York, vào năm 1928. Giống như Kennedy, Smith chiến thắng ở bang Arkansas nhờ vào Robinson.

Với sự gần gũi với Công giáo của tôi như vậy, thật trớ trêu là ngoài âm nhạc ra, đề tài ngoại khóa chính của tôi từ lớp chín trở đi lại là hội Order of DeMolay, một tổ chức cho nam sinh được hội Masons bảo trợ. Tôi luôn tưởng thành viên Masons và DeMolay là chống lại Công giáo, nhưng không hiểu rõ tại sao. Dù gì thì DeMolay cũng là một thánh tử đạo thời tiền cải cách tôn giáo [3] và chết trong tay Tòa án dị giáo Tây Ban Nha. Phải đến khi tôi nghiên cứu để viết cuốn sách này thì tôi mới phát hiện ra rằng từ đầu thế kỷ 18 nhà thờ Công giáo đã coi hội Masons là một tổ chức nguy hiểm đe dọa đến quyền lực của nhà thờ, trong khi hội Masons không hề cấm người ta theo tôn giáo nào cả và thậm chí còn có một vài hội viên theo Công giáo.

Mục đích của hội DeMolay là xây dựng đạo đức cá nhân và công dân cũng như tình thân hữu giữa các hội viên. Tôi thích tình cảm đồng hội, thích việc ghi nhớ mọi nghi thức của hội, leo dần lên chức ủy viên trưởng của chi hội chỗ tôi cũng như những lần đi dự đại hội tiểu bang, nơi chúng tôi bàn luận chính trị sôi nổi và tiệc tùng với hội Rainbow Girls, tổ chức kết nghĩa của hội DeMolay. Tôi hiểu thêm về chính trị thông qua cuộc bầu cử hội DeMolay cấp tiểu bang, dù tôi chưa bao giờ tranh cử. Người sáng láng nhất tôi từng ủng hộ vào chức ủy viên trưởng tiểu bang là Bill Ebbert đến từ Jonesboro. Ebbert đã có thể làm một thị trưởng tuyệt vời hoặc một chủ tịch ủy ban quốc hội nếu như vẫn còn thông lệ sống lâu lên lão làng như hồi xứa. Anh ấy vui nhộn, thông minh, cứng rắn và cũng giỏi thương lượng như LBJ vậy. Một lần anh ấy đang phóng 90 dặm/giờ trên xa lộ ở Arkansas thì bị một xe cảnh sát tiểu bang hụ còi đuổi theo. Ebbert có radio sóng ngắn, nên anh bèn gọi cho cảnh sát để báo cáo về một vụ tai nạn phía sau ba dặm. Chiếc xe cảnh sát nhận được tin báo và đổi hướng, thả cho Ebbert về. Không biết ông! cảnh sát ấy sau này có hiểu ra quả lừa ấy không.

Dù tôi thích hội DeMolay, tôi vẫn không chấp nhận được ý tưởng cho rằng những lễ nghi bí mật của hội là cái gì đó ghê gớm lắm đến mức làm cho cuộc sống của chúng tôi quan trọng hơn. Sau khi tốt nghiệp khỏi hội, tôi không tham gia tiếp vào hội Mason - giống như những người Mỹ ưu tú như George Washington, Benjamin Franklin và Paul Revere đã làm - có lẽ vì lúc bấy giờ tôi ngoài 20 và đang trong giai đoạn không thích gia nhập cái gì cả, và tôi lại không thích thái độ chống Công giáo (hồi đó tôi tưởng như vậy) của hội Mason. Tôi cũng không ưa kiểu phân chia dân da đen và da trắng vào các phân hội riêng biệt (dù khi làm thống đốc tôi có biết đến các đại hội của chi hội Mason Prince Hall cho người da đen, và họ dường như vui vẻ còn hơn cả những hội viên Mason mà tôi từng biết).

Thêm nữa, tôi đâu cần phải có hội kín mới có bí mật. Tự tôi cũng đã có những bí mật rồi, xuất phát từ thói nhậu nhẹt và bạo hành của bố tôi. Những thói tật này ngày càng tệ khi tôi 14 tuổi, học lớp chín, và em trai tôi mới lên bốn. Một đêm bố vào phòng ngủ đóng cửa lại, bắt đầu la mắng và sau đó đánh mẹ. Em Roger sợ lắm, cũng như tôi chín năm trước vào cái đêm có súng nổ. Cuối cùng tôi không chịu được việc mẹ bị đánh và em Roger khiếp hãi như vậy. Tôi rút cây gậy đánh golf ra khỏi túi golf và mở tung cửa phòng của bố mẹ ra. Mẹ nằm dưới sàn, còn bố thì đứng trên và đánh bà. Tôi bảo ông ngưng ngay, nếu không tôi sẽ lấy gậy quật ông. Ông chịu thua, ngồi sụp xuống ghế cạnh giường và rũ đầu xuống. Cảnh này làm tôi muốn bệnh. Trong cuốn tự truyện của bà, mẹ tôi viết là bà gọi cảnh sát đến giam bố trong tù đêm đó. Tôi không nhớ có đúng vậy hay không, nhưng tôi biết chắc chắn một khoảng thời gian khá lâu sau không có chuyện gì tồi tệ xảy ra. Tôi thấy tự hào vì dám đứng lên bảo vệ mẹ, nhưng về sau tôi cũng cảm thấy buồn về chuyên này. Tôi chỉ không thể chấp nhận được chuyên một người về căn bản là tốt lại tìm cách giảm nỗi đau của mình bằng cách làm đau người khác. Ước gì hồi đó tôi có ai để chia sẻ chuyện này, nhưng chẳng có ai, nên tôi phải tự mình hiểu lấy.

Tôi phải chấp nhận những bí mật của gia đình tôi như một phần bình thường của đời mình. Tôi không bao giờ nói cho ai những bí mật đó - bạn bè cũng không, thầy cô, hàng xóm hay mục sư cũng không. Nhiều năm sau khi tôi tranh cử tổng thống, nhiều bạn tôi nói với báo giới là họ không hề biết chuyện. Tất nhiên là bí mật gì thì bí mật, cũng có người biết. Bố tôi dù có cố gắng cũng không thể đối xử tốt với tất cả mọi người khác như đối xử với chúng tôi. Những người biết chuyện - gia đình, bạn thân của mẹ, vài ông cảnh sát - đều không nói gì cho tôi, vì thế tôi tưởng tôi có một bí mật thật sự và quyết định giữ kín. Chính sách trong gia đình chúng tôi là "không hỏi, không kể".

Bí mật duy nhất của tôi hồi tiểu học và trung học cơ sở là lần lấy tiền tiêu vặt quyên góp cho Billy Graham sau cuộc vận động ở Little Rock của ông. Tôi không bao giờ nói cho cha mẹ hay bạn bè nghe về chuyên này. Một lần tôi đang cầm phong bì có tiền ra hòm thư gần đường Circle Drive để gửi cho ông Billy, tôi thấy bố đang làm gì đó ở sân sau. Để khỏi bị ông bắt gặp, tôi ra cổng trước ở đại lộ Park, quẹo phải rồi đi ngược lại qua lối đường xe của lữ quán Perry Plaza bên cạnh. Nhà chúng tôi nằm trên đồi, còn lữ quán nằm ở khu đất bằng phía dưới. Khi tôi đi được khoảng nửa đường, bố nhìn xuống và thấy tôi cầm phong bì trên tay. Tôi vẫn đi tiếp ra hòm thư, bỏ phong bì vào và về nhà. Chắc ông cũng tự hỏi không biết tôi làm gì, nhưng ông không hỏi tôi. Ông không bao giờ hỏi cả. Tôi đoán ông có quá đủ bí mật của riêng ông rồi.

Chuyện các bí mật làm tôi nghĩ rất nhiều trong bao năm qua. Chúng ta ai cũng có bí mật và chúng ta có quyền có bí mật. Chúng làm cho cuộc sống của chúng ta thú vị hơn, và khi ta quyết định chia sẻ các bí mật, các mối quan hệ của chúng ta trở nên có ý nghĩa hơn. Nơi ta cất giấu bí mật còn có thể trở thành một nơi trú ẩn, nơi ta rút khỏi thế giới bên ngoài, nơi bản ngã của mỗi người được hình thành và củng cố, nơi sự đơn độc có thể mang lại sự an bình. Dầu vậy, những bí mật vẫn có thể là những gánh nặng ghê gớm, đặc biệt là nếu có dính dáng đến sự hổ thẹn, dù nguồn cơn của sự hổ thẹn đó không đến từ người mang bí mật. Hoặc sự thôi thúc phải có bí mật có thể quá mạnh, mạnh đến mức ta cảm thấy không thể sống thiếu bí mật, thậm chí không thể là chính mình nếu không có bí mật.

Tất nhiên khi bắt đầu trở thành người giữ bi mật, tôi chưa hiểu hết những điều này. Hồi đó tôi thậm chí cũng không nghĩ ngợi gì nhiều. Tôi nhớ rõ khá nhiều về thời thơ ấu, nhưng tôi không tin vào trí nhớ của mình để xác định chính xác mình biết những gì và vào lúc nào về những chuyên đó. Tôi chỉ biết rằng tôi đã chật vật tìm kiếm sự cân bằng thích hợp giữa những bí mật của sự phong phú nội tâm và những bí mật của sợ hãi và hổ thẹn giấu kín, và rằng tôi luôn không muốn nói gì với bất cứ ai về những đoạn đời riêng khó khăn nhất của mình, kể cả thời kỳ khủng hoảng tinh thần năm 13 tuổi khi lòng trung tín của tôi quá yếu không thể giữ được niềm tin vào Chúa sau tất cả những gì tôi chứng kiến và trải qua. Bây giờ thì tôi biết sự chật vật này ít nhất một phần là do phải lớn lên trong gia đình có người nghiện rượu và do những phản xạ của tôi để thích nghi với hoàn cảnh ấy. Phải rất lâu tôi mới hiểu ra điều đó. Thật khó để hiểu ra rằng những bí mật nào cần giữ kín, những bí mật nào cần cho đi và những bí mật nào cần phải tránh ngay từ đầu. Giờ đây tôi cũng chưa dám chắc đã hoàn toàn hiểu được. Có vẻ như còn phải học cả đời mới hiểu được.

Chú thích:

1. Vệ binh quốc gia (National Guard) là lực lượng quân sự của tiểu bang, nhúng chính phủ liên bang có thể trưng dụng khi cần thiết.

2 - Hiệp hội thanh niên Kytô giáo

3 - Cải cách tôn giáo: phong trào tôn giáo thế kỷ 16 đã đưa tới việc hình thành đạo Tin Lành.