Chương 6
Tồi không biết mẹ làm cách nào mà chịu được như vậy. Mỗi sáng, dù cho đêm hôm trước có chuyện gì xảy ra, mẹ vẫn dậy và không để lộ ra nét mặt. Thật là một khuôn mặt đáng nể. Từ hồi mẹ ở New Orleans trở về và tôi biết dậy sớm, tôi rất thích ngồi trên sàn buồng tắm và xem mẹ trang điểm lên khuôn mặt xinh đẹp đó.
Mẹ trang điểm khá lâu, một phần vì mẹ không có lông mày. Mẹ hay đùa rằng ước gì mẹ có đôi lông mày rậm rạp đến mức phải nhổ bớt đi như của tài tử nổi tiếng thời đó, Akim Tamiroff. Mẹ phải dùng bút chì tự vẽ lông mày. Sau đó mẹ bôi phấn và đánh son, thường là màu đỏ hợp với sơn móng tay.
Cho đến năm tôi 11 hoặc 12 tuổi, mẹ để tóc dài gợn sóng. Mái tóc mẹ thật dày và đẹp, và tôi thích xem mẹ chải tóc cho đến khi mượt hẳn. Tôi sẽ không bao giờ quên ngày bà đi thẩm mỹ viện về với mái tóc ngắn, tất cả tóc gọn sóng của bà đã bị cắt hết. Chuyên ấy xảy ra không lâu sau khi con chó đầu tiên của tôi, Susie, quá già phải lìa đời, và lần này tôi cũng đau đớn gần như vậy. Mẹ nói tóc ngắn hợp thời trang hơn và phù hợp hơn với phụ nữ ngoài 30 như bà. Tôi thấy không hợp lý chút nào, và luôn nhớ mái tóc dài của mẹ, dù vài tháng sau khi bà thôi không nhuộm những sợi tóc bạc lẫn trong tóc từ hồi bà còn chưa tới 30, tôi lại thích.
Lúc mẹ trang điểm xong cũng thường là lúc mẹ đã hút hết một hai điếu thuốc và uống vài tách cà phê. Rồi sau khi bà Walters đến, mẹ đi làm, thỉnh thoảng thả tôi đến trường nếu như giờ học của tôi gần giờ đi làm. Khi đi học về, tôi thường chơi với đám bạn hoặc với nhóc Roger. Tôi thích có em trai, và tất cả đám bạn tôi đều thích cho nó chơi chung cho đến lúc nó lớn lên và thích chơi với bạn riêng của nó.
Mẹ thường đi làm về đến nhà khoảng bốn, năm giờ, trừ những hôm trường đua mở cửa. Bà yêu những cuộc đua ngựa. Dù mẹ ít khi cá cược hơn hai đôla, mẹ coi chuyện đó rất nghiêm túc, thường tìm hiểu kỹ phong độ đua của ngựa, lắng nghe mấy chú nài, mấy tay chăm ngựa và chủ ngựa mà mẹ biết, rồi hay bàn tán nên chọn cá cược thế nào với bạn bè. Bà kết bạn được với một vài người bạn tốt nhất của mình ở trường đua: Louis Crain và ông chồng Joe, vốn là một cảnh sát, sau này lên cảnh sát trưởng và từng hay chở bố đi vòng vòng trên xe tuần tra mỗi khi bố xỉn để cho ông nguội bớt lại; Dixie Seba và ông chồng Mike, một tay luyện ngựa; và Marge Mitchell, y tá làm ở trạm y tế của trường đua để chăm sóc cho khách đến cá cược. Cô Marge, Dixie Seba và sau này là Nancy Crawford, người vợ kế của Gabe Crawford, có lẽ gần như trở thành những người thân thiết nhất của mẹ tôi. Cô Marge và mẹ thường gọi nhau là chị em.
Sau khi tốt nghiệp trường luật về nhà, tôi có dịp đền đáp cô Marge vì những gì cô đã làm cho mẹ tôi và cho tôi. Khi cô bị sa thải khỏi trung tâm sức khỏe tâm thần cộng đồng ở địa phương, cô định phản bác lại quyết định này và nhờ tôi đại diện cho cô trong phiên điều trần, và ngay cả những chất vấn non nớt thiếu kinh nghiệm của tôi cũng làm rõ được rằng việc sa thải cô không có cơ sở nào ngoài xung đột cá nhân giữa cô và sếp của cô. Tôi thắng cuộc, và rất phấn khích. Cô ấy xứng đáng được lấy lại việc làm.
Trước khi tôi bắt mẹ dính dáng đến chính trị, phần lớn bạn bè của bà đều liên quan đến công việc của bà - bác sĩ, y tá, nhân viên bệnh viện. Mẹ có nhiều bạn lắm. Mẹ không bao giờ gặp người lạ, làm việc cật lực để giúp bệnh nhân thoải mái trước ca mổ, thực sự yêu thích ở cạnh các đồng nghiệp. Tất nhiên, không phải tất cả mọi người đều thích bà. Mẹ có thể đôp chát với những ai bà cho là đang chèn ép bà hoặc lợi dụng vị thế của họ để cư xử không công bằng với người khác. Không giông như tôi, mẹ thực sự thích làm một số người phát khùng. Tôi thì có xu hướng tạo ra các kẻ thù mà không phải cố gắng gì, chỉ bằng việc cứ là chính mình, hoặc bằng quan điểm và những đổi thay mà tôi cố gắng đạt được trong sự nghiệp chính trị về sau này. Khi mẹ thực sự không thích ai đó, bà dùng mọi cách để họ tức sùi bọt mép. Kiểu đó làm bà phải trả giá trong thăng tiến nghề nghiệp sau này, và bà phải cố trong nhiều năm để tránh làm việc với một chuyên viên gây mê nọ và cũng gặp vài rắc rối trong các ca mổ của người này. Nhưng phần lớn mọi người đều thích mẹ, vì bà thực sự thích họ, đối xử tôn trọng họ, và rõ ràng là yêu đời.
Tôi không hiểu nổi mẹ làm sao có thể có được tinh thần và sinh lực như vậy, lúc nào cũng làm việc và vui vẻ, lúc nào cũng sẵn sàng chăm sóc em trai tôi, Roger, và tôi, không bao giờ bỏ một sự kiện nào ở trường của chúng tôi, thậm chí còn dành thời gian cho cả đám bạn tôi nữa mà vẫn âm thầm chịu đựng những rắc rối của riêng bà.
Tôi thích đến bệnh viện thăm mẹ, gặp gỡ các y tá và bác sĩ, xem họ chăm sóc người khác. Tôi được xem một ca phẫu thuật thực sự hồi tôi học trung học cơ sở, nhưng tôi chỉ nhớ mỗi một điều là dù người ta cắt rạch và máu me nhưng tôi không bị khó chịu. Tôi ngạc nhiên trước công việc của bác sĩ phẫu thuật và từng nghĩ sau này lớn lên có thể sẽ trở thành phẫu thuật gia.
Mẹ rất quan tâm đến bệnh nhân, dù họ có đủ tiền trả hay không. Vào cái thời trước khi có các loại chính sách y tế như Medicare và Medicaid, có nhiều người không đủ tiền nằm viện. Tôi còn nhớ một ông nghèo nhưng luôn kiêu hãnh một hôm đến nhà tôi để thanh toán chi phí. Ông làm nghề hái trái cây và trả công mẹ bằng sáu thúng đào tươi. Chúng tôi ăn mớ đào đó mãi mới hết - nào là kèm với bánh ngũ cốc, làm thành bánh trái cây, trộn trong kem nhà làm - đến nỗi tôi cứ mong bệnh nhân của mẹ cứ có nhiều người thiếu tiền mặt vào!
Tôi nghĩ mẹ tìm được nguồn an ủi đối với những căng thẳng trong cuộc sống gia đình từ công việc, bạn bè và từ các cuộc đua ngựa. Chắc hẳn có nhiều ngày bà cũng khóc thầm, thậm chí có thể vì đau đớn thể xác, nhưng phần lớn chả ai biết gì cả. Tấm gương này của bà đã giúp tôi vững vàng khi tôi làm tổng thống. Mẹ hầu như không bao giờ nói chuyện buồn của mẹ với tôi. Tôi nghĩ chắc bà cũng đoán ra là tôi biết đủ những gì cần biết và cũng đủ thông minh để hiểu nốt những gì còn lại, và dù trong hoàn cảnh như vậy vẫn đáng được hưởng một tuổi thơ bình thường nhất có thể.
Khi tôi 15 tuổi, mọi chuyên bắt đầu không còn im lặng trôi qua nữa. Bố bắt đầu nhậu nhẹt và cư xử bạo lực trở lại, nên mẹ đem tôi và em Roger ra khỏi nhà. Vài năm trước chúng tôi đã làm vậy một lần rồi, khi chúng tôi chuyển ra ở một vài tuần tại chung cư Cleveland Manor ở đầu phía nam đại lộ Central, gần trường đua. Lần này, vào tháng 4 năm 1962, chúng tôi ở khoảng ba tuần trong một lữ quán, còn mẹ đi tìm mua nhà. Chúng tôi cùng đi xem khá nhiều nhà, tất cả đều nhỏ hơn nhà cũ nhưng một số vẫn vượt quá túi tiền của mẹ. Cuối cùng mẹ chọn một căn nhà ba phòng ngủ, hai phòng tắm ở phố Scully, một đoạn phố ngắn chỉ có một dãy nhà cách đại lộ Central khoảng nửa dặm về phía tây. Đó là một căn nhà kiểu Gold Medallion mới, với hệ thống sưởi và điều hòa nhiệt độ trung tâm - nhà chúng tôi ở đại lộ Park có điều hòa nhiệt độ riêng - tôi nhớ nó có giá khoảng 30.000 đôla. Căn nhà này có một phòng khách khá đẹp và phòng ăn nằm phía bên trái lối vào. Đằng sau là khu vực sinh hoạt rộng nối liền với khu vực ăn và bếp, có một phòng giặt ủi phía sau gara. Phía bên kia phòng sinh hoạt là một lối đi khá lớn mà sau này chúng tôi xây tường kính trùm ra và đặt một bàn bida bên trong. Hai phòng ngủ nằm bên phải của hành lang, bên trái là một phòng tắm lớn và đằng sau phòng tắm này là một phòng ngủ có buồng tắm riêng có vòi sen. Mẹ cho tôi ở phòng ngủ lớn có buồng tắm vòi sen, chắc là vì bà muốn dùng phòng tắm lớn để có chỗ đặt bàn trang điểm và gương. Mẹ lấy phòng ngủ ở phía sau, còn Roger được phòng nhỏ.
Dù tôi rất thích căn nhà ở đại lộ Park, thích mảnh sân mà tôi chăm chút, hàng xóm và bạn bè cùng những trò vui, tôi vẫn cảm thấy vui khi được ở trong một ngôi nhà bình thường nhưng an toàn, có lẽ là cho mẹ và Roger nhiều hơn là cho tôi. Lúc ấy, dù tôi chưa biết gì về tâm lý trẻ em, tôi đã bắt đầu lo ngại rằng chuyện bố say xỉn và cư xử như vậy có thể làm tổn thương em Roger còn nhiều hơn tôi từng bị, vì nó từ bé đã phải chịu như vậy rồi và vì bô chính là bố đẻ của em Roger. Việc biết tôi có một người cha khác, người mà tôi luôn nghĩ là mạnh mẽ, đáng tin cậy, đã giúp tôi có sự thăng bằng tinh thần và có khoảng cách để nhìn mọi việc diễn ra mà ít bị ảnh hưởng, đôi khi còn với sự thông hiểu nữa. Tôi luôn yêu quí bố Roger, không bao giờ ngưng tìm cách để ông thay đổi, luôn thích ở bên cạnh ông khi ông tỉnh táo và quan tâm. Hồi đó tôi đã sự rằng nhóc Roger biết đâu lớn lên sẽ ghét bố nó. Và nó ghét thật, một điều làm nó phải đau đớn ghê gớm.
Khi nhớ lại các sự kiện thời xa xưa này, tôi thấy thật dễ rơi vào cái bẫy kiểu như những lời tán tụng mà Marc Anthony từng nói về Julius Caesar trong kịch của Shakespeare: tiếng xấu thì vẫn để đời, nhưng điều tốt thì bị chôn theo xuống mồ. Như phần lớn những người nghiện rượu và ma túy mà tôi biết, Roger Clinton thực chất vẫn là người tốt. Ông yêu mẹ, yêu tôi và nhóc Roger. Ông từng giúp mẹ đi thăm tôi khi mẹ đi học nghề ở New Orleans. Ông chi xài rộng rãi với gia đình và bạn bè. Ông ấy thông minh và hài hước. Nhưng ông cũng có những nỗi sợ hãi bất thường, sự bất ổn tiềm tàng và những nhược điểm tâm lý vốn thường triệt tiêu những mặt hứa hẹn trong đời của những người nghiện ngập. Và theo như tôi biết thì ông chưa bao giờ tìm sự giúp đỡ từ những ai biết cách giúp ông.
Chuyện khó chịu nhất khi sống chung với một người nghiện rượu là không phải lúc nào cũng ngột ngạt cả. Hàng tuần, đôi khi hàng tháng liền trôi qua mà gia đình vẫn yên ấm, vẫn có những niềm vui lặng lẽ của một cuộc sống bình thường. Tôi thật biết ơn là tôi vẫn chưa quên đi những lúc như vậy, và khi tôi có quên đi nữa thì tôi vẫn còn giữ vài lá thư và thiệp mà bố gửi tôi cũng như những tấm thiệp mà tôi gửi ông để nhắc tôi nhớ đến những thời khắc tốt đẹp.
Tôi cũng quên đi một số chuyện xấu. Gần đây khi tôi đọc lại ý kiến của mình trong hồ sơ ly dị của mẹ, tôi thấy trong đó mình đã kể lại sự cố trước đó ba năm khi tôi gọi cho luật sư của mẹ đề nghị báo cảnh sát đem bố đi sau một lần ông nổi khùng. Tôi còn nói rằng ông ấy dọa đánh tôi khi tôi ngăn ông ấy không được đánh mẹ. Chi tiết này thật buồn cười, vì lúc đấy tôi bự con và khỏe, còn ông ấy đã xỉn ngất ngư rồi. Tôi không nhớ gì về hai sự cố này, có lẽ vì tâm lý bỏ qua mà các chuyên gia tâm lý cho rằng những gia đình có người nghiện rượu thường mắc phải khi họ tiếp tục sống chung với người nghiện. Dù gì đi nữa, những kỷ niệm đó đến 40 năm sáu tôi vẫn chưa rõ.
Ngày 14 tháng 4 năm 1962, tức là năm ngày sau khi bỏ nhà đi mẹ nộp đơn ly dị. Ở Arkansas thủ tục ly dị có thể nhanh, và rõ ràng là mẹ có đủ cơ sở. Nhưng chuyện chưa chấm dứt ở đó. Bố khẩn thiết mong mẹ và chúng tôi quay lại. Ông rã rời, xuống ký, đậu xe hàng giờ liền gần nhà chúng tôi, thậm chí vài lần còn ngủ trên hàng hiên bê tông trước nhà chúng tôi. Một hôm bố bảo tôi đi cùng xe với ông. Chúng tôi lái về phía sau nhà cũ ở phố Circle Drive. Ông dừng xe ở phía cuối lối đi phía sau nhà. Trông ông thật thê thảm. Râu thì ba, bốn ngày không cạo, và tôi thấy ông không nhậu. Ông nói với tôi ông không thể sống thiếu chúng tôi được, và không có chúng tôi ông không còn biết sống cho ai nữa. Ông khóc. Ông van tôi hãy nói chuyên với mẹ và thuyết phục bà quay lại với ông. Ông nói ông sẽ đàng hoàng trở lại, sẽ không đánh đập hay la mắng bà nữa. Khi nói những điều đó, ông thực sự tin như vậy, nhưng tôi thì không. Ông chưa bao giờ hiểu ra hoặc chấp nhận nguyên nhân cho những rắc rối của mình. Ông không bao giờ thừa nhận rằng ông bất lực đối với rượu và rằng ông không thể tự bỏ rượu.
Trong khi đó, những lời nài nỉ của ông bắt đầu làm mẹ lung lay. Tôi đoán chắc bà cảm thấy e ngại vì không đủ tiền nuôi chúng tôi - cho đến khi các chương trình y tế Medicare và Medicaid được áp dụng vài năm sau đấy thì mẹ cũng đâu giàu có gì. Quan trọng hơn là quan điểm kiểu cũ của bà rằng ly dị, đặc biệt là khi đã có con cái, là một điều xấu - mà cũng đúng thế thật nếu như không có chuyện bạo hành thật sự. Chắc mẹ cảm thây bà cũng có một phần lỗi trong những chuyện rắc rối này. Và có lẽ chính bà cũng là nguyên nhân làm cho bố bất ổn; dù gì đi nữa bà cũng là một phụ nữ dễ coi, thú vị, thích làm việc với nam giới, và làm cùng chỗ với nhiều người đàn ông hâp dẫn và thành công hơn bố. Theo tôi biết bà không dan díu với ai trong số đó, mà tôi cũng chẳng trách bà nếu có. Sau khi chia tay với bố, bà có quen một ông tóc sẫm đẹp trai, ông này cho tôi vài cây gậy golf mà đến giờ tôi vẫn còn giữ.
Sau khi ở phố Scully vài tháng và vụ ly dị đã hoàn tất, mẹ bảo Roger và tôi rằng chúng tôi cần phải họp gia đình để bàn chuyện bố. Bà nói ông muốn quay lại, dọn vào ở trong nhà chúng tôi, và rằng bà nghĩ lần này sẽ khác, rồi hỏi xem chúng tôi nghĩ sao. Tôi không nhớ nhóc Roger nói gì - nó mới năm tuổi và chắc là thấy bối rối. Tôi bảo mẹ, tôi không đồng tình vì tôi không nghĩ là bố sẽ thay đổi, nhưng mẹ quyết định thế nào thì tôi cũng ủng hộ bà. Mẹ nói chúng tôi cần có đàn ông trong nhà và bà sẽ cảm thấy có lỗi nếu như không cho bố thêm một cơ hội nữa. Và bà làm thật, họ cưới nhau lại, và nếu nhìn quãng đời về sau này của bố, thì thật tốt cho ông, nhưng lại không tốt lắm cho em Roger hay cho mẹ. Tôi không biết ảnh hưởng của việc ấy với tôi như thế nào, ngoại trừ về sau này khi bố bệnh, tôi thấy vui khi được sống cùng ông trong mấy tháng cuối cùng của ông.
Dù tôi không đồng tình với quyết định của mẹ, tôi hiểu cảm giác của bà. Không lâu sau khi bà quay lại với bố, tôi xuống tòa án và đổi họ chính thức từ Blythe sang Clinton, họ mà tôi thực ra đã dùng từ nhiều năm trước. Đến giờ tôi vẫn không chắc tại sao tôi lại làm vậy, nhưng tôi nhớ là mình thực sự nghĩ nên làm, một phần vì bé Roger sắp đi học và tôi không muốn chuyện khác biệt về huyết thống giữa tôi và em trở thành một vấn đề đối với em, một phần vì chỉ muôn có cùng tên họ với cả nhà. Thậm chí có lẽ tôi muốn làm một cái gì đó cho bố vui dù khi mẹ ly dị ông tôi đã vui mừng. Tôi không báo trước cho mẹ, nhưng thủ tục đổi tên cần có sự cho phép của bà. Khi tòa án gọi điện cho bà, bà đồng ý, dù chắc bà nghĩ là tôi hơi quá vội vã. Đó không phải là lần duy nhất trong đời những quyết định và tính toán thời điểm của tôi gây tranh cãi.
Chuyện hôn nhân không suôn sẻ của bố mẹ, ly dị và hàn gắn chiếm chỗ trong tình cảm của tôi trong suốt những năm cuối trung học cơ sở và hai năm đầu trung học khi tôi học ở ngôi trường trung học cũ kỹ nằm ở ngay bên trên đồi.
Cũng như mẹ tìm quên trong công việc, tôi vùi mình vào học hành và chăm chú vào khu vực tôi ở tại phố Scully. Dãy phố này toàn những căn nhà bình thường và khá mới. Phía bên kia đường là một khu đất trống vốn là một phần của trang trại trước đây rất lớn của nhà Wheatley. Hàng năm ông Wheatley trồng đầy hoa mẫu đơn trên khu đất ấy. Vào mùa xuân hoa mẫu đơn nở sáng bừng cả khu làm người ở cách xa hàng dặm cũng đến để kiên nhẫn chờ ông Wheatley cắt hoa xuống cho.
Nhà chúng tôi là căn thứ hai trong phố. Căn đầu tiên, ngay góc ngã tư, là của mục sư Walter Yeldell và vợ ông, bà Kay, cùng các con của họ là Carolyn, Lynda, Deborah và Walter. Ông Walter là mục sư của nhà thờ Baptist Đệ nhị và sau này là chủ tịch của Liên hữu Baptist Arkansas. Ngay từ đầu ông và bà Kay đã đối xử tuyệt vời với chúng tôi. Tôi không biết liệu Đạo hữu Yeldell, như chúng tôi gọi ông, người đã chết năm 1987, sẽ sống ra sao trong môi trường phán xét khắc nghiệt của nhà thờ Baptist Phương Nam trong thập niên 90, khi mà những nhân vật "tự do" thiên lệch bị đuổi khỏi các chủng viện và nhà thờ thì có thái độ rất cứng rắn về tất cả các vấn đề xã hội trừ vấn đề chủng tộc (nhà thờ đã xin lỗi về những tội lỗi trong quá khứ). Đạo hữu Yeldell là một người cao to vai rộng, nặng đến hơn 120kg. Dưới vẻ bề ngoài như nhút nhát, ông lại có một óc hài hước và kiểu cười tuyệt diệu. Vợ ông cũng vậy. Họ chẳng bao giờ lên mặt cả. Ông dẫn dắt mọi người đến với Chúa bằng lời chỉ dẫn và bằng cách nêu gương chứ không bằng việc chỉ trích hay bêu riếu. Ông chắc sẽ không được một số nhân vật sừng sỏ Baptist hoặc người dẫn dắt show truyền hình thời nay ưa chuộng, nhưng tôi chắc chắn là thích nói chuyện với ông.
Carolyn, con lớn của Yeldell, trạc tuổi tôi. Cô ấy yêu âm nhạc, có giọng hát hay và chơi piano giỏi. Chúng tôi hay tụ tập quanh đàn piano của cô ấy và hát hàng giờ liền. Cô ấy thỉnh thoảng còn đệm cho tôi chơi saxo, và cũng không phải là trường hợp hiếm có khi người đệm lại chơi hay hơn người chơi chính. Carolyn chẳng bao lâu trở thành một trong những người bạn thân nhất của tôi và một thành viên của đám chúng tôi, cùng với David Leopoulos, Joe Newman và Ronnie Cecil. Chúng tôi đi xem phim, dự các sinh hoạt ở trường với nhau và thường đánh bài, chơi đùa hay ngồi không với nhau, thường là ở nhà chúng tôi. Năm 1963, khi tôi đi dự đại hội American Legion Boys Nation và chụp tấm ảnh trứ danh với Tổng thống Kennedy thì Carolyn đi dự đại hội Girls Nation, người duy nhất trong hàng xóm của tôi đi dự như vậy. Carolyn học thanh nhạc ở Đại học Indiana. Cô ấy muốn thành ca sĩ opera nhưng lại không ưa kiểu sống của mấy ca sĩ opera. Thế là cô ấy cưới Jerry Staley, một nhiếp ảnh gia giỏi, sinh ba con và trở thành một lãnh đạo trong phong trào xóa mù chữ cho người lớn. Khi tôi làm thống đốc tôi xếp cô phụ trách việc xóa mù cho người lớn, và cô cùng gia đình sống trong một căn nhà cũ nhưng lớn cách dinh thống đốc khoảng ba dãy phố. Tôi hay đến nhà cô dự tiệc, chơi các trò chơi hoặc hát hò như thời xưa. Khi tôi thành tổng thống, Carolyn và gia đình cô chuyển đến khu vực Washington, làm việc, và sau đó là lãnh đạo, cho Viện bình dân học vụ quốc gia. Sau khi tôi rời Nhà Trắng cô ấy vẫn tiếp tục làm một thời gian, rồi theo chân cha làm việc đạo. Gia đình nhà Staley vẫn là một phần tốt đẹp của đời tôi. Tất cả đều bắt đầu từ phố Scully.
Nhà phía bên kia nhà chúng tôi là của Jim và Edith Clark, họ không có con nhưng coi tôi như con vậy. Trong số hàng xóm khác của chúng tôi còn có nhà Fraser, một cặp vợ chồng lớn tuổi từng ủng hộ tôi trong sự nghiệp chính trị. Nhưng món quà lớn nhất của họ cho tôi đến thật tình cờ. Vào năm 1974, sau khi tôi thua trong cuộc chạy đua căng thẳng đau đớn vào quốc hội và vẫn còn đang rất chán nản, tôi thấy cháu gái nhà Fraser, lúc đó chỉ khoảng năm hay sáu tuổi. Nó bị bệnh nặng đến mức xương quá yếu và phải bó bột đến tận ngực, hai chân thì chĩa ra ngoài để giảm sức ép lên cột sống. Nó đi lại bằng nạng rất khó khăn, nhưng nó là một bé gái rất cứng cỏi và không bị cảm giác tự kỷ mà trẻ nhỏ khác hay có. Khi thấy nó tôi hỏi nó có biết tôi là ai không. Nó nói: "Biết chứ. Bác vẫn là Bill Clinton". Đúng là lúc ấy tôi cần phải được nhắc nhở như vậy.
Nhà Hassin, gia đình gốc Ý lai Syria mà tôi đã kể, ở chật chội, cả sáu người trong một căn nhà bé tẹo ở cuối phố. Chắc là họ có bao nhiêu tiền đều mua đồ ăn cả. Mỗi giáng sinh và vào nhiều dịp khác trong năm, họ đãi cả phố toàn đồ ăn Ý. Tôi còn nhớ bác Gina hay nói: "Này Bin, ăn thêm đi con".
Ngoài ra còn có Jon và Toni Karber, cả hai đều mê đọc và là những người trí thức nhất mà tôi biết, cùng con trai họ Mike, học chung lớp với tôi. Còn cả ông Charley Housley - một người đàn ông thực thụ biết câu cá, đi săn, sửa chữa mọi thứ, nói chung là có đủ các đức tính mà bọn nhóc trai thích. Ông hay che chở cho em Roger. Dù nhà và sân mới của chúng tôi nhỏ hơn ở nhà cũ, khu vực xung quanh cũng không đẹp bằng, nhưng tôi yêu mến nhà mới và khu vực mới của tôi. Đấy là một nơi tốt cho tôi sống hết những năm trung học.