← Quay lại trang sách

Chương 9

Mùa hè trôi qua quá nhanh như mọi kỳ nghỉ hè khi ta còn bé, và vào ngày 12 tháng 9, tôi cùng mẹ bay tới Washington để du ngoạn chừng một tuần trước khi tôi bắt đầu năm thứ nhất đại học. Tôi không biết điều gì chờ đợi mình, nhưng tôi đầy kỳ vọng.

Chuyến đi này khó khăn cho mẹ nhiều hơn cho tôi. Chúng tôi luôn gần gũi nhau, và tôi biết mỗi khi nhìn tôi, mẹ thường thấy cả bố và tôi. Mẹ lo về chuyện làm sao nuôi được Roger bé một mình với Roger bố mà không có tôi. Và tôi và mẹ sẽ thấy thiếu vắng nhau. Chúng tôi đủ giống và đủ khác biệt để có thể vui vẻ bên nhau. Bạn bè của tôi cũng quý mẹ và bà cũng thích bạn bè tôi tới nhà, điều mà từ đây vẫn sẽ diễn ra nhưng chỉ vào những dịp tôi về nhà ăn giáng sinh hoặc nghỉ hè.

Không giống như bây giờ, hồi đó tôi chẳng thể biết mẹ lo lắng thế nào cho tôi. Gần đây, tôi tình cờ tìm được lá thư giới thiệu mẹ viết tháng 12 năm 1963 trong hồ sơ của tôi cho Giải thưởng lãnh đạo Elks, vốn được trao cho một hoặc hai học sinh trung học xuất sắc mỗi năm ở những thành phố nào có câu lạc bộ Elks. Bà viết rằng lá thư ấy "giải tỏa bớt một phần nhỏ mặc cảm tội lỗi của tôi về Bill. Công việc gây mê của tôi đã chiếm mất nhiều thời giờ đúng ra phải dành cho nó. Và vì thế, những gì Bill đã giành được, đã làm được đều thực sự là do tự thân nó. Vậy nên mỗi khi nhìn Bill tôi lại thấy một người đàn ông tự lập thân". Mẹ tôi thật sai khi nói vậy! Chính bà đã dạy dỗ tôi thức dậy hàng ngày và luôn cố gắng; dạy tôi nên tìm những điểm tốt đẹp nhất ở người khác ngay cả khi họ chỉ nhìn thấy mặt xấu của tôi; dạy tôi biết ơn vì được sống mỗi ngày và chào đón ngày mới bằng nụ cười; dạy tôi rằng tôi có thể làm hoặc đạt được bất cứ gì nếu tôi sẵn sàng bỏ ra đủ nỗ lực cho mục tiêu đó. Và cũng chính mẹ dạy tôi rằng cuối cùng thì tình yêu và sự tốt bụng sẽ vượt lên trên sự tàn nhẫn và ích kỉ. Mẹ tôi không sùng đạo kiểu bình thường, dù khi có tuổi bà có khuynh hướng này. Bà chứng kiến quá nhiều cái chết đến mức bà thấy khó tin vào kiếp sau. Nhưng nếu đạo là tình yêu thương thì mẹ tôi chính là một phụ nữ sùng đạo. Tôi ước gì có thể giải thích với mẹ rằng tôi còn lâu mới là kẻ "tự lập thân".

Mặc dù biết những thay đổi lớn sắp diễn ra nhưng mẹ và tôi đều cảm thấy rất phấn khích khi tới Georgetown. Chỉ cách cơ sở chính của trường vài dãy phố là nơi được gọi là Cơ sở phía Đông, trong đó có phân khoa Ngoại giao và vài khoa khác có cả sinh viên nữ và đa dạng hơn về chủng tộc và tôn giáo. Ngôi trường do Tổng giám mục John Carroll thành lập năm 1789, năm làm tổng thống đầu tiên của George Washington. Bức tượng ông vẫn sừng sững nơi vòng xoay lớn ở cổng lối vào cơ sở chính. Năm 1815, Tổng thống James Madison ký một điều luật cho phép trường Georgetown được tự cấp bằng. Mặc dù ngay từ đầu trường chúng tôi đã luôn rất rộng mở đối với những người thuộc các tôn giáo khác nhau, và một trong những hiệù trưởng vĩ đại nhất của trường, cha Patrick Healy từ năm 1874 đến 1882, hiệu trưởng gốc Phi đầu tiên của ngôi trường đa số da trắng, nhưng Yard1 vẫn toàn là sinh viên nam da trắng và hầu như tất cả đều theo Công giáo. Khoa Ngoại giao được thành lập năm 1919 bởi cha Edmund A. Walsh, một người chống cộng quyết liệt. Khi tôi vào học tại trường, ở đây vẫn còn vô số các giáo sư từng sống hoặc trốn chạy khỏi các chế độ cộng sản ở châu Âu và Trung Quốc; và những người thông cảm với các hoạt động chống cộng của chính quyền Mỹ, trong đó có cả ở Việt Nam.

Không chỉ quan điểm chính trị tại khoa Ngoại giao mới mang tính bảo thủ. Chương trình học cũng vậy, sự khắc khổ của chương trình phản ánh triết lý giáo dục của Dòng Tên, được gọi là Ratio Studỉorum bắt nguồn từ cuối thế kỷ 16. Trong hai năm đầu, mỗi học kỳ chúng tôi buộc phải học sáu môn với tổng thời gian khoảng 18 hoặc 19 tiếng trên lớp. Các môn học tự chọn chỉ bắt đầu có từ học kỳ hai của năm thứ ba. Rồi còn có những quy định về trang phục nữa. Trong năm nhất, tất cả các nam sinh đều phải mặc áo sơmi, áo vest bên ngoài và đeo cà vạt tới lớp. Chúng tôi có thể mặc áo sợi tổng hợp, nhưng tôi cảm thấy rất khó chịu với loại áo này nên tôi đành chấp nhận mất năm đôla trong tổng số 25 đôla tiền tiêu tuần cho việc giặt ủi năm bộ sơmi đi học. Còn quy định của ký túc xá nữa chứ: "Sinh viên năm nhất phải ở tại phòng để học vào các buổi tối trong tuần và phải tắt đèn lúc nửa đêm. Tối thứ sáu và thứ bảy, sinh viên năm nhất phải về phòng trước 12h30... Không chấp nhận các khách khác giới, đồ uống có cồn, thú nuôi, hay vũ khí trong ký túc xá". Tôi biết mọi thứ giờ đã thay đổi đôi chút, nhưng khi tôi và Hillary đưa Chelsea tới Stanford năm 1997, mọi thứ quả là bất ổn khi thấy cả nam và nữ ở trong cùng một ký túc. Tuy vậy, cũng may là lệnh cấm vũ khí trong ký túc xá vẫn còn. Rõ ràng là NRA (Hiệp hội súng trường quốc gia, một tổ chức ủng hộ quyền công dân được mang súng ở Mỹ - ND) chưa thành công trong việc đòi hủy bỏ quy định câm vũ khí.

Một trong những người đầu tiên tôi và mẹ gặp khi bước vào cổng trường là cha Dinneen, linh mục hướng dẫn sinh viên năm nhất, người chào đón tôi bằng cách bảo tôi là Georgetown không thể hiểu nổi tại sao một anh theo Tin Lành Baptist Phương Nam, không biết ngoại ngữ nào ngoài tiếng Latinh lại thích học khoa Ngoại giao. Giọng nói của ông cho thấy họ cũng chẳng hiểu sao trường lại nhận tôi. Tôi chỉ cười và nói có lẽ sau một hoặc hai năm gì đó cả hai bên sẽ hiểu ra chăng. Mẹ lo lắng thấy rõ, nên khi cha Dinneen ra gặp các sinh viên khác, tôi bảo bà là chỉ cần một thời gian họ sẽ hiểu lý do thôi. Tôi nghi như vậy là nói hơi quá, nhưng nghe cũng tạm được.

Sau các thủ tục ban đầu, chúng tôi đi tìm phòng ký túc xá của mình và gặp bạn cùng phòng. Ký túc xá - tòa nhà Loyola - nằm ở góc đường 35 và đường N, ngay sau và nối với tòa nhà Walsh của khoa Ngoại giao. Tôi được phân về phòng 225, ngay đối diện với cổng trước ở đường 35 và nhìn xuống khu nhà và ngôi vườn tuyệt đẹp của Thượng nghị sĩ Claiborne Pell nổi tiếng của bang Rhode Island, người vẫn còn làm thượng nghị sĩ khi tôi làm tổng thống. Vợ chồng ông ấy cũng là bạn của vợ chồng tôi, và hơn 30 năm sau khi nhìn được mặt ngoài của căn nhà lớn và cổ đó của họ cuối cùng tôi cũng được vào trong chiêm ngưỡng.

Khi mẹ và tôi tới cửa phòng ký túc, tôi hơi khựng lại. Cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 1964 đang ở cao trào, và trên cửa phòng tôi có một tấm hình của Goldwater. Tôi cứ nghĩ mình đã bỏ tất cả những thứ này lại phía sau ở Arkansas! Bức ảnh đó của cậu bạn cùng phòng tôi, Tom Campbell, một người Công giáo Ireland đến từ Huntington, Long Island. Gia đình cậu ta theo đảng Cộng hòa và rất bảo thủ, và cậu này từng là cầu thủ bóng bầu dục tại trường trung học Dòng Tên Xavier ở thành phố New York. Bố cậu ta từng thắng chức thẩm phán địa phương nhờ theo con đường của đảng Bảo thủ. Tom có lẽ còn ngạc nhiên hơn tôi về vụ xếp phòng này. Tôi là người Tin Lành Baptist miền Nam đầu tiên mà cậu ta gặp, và tệ hơn nữa, tôi còn là một người cổ vũ nhiệt thành cho đảng Dân chủ và Lyndon B. Johnson.

Mẹ chẳng bao giờ để những thứ cỏn con như chính trị chen vào việc sắp xếp nơi ăn ở. Như với mọi người, mẹ nói chuyện với Tom như thể biết cậu ta từ lâu, và chỉ một lát là chiếm được thiện cảm của cậu ta. Tôi cũng thấy mến cậu ta và nghĩ rằng chúng tôi sẽ hợp nhau. Và thực tế đúng vậy, trong suốt bốn năm sống cùng nhau ở Georgetown và gần 40 năm làm bạn.

Rồi cũng đến lúc mẹ chia tay tôi và tôi bắt đầu lại khám phá nơi ở mới của mình, xuất phát từ tầng của tôi. Vọng lại từ phía cuối hành lang là tiếng nhạc của "Tara's Theme" trong phim Gone with the Wind - Cuốn theo chiều gió và tôi lần theo đó, hi vọng tìm thấy được một người miền Nam, hay biết đâu lại là một người theo đảng Dân chủ. Khi tôi tìm tới phòng phát ra tiếng nhạc, tôi thấy một nhân vật ngoại hạng, Tommy Caplan. Cậu ta đang ngồi trên một chiếc ghế dựa bập bênh, chiếc độc nhất trong cả tầng. Nói chuyện môt lúc thì tôi biết cậu ta là con một của một người kinh doanh kim hoàn ở Baltimore, và cậu ta từng biết Tổng thống Kennedy. Bằng giọng nhanh và rõ một cách lạ thường mà tôi thấy hơi có vẻ kiểu cách, cậu ta bảo cậu muốn trđ thành nhà văn và gây ấn tượng lên tôi bằng một vài câu chuyện về Tổng thống Kennedy. Dù khi ấy tôi biết mình thích cậu ta, tôi không thể ngờ rằng tôi đã gặp một trong những người bạn tốt nhất của mình. Trong bốn năm tiếp theo, Tommy giúp tôi làm quen với Baltimore, với gia đình cậu ta ở Bờ Đông của Maryland, với Nhà thờ Tân giáo và các nghi thức ở đó, với khách sạn Pierre ở New York cùng món cà ri Ấn Độ tuyệt vời, khách sạn Carlyle và những dịch vụ đắt tiền, với câu lạc bộ 21, nơi một số chúng tôi tổ chức sinh nhật thứ 21 của cậu ta, với Massachusetts và Mũi Cod, nơi tôi suýt chết đuối sau khi không bám được vào tảng đá đầy hà từng cắt chảy máu hết tay, chân và ngực tôi. Khi cố quay lại bờ thì tôi may mắn gặp được một dải cát dài cùng với sự giúp đỡ của Fife Symington, một cậu bạn cũ cùng trường của Tommy và sau này là đảng viên Cộng hòa và Thống đốc bang Arizona. (Nếu cậu ta mà biết trước tương lai của tôi thì lúc cứu tồi cậu ta dám đổi ý lắm!). Đổi lại, tôi giới thiệu cho Tommy về Arkansas, về cách sống dân dã của người miền Nam, về chính trị cơ sở. Tôi nghĩ trao đổi như vậy cũng xứng.

Vài ngày sau, tôi gặp một vài sinh viên nữa và bắt đầu vào học. Tôi cũng tìm được cách sống với 25 đôla/tuần. Năm đôla đã để dành cho năm chiếc sơmi đi học, và tôi quyết đinh mình sẽ ăn mỗi ngày một đô, các bữa ăn cuối tuần thêm một đô nữa để dư ra 14 đôla cho buổi đi chơi vào tối thứ bảy. Vào thời điểm năm 1964, tôi có thể mời bạn gái đi ăn tối với 14 đô, đôi khi còn đủ để xem phim nữa, dù tôi thường phải để cô gái gọi món trước nhằm đảm bảo số tiền chúng tôi phải trả cộng với tiền boa không quá ngân sách cho phép của tôi. Lúc đó có khá nhiều tiệm ở Georgetown nơi mà giá cả phù hợp với số tiền 14 đô của tôi. Ngoài ra, trong vài tháng đầu tôi cũng không hẹn ai vào thứ bảy nên ngân sách của tôi tương đối dư dả.

Sống bằng một đô mỗi ngày cũng không quá khổ sở - tôi luôn cảm thấy mình dư dả, thậm chí đủ để tham gia các vũ hội và những dịp đặc biệt nào đó. Ở quán Wisemiller Deli, ngay gần chỗ tôi học ở toà nhà Walsh, tôi có thể ăn hai bánh vòng rán và uống một ly cà phê mỗi sáng mà chỉ tốn 20 xu, lần đầu tiên tôi uống cà phê, một thói quen mà đôi khi tôi muốn bỏ, với thành công khá hạn chế. Ăn trưa tôi chi hẳn 30 xu. Một nửa số này để mua bánh táo hoặc sơri Hostess cộng với một ly Royal Crown Cola cỡ bự. Tôi rất khoái mấy ly Cola này và rất buồn khi nó bị ngừng sản xuất. Bữa tối thường đắt đỏ hơn, khoảng 50 xu. Tôi hay ăn ở tiệm Hoya Carry Out cách ký túc xá của tôi chừng vài dãy phố, và dù tên như vậy (carry out: mang về) nhưng tiệm có một cái quầy để khách có thể ăn tại chỗ. Ở đó chỉ ăn không thôi thì mới chỉ vui một nửa. Với 15 xu tôi có thể mua một ly nước ngọt cỡ bự; với 35 xu có thể mua một bánh sand­wich cá ngừ cỡ lớn - lớn đến mức khó có thể há mồm ngoạm hết được. 85 xu thì bạn có thể mua được một bánh sandwich thịt bò nướng cũng bự như vậy. Hôm nào mà chưa vung hết 14 đô đi chơi thứ bảy là tôi lại mua một cái bánh loại này.

Nhưng điều thú vị nhất ở Hoya Carry Out là ông bà chủ Don và Rose. Don là một người to khoẻ với hình xăm ngay trên bắp vai nở nang vào cái thời mà hình xăm vẫn còn hiếm chứ chưa xuất hiện nhan nhản trên người các ngôi sao nhạc rock, vận động viên và mấy thanh niên trẻ như bây giờ. Bà Rose để tóc búi lớn trên đầu, khuôn mặt dễ thương và luôn biết khoe vẻ đẹp thân hình của mình bằng cách mặc áo len và quần bó sát cùng giày cao gót. Rose luôn cuốn hút những cậu bé nghèo tiền nhưng giàu trí tưởng tượng, và sự hiện diện của ông Don hiền lành nhưng luôn cảnh giác khiến chúng tôi chỉ có ăn mà thôi chứ không dám làm gì thêm. Khi bà Rose làm việc, chúng tôi luôn cố ăn thật chậm để đảm bảo việc tiêu hoá được tốt.

Trong hai năm đầu, tôi hiếm khi đi xa khỏi trường và khu vực quanh trường, một khu vực nhỏ bẻ giáp phố M và sông Potomac ở phía nam, phố Q ở phía bắc, đại lộ Wisconsin ở phía đông và trường tôi ở phía tây. Các địa điểm vui chơi của tôi ở Georgetown là quán bia Tombs nằm dưới Nhà hàng 1789, nơi hầu hết sinh viên vẫn ra đó uống bia và ăn hamburger; nhà hàng Billy Martin, nơi có không khí và đồ ăn ngon phù hợp với túi tiền của tôi; và quán Cellar Door, ngay dưới đồi chỗ ký túc xá chúng tôi trên đường M. Quán này có chơi nhạc sống tuyệt hay. Tôi được nghe Glenn Yarborough, một ca sĩ đồng quê nổi tiếng những năm 60, nghệ sĩ nhạc jazz Jimmy Smith, và một ban nhạc giờ ít người biết, ban Mugwumps, họ tan rã một thời gian ngắn sau khi tôi tới Georgetown. Hai người trong nhóm đã thành lập ban nhạc khác nổi tiếng hơn, Lovin' Spoonful. Cass Elliot, ca sĩ hát chính của nhóm sau này trở thành thành viên chính của ban "The Mamas and The Papas". Thỉnh thoảng Cellar Door mở cửa cả vào chiều chủ nhật, và bạn có thể chỉ gọi một ly coca cola và nghe Mugwumps hát hàng tiếng đồng hồ mà chỉ tốn một đôla.

Dù thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy ngột ngạt ở Georgetown, nhưng phần lớn thời gian tôi cảm thấy rất hạnh phúc với lớp học và bạn bè. Tuy vậy những chuyến đi ra khỏi tổ kén cũng luôn rất vui. Vài tuần sau khi bắt đầu học kỳ một, tôi tới Thính phòng Lisner để nghe Judy Collins hát. Bây giờ tôi vẫn có thể hình dung ra cô ấy, mái tóc vàng dài, mặc váy cotton dài chấm đất đứng trên sân khấu với cây đàn guitar. Kể từ ngày đấy tôi là một fan hâm mộ của Judy Collins. Tháng 12 năm 1978, Hillary và tôi tới London trong một kỳ nghỉ ngắn sau lần đầu tôi trúng cử Thống đốc bang. Một hôm khi chúng tôi đang ngắm tủ kính cửa hàng trên đường King ở Chelsea thì nghe thấy một cửa hàng mở nhạc Judy hát bài "Chelsea buổi sáng" của Joni Mitchell. Chúng tôi cùng đồng ý ngay tại chỗ là nếu sau này có con gái sẽ đặt tên là Chelsea.

Dù tôi không thường rời khu Georgetown nhưng tôi cũng đến New York hai lần trong học kỳ đầu tiên. Tôi về nhà Tom Campbell ở Long Island trong dịp lễ Tạ ơn. Khi đó Lyndon Johnson đã thắng cử, và tôi thích bàn luận chính trị với bố của Tom. Tôi chọc ông cụ cả đêm bằng việc hỏi khu vực đẹp đẽ nhà ông có tham gia một thoả ước "bảo vệ" nào không, loại thỏa ước mà các chủ nhà cam kết không bán nhà cho những nhóm người "lôm côm", thường là người da đen chẳng hạn. Những thoả ước kiểu vậy tương đối phổ biến cho đến khi Tòa án tối cao xác định việc đó là vi hiến. Ông cụ trả lời rằng khu vực đó có một thoả ước kiểu vậy nhưng không phải chống người da đen mà là người Do Thái. Tôi sống ở một thị trấn ở miền nam nơi có hai giáo đường Do Thái và một nhóm khá đông những người bài Do Thái và gọi dân Do Thái là "bọn giết Chúa" nhưng tôi vẫn ngạc nhiên bởi thái độ bài Do Thái vẫn tràn lan ở New York. Phải chi miền nam cũng đừng có nạn phân biệt chủng tộc và bài Do Thái thì chắc là tôi sẽ thoải mái biết mấy, nhưng thực tế không như vậy.

Một vài tuần trước kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn đó, tôi đã tới New York khi tôi đi cùng ban nhạc của Georgetown, một nhóm tương đối hổ lốn. Một tuần chúng tôi chỉ tập một hoặc hai lần nhưng chơi đủ hay để được mời tới chơi hoà nhạc ở một trường Công giáo nhỏ, Đại học St. Joseph dành cho nữ ở Brooklyn. Buổi hòa nhạc diễn ra suôn sẻ và tại buổi sinh hoạt giao lưu sau đó có một sinh viên nữ mời tôi tiễn cô về nhà và vào uống Coke với cô ấy và mẹ cô ấy. Đó là lần đầu tiên tôi bước vào một trong những tòa chung cư tưởng như bất tận vốn là nơi cư ngụ của cư dân New York cả giàu lẫn nghèo. Vì không có thang máy nên chúng tôi phải leo cầu thang mới lên tới nhà cô ấy. Do đã quen với Arkansas nơi mà ngay cả những người không khá giả lắm cũng có những căn nhà một tầng có sân, nên tôi thấy chỗ ấy rất nhỏ. Tôi chỉ còn nhớ cô ấy lẫn mẹ cô đều hết sức tử tế, và tôi thật kinh ngạc vì người ta có thể có những tính cách cởi mở như vậy dù phải sống trong những không gian chật chội như vậy.

Sau khi tạm biệt họ, tôi còn lại một mình giữa thành phố rộng lớn đó. Tôi bắt taxi tới quảng trường Times Square. Chưa bao giờ tôi thấy có nhiều đèn neon sáng đến vậy. Nơi đó thật ầm ĩ, hối hả và đầy tràn nhịp sống, và đôi khi cũng đầy tràn những mặt trái nữa. Lần đầu tiên tôi thấy những cô gái đứng đường, đang câu một anh chàng trông thật tội nghiệp mặc bộ đồ sẫm, tóc húi cua, đeo kính gọng sừng và xách cặp. Anh ta vừa thích vừa sợ, nhưng cuối cùng nỗi sợ thắng thế. Anh ta đi tiếp. Cô nàng cười, nhún vai và rồi trở lại với việc câu khách của mình. Tôi đi xem các rạp hát và các cửa hiệu, và một biển quảng cáo lớn bắt mắt tôi - Bít tết Tad - một miếng bít tết lớn giá một đô 59 xu.

Tôi bước vào tiệm, mua miếng bít tết và ngồi vào bàn. Ngồi gần tôi có một anh chàng có vẻ đang nổi nóng và bà mẹ đau khổ của anh ta. Anh ta đang chì chiết mẹ mình bằng những lời cộc lốc: "Đó là đồ rẻ tiền, mẹ ơi. Đồ rẻ tiền!". Bà mẹ trong khi đó cứ lặp đi lặp lại rằng người bán hàng bảo món hàng đó rất tốt. Một vài phút sau tôi cũng dần hiểu ra sự tình. Bà mẹ dành dụm đủ tiền để mua cho cậu con trai chiếc máy nghe đĩa mà anh chàng này rất thích. Vấn đề là bà mẹ chỉ đủ tiền mua loại hi-fi thường trong khi anh chàng kia muốn mua loại âm thanh nổi stereo mới nghe hay hơn, và có vẻ ngon lành hơn với những thanh niên sành điệu. Bà mẹ không đủ tiền mua chiếc máy stereo. Thay vì phải biết ơn thì cậu nhóc hét lên với bà mẹ ở chỗ đông người "Đồ đạc nhà mình toàn thứ bèo bọt! Tôi muốn cái tốt!". Điều đó khiến tôi phát tởm. Tôi muốn thụi cho hắn một phát, chửi cho hắn biết rằng hắn đã rất may mắn có bà mẹ yêu thương hắn như vậy, lo đủ thức ăn và quần áo cho hắn mà hầu như chắc chắn là bằng đồng lương ít ỏi kiếm được từ một công việc tẻ ngắt nào đó. Tôi đứng lên và bực mình bước ra mà không chén hết miếng bít tết giá hời của mình. Sự việc đó ảnh hưởng rất lớn đối với tôi, có lẽ vì những gì mẹ đã làm và chịu đựng cho tôi. Điều đó khiến tôi cảm thông hơn với những người phải làm nhiều công việc mà chúng ta không muốn tự làm nhưng lại cũng không muốn trả nhiều tiền cho người khác. Tôi cũng cảm thấy mình căm ghét sự vô ơn và tự hứa mình phải luôn biết ơn những người xung quanh hơn nữa. Điều này cũng khiến tôi nên tận hưởng những giây phút may mắn ít ỏi của cuộc sống và luôn tự nhủ rằng một bước ngoặt của số phận thôi cũng có thể khiến tôi phải làm lại từ đầu hoặc thậm chí tệ hơn thế.

Không lâu sau chuyến đi đó tôi quyết định bỏ ban nhạc để tập trung vào việc học và các công tác sinh viên. Tôi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử chủ tịch sinh viên năm nhất nhờ có chiến dịch vận động hợp lý đối với những nhóm sinh viên chủ yếu là người Công giáo Ireland và Ý ở khu miền đông. Tôi không nhớ vì sao lại quyết định tranh cử, nhưng tôi được giúp đỡ nhiều và nó cũng thú vị. Cuộc tranh cử này không có những vấn đề phải giải quyết hay phải bảo trợ gì cả nên thách thức thực sự chủ yếu phụ thuộc vào vận động chính trị cơ sở và một bài diễn thuyết. Một trong những nhân viên vận động của tôi viết cho tôi một tin nhắn cho thấy tầm mức vận động của chúng tôi: "Bill này, có vân đề ở khu New Men; Hanover đang kiếm nhiều phiếu. Ở tầng ba khu Loyola thì có thể khả quan - cho đến tận cuối dãy chỗ phòng điện thoại công cộng ấy. Nhờ Dick Hayes đấy. Mai gặp nhé. Ngủ ngon nghe bồ. King". King ở đây là John King, một động cơ không biết mệt mỏi chỉ cao có thước sáu, là đội trưởng chèo thuyền của Georgetown và là bạn học nhóm của Luci Johnson, cô con gái tổng thống Johnson đang học cùng lớp với chúng tôi. Cô ấy có lần mời King vào ăn tối trong Nhà Trắng, làm chúng tôi vừa nể vừa ghen tị.

Vào ngày thứ ba trước cuộc bầu cử, cả lớp tập trung lại dể nghe các ứng viên diễn thuyết tranh cử. Người đề cử tôi là Bob Billingsley, một anh chàng người New York thích giao du. Chú cậu ấy là chủ nhà hàng Stob Club, và từng kể cho tôi nghe vô số chuyện về các ngôi sao từng đến nhà hàng ăn từ những năm 20 trở đi. Bob bảo tôi là người từng có quá trình làm lãnh đạo và là "người biết xoay xở và xoay xở tốt". Đến phiên mình phát biểu, tôi không nêu ra vấn đề nào mà chỉ hứa phục vụ "về mọi mặt cần thiết và vào mọi lúc" dù thắng hay thua, và cam kết sẽ cho cuộc tranh cử "một tinh thần khiến khoá chúng ta mạnh mẽ và tự hào hơn một chút khi cuộc đua này kết thúc". Đó là một nỗ lực tương đối khiêm tốn, và cũng nên như vậy vì, như người ta thường nói, lúc nào mà ta lại chẳng nên khiêm tốn.

Đối thủ mạnh hơn trong hai người tranh cử còn lại cố thêm sức nặng cho bài diễn văn trong thời điểm vốn chẳng có mấy trọng lượng khi giải thích anh ta tranh cử vì anh ta không muốn lớp chúng tôi rơi vào "vực thẳm không đáy của sự trầm luân". Tôi chẳng hiểu nhiều lắm về chuyện đó nhưng nghe kinh khủng quá. Lời bình luận "trầm luân không đáy" đó là quá đáng, và là một cơ hội may mắn cho tôi. Chúng tôi làm việc như điên và tôi trúng cử. Sau khi kiểm phiếu, bạn tôi đã gom được một đống tiền xu để tôi có thể gọi điện về nhà và báo với gia đình rằng tôi đã thắng cử. Một cuộc nói chuyện vui vẻ, tôi được biết đầu bên kia không có trục trặc gì còn mẹ biết tôi đã vượt qua nỗi nhớ nhà.

Dù tôi thích làm công tác sinh viên, các chuyến đi New York hoặc chỉ loanh quanh trong khu vực Georgetown, nhưng việc học mới là sự kiện chính trong năm đầu đại học của tôi. Lần đầu tiên tôi phải đi làm để kiếm tiền học. Tôi có may mắn lớn là cả sáu môn học đều được dạy bởi những giáo viên thú vị và có tài. Tất cả chúng tôi đều phải học một ngoại ngữ. Tôi chọn tiếng Đức vì tôi thích đất nước này và bị ấn tượng bởi sự rõ ràng và chính xác của ngôn ngữ đó. Tiến sĩ von Ihering, giáo sư tiếng Đức, là một người tốt bụng từng phải trốn trên gác xép ở một nông trại khi bọn Quốc xã bắt đầu đốt sách vở, trong đó có cả những cuốn sách ông viết cho trẻ em. Arthur Cozzens, giáo sư địa chất lại có chòm râu dê bạc và một phong cách kỳ quặc của các giáo sư. Tôi không khoái giờ học của ông lắm cho đến khi ông nói rằng về mặt địa chất học Arkansas là một trong những nơi thú vị nhất thế giới vì những mỏ kim cương, bô xít, các tinh thể thạch anh, và các mỏ và cấu trúc khoáng chất khác của nó.

Tôi học môn logic với thầy Otto Hentz, một giáo sĩ Dòng Tên nhưng chưa được phong linh mục. Thầy thông minh, năng nổ và rất quan tâm tới sinh viên. Một lần thầy hỏi tôi có muốn đi ăn tối hamburger với thầy không. Tôi thấy hãnh diện quá và đồng ý. Chúng tôi lái xe lên đại lộ Wisconsin tới một quán Howard Johnson. Sau khi nói phiếm một lúc thầy Otto trở nên nghiêm túc và hỏi tôi có muốn theo Dòng Tên không? Tôi cười và trả lời "Thế em không phải chuyển qua đạo Công giáo trước ạ?". Khi tôi bảo thầy tôi là tín đồ Tin Lành Baptist, tôi còn nửa đùa nửa thật bảo thầy rằng dù tôi có theo Công giáo đi nữa thì tôi không nghĩ mình có thể giữ được lời thề giữ mình thanh sạch. Thầy lắc đầu và nói: "Tôi không tin là thế. Tôi đã đọc các bài luận và kiểm tra của cậu. Cậu viết và nghĩ như một người Công giáo". Tôi vẫn thường dùng câu chuyện này để kể với những người Công giáo khi vận động tranh cử ở Arkansas để đảm bảo với họ rằng tôi là thống đốc bang gần gũi với Công giáo nhất mà họ có thể có.

Một giáo sư Dòng Tên khác, thầy Joseph Sebes là một trong những người đặc biệt nhất tôi từng gặp. Gầy và gù lưng, thầy là một nhà ngôn ngữ tài năng và đặc biệt quan tâm đến châu Á. Khi những người cộng sản lên nắm quyền ở Trung Quốc thì thầy đang làm việc ở đó, và bị giam giữ một thời gian, chủ yếu là bị nhốt dưới hâm đào dưới đất. Thời kỳ khắc nghiệt đó đã làm thầy hỏng dạ dày, mất một bên thận, và khiến thầy luôn đau yếu trong suôt phần đời còn lại. Thầy dạy một môn được gọi là "Văn hoá so sánh". Lẽ ra phải gọi môn này là "các tôn giáo trên thế giới" thì đúng hơn: chúng tôi học Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Thần đạo, đạo Khổng, đạo Lão, Ấn Độ giáo, Jainism, Bái hỏa giáo và nhiều tín ngưỡng khác. Tôi rất khoái thầy Sebes và học được rất nhiều từ thầy về cách các dân tộc trên thế giới định nghĩa về Thượng đế, về chân lý, và về hạnh phúc cuộc sống. Biết rõ sinh viên đến từ nhiều nước khác nhau nên thầy cho phép tất cả mọi người có cơ hội thi vấn đáp - bằng chín thứ tiếng. Trong học kỳ hai tôi được điểm A môn này, một trong bốn điểm A trong khóa và là thành tích học tập đáng tự hào nhất của tôi.

Hai giáo viên khác của tôi quả là những người rất cá tính. Thầy Robert Irving dạy tiếng Anh luôn có những lời nhận xét khắc nghiệt đối với các sinh viên có xu hướng dài dòng và thiếu chuẩn xác. Ông thường viết những nhận xét búa bổ bên lề các bài luận, từng gọi một sinh viên là "cái bơm nhỏ thất thường đồng bóng", hay với sinh viên khác là "Cậu thành đứa ngốc rồi phải không?". Bài viết của tôi thường có những nhận xét tẻ ngắt hơn như "vụng", "ối giời", "tẻ nhạt, sến". Tôi còn giữ được một bài luận ông nhận xét là "thông minh và chín chắn" nhưng ngay sau đó lại phê "lần sau thì hãy hào phóng hơn" và "kiếm loại giây nào khá khá một chút mà viết bài!". Có lần thầy Irving đọc trước lớp một bài luận của một cựu học sinh viết về Marvell để trình bày tầm quan trọng của việc nên cẩn trọng với sử dụng ngôn ngữ. Sinh viên này đã viết Marvell yêu vợ kể cả sau khi bà ta đã chết và chêm một câu vô duyên "Đương nhiên tình yêu xác thịt hầu hết là chấm dứt sau cái chết". Thầy Irving gầm lên "Hầu hết! Hầu hết! Vậy là vẫn còn một số ông thích yêu xác chết hả?". Như thế quả là hơi "phong phú" quá đối với đám sinh viên Công giáo và một anh chàng Tin Lành như tôi. Dù rằng thầy Irving hiện nay ở đâu, tôi cũng hãi lắm khi hình dung ra cảnh ông ấy đọc cuốn sách này và phê chi chít bên lề mỗi trang sách.

Lớp học huyền thoại nhất tại Georgetown luôn là của giáo sư Carroll Quigley với môn "Sự phát triển của các nền văn minh", môn bắt buộc của mọi sinh viên năm nhất nên thường có ít nhất 200 sinh viên trong mỗi giờ học. Dù khó nhưng giờ học khá nổi tiếng vì trí tuệ của thầy Quigley với những quan điểm và các trò quái của thầy. Mấy trò quái này có cả một bài giảng về những hiện tượng huyền bí, trong đó ông bảo chính mình đã từng thấy một chiếc bàn bay lên khỏi sàn và một phụ nữ bay lên khi gọi hồn. Bài giảng của ông cũng phê phán quan điểm của Platon lý tính tuyệt đối cao hơn các quan sát thực tế. Ông luôn kết thúc bài giảng bằng cách xé tan cuốn Republic - Nền cộng hòa của Platon, ném nó xuống cuối phòng và hét lên "Platon là tên phát xít".

Các bài kiểm tra luôn đầy rẫy những câu hỏi nát óc như "Viết ngắn gọn nhưng mạch lạc lược sử của bán đảo Balkan từ đầu kỷ băng hà Wurm đến thời kỳ Homer" hoặc "Đâu là mối quan hệ giữa quá trình tiến hóa của vũ trụ và khía cạnh trừu tượng hóa?".

Hai quan điểm của thầy Quigley cho đến giờ vẫn đặc biệt có ảnh hưởng. Thứ nhất, ông nói xã hội cần phát triển cách tạo ra các công cụ có tổ chức để đạt được các mục tiêu về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo và học thuật của mình. Theo thầy Quigley, vấn đề là tất cả các công cụ này về sau thường "bị thể chế hóa" - nghĩa là khi các quyền lợi nghiêng về bảo vệ đặc quyền của mình hơn là đáp ứng nhu cầu mà các công cụ ấy được lập ra để đáp ứng. Một khi điều này xảy ra, sự thay đổi chỉ có thể đến thông qua cải cách hoặc bỏ qua các thể chế đó. Nếu làm như vậy không được thì sẽ chỉ còn lại suy thoái và phản tiến bộ.

Quan điểm thứ hai của thầy liên quan đến điểm then chốt của sự vĩ đại của văn minh phương Tây và khả năng tiếp tục đổi mới và cải cách của nó. Ông cho rằng thành công của nền văn minh phương Tây có gốc rễ ở niềm tin vô song mang tính tôn giáo và triết lý rằng: con người về bản chất là tốt; rằng chân lý có tồn tại, nhưng không một người trần mắt thịt hữu hạn nào có sẵn chân lý; rằng chúng ta chỉ có thểtiến gần đến chân lý bằng cách hợp tác với nhau; rằng qua niềm tin và lao động tôt thì chúng ta có thể có cuộc sống tốt đẹp hơn ở trong cuộc đời này và phần thưởng trong kiêp sau. Theo Quigley, những ý tưởng đó đã giúp cho nền văn minh chúng ta mang tính chất lạc quan và thực tế, cùng niềm tin kiên định về khả năng thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Ông tổng kết hệ tư tưởng của chúng tồi là "hướng về tương lai", với niềm tin rằng "tương lai có thể tốt hơn quá khứ, và mỗi cá nhân có trách nhiệm mang tính cá nhân và đạo đức nhằm thực hiện điều đó". Kể từ cuộc tranh cử năm 1992 và trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống, tôi vẫn thường xuyên trích dẫn lời giáo sư Quigley với hi vọng rằng những đồng bào người Mỹ và cả chính tôi sẽ thực hiện những gì thầy từng dạy.

Đến cuối năm nhất tôi đã hẹn hò nghiêm túc lần đầu tiên với Denise Hyland, một cô gái Ireland. Denise cao, có khuôn mặt tàn nhang, đôi mắt đẹp, hiền hậu và nụ cười dễ làm người khác cười theo. Cô ấy quê ở vùng Thượng Montclair, New Jersey, là một trong sáu người con của một bác sĩ. Bố cô ấy từng học làm linh mục trước khi gặp mẹ cô. Denise và tôi chia tay vào cuối năm ba nhưng chúng tôi vẫn duy trì tình bạn.

Tôi rất vui vì được về nhà, nơi ít ra tôi cũng có được bạn bè cũ và mùa hè nóng nực yêu thích của mình. Tôi có một việc làm chờ sẵn ở trại vịnh Yorktown, một trại hè cho trẻ em nghèo chủ yếu đến từ Texas và Arkansas, ngay bên hồ Ouachita, hồ lớn nhất của Hot Springs và là một trong những hồ sạch nhất ở Mỹ. Ở độ sâu 10 mét, ta vẫn có thể nhìn rõ tận đáy. Cái hồ nhân tạo này nằm trong Rừng quốc gia Ouachita nên sự phát triển quanh hồ kèm với nạn ô nhiễm được giới hạn.

Trong nhiều tuần, sáng nào tôi cũng dậy sớm và lái xe tới trại, cách nhà tôi chừng 20 dặm, để theo dõi các hoạt động cắm trại của lũ trẻ: bơi, bóng rổ... Rất nhiều đứa trẻ ở đây cần một tuần được rời xa cuộc sống thực tại của chúng. Có một nhóc đến từ gia đình chỉ có một mẹ và sáu đứa con. Chú bé đến và không có một xu dính túi. Mẹ nó sắp chuyển nhà và nó cũng không biết là sau kì cắm trại nó sẽ về đâu. Tôi còn nói chuyện với một chú nhóc khác cố gắng nhưng không bơi được và trông tơi tả khi được kéo lên khỏi hồ. Nó bảo như thế này đã ăn nhằm gì; trong cuộc đời ngắn ngủi của nó, chú nhóc từng nuốt nhầm cây chốt khóa nịt, từng bị ngộ độc, thoát chết trong một vụ tai nạn xe hơi kinh hồn, và vừa mất cha mới ba tháng trước.

Mùa hè trôi qua nhanh với những khoảng thời gian tuyệt vời bên bạn bè, những lá thư thú vị từ Denise, lúc đó đang ở Pháp. Tuy vậy cũng có một sự cố kinh hoàng với bố. Lần ây bố đi làm về sớm trong tình trạng say xỉn và nổi nóng. Tôi lúc này đang ở chơi nhà gia đình Yeldell, nhưng thật may là nhóc Roger ở nhà. Bố cầm một cái kéo đuổi mẹ và đẩy bà vào phòng giặt đồ ngoài bếp. Roger chạy qua nhà Yeldell và la lên "Anh hai ơi, cứu! Bố đang giết mẹ kìa!". Tôi chạy về nhà, gạt bố ra và tước được chiếc kéo. Tôi đưa mẹ và Roger vào phòng khách, rồi quay lại và nói chuyện phải quấy với bố. Tôi nhìn thấy trong mắt ông sự sợ hãi nhiều hơn là tức giận. Không lâu trước đấy người ta đã chẩn đoán rằng ông bị ung thư miệng và họng. Các bác sĩ đề nghị biện pháp chữa trị nặng, phẫu thuật mà có thể gây biến dạng mặt nhưng bố không chịu, nên họ đành cố diều trị cho ông bằng hết khả năng. Sự cố này xảy ra trong khoảng thời gian hai năm trước khi ông mất. Tôi nghĩ chính vì sự xấu hổ với cách sống của mình và sợ chết nên ông mới có cơn bùng nổ cuối cùng đó. Sau đấy ông vẫn uống rượu nhưng trở nên khép kín và thụ động hơn.

Sự kiện này rõ ràng có ảnh hưởng rất xấu đối với em trai tôi. Gần 40 năm sau em tôi kể lại về sự nhục nhã khi phải chạy đi kêu cứu, nỗi tuyệt vọng khi cảm thấy không cản được bố, và về cảm giác hận thù không gì xóa được về sau. Tôi cũng thấy mình thật ngu ngốc khi sau sự kiện này lại tiếp tục duy trì chính sách giả vờ như không có chuyên gì xảy ra trong gia đình và trở lại bình thường. Đúng ra, tôi phải nói với em tôi rằng tôi rất tự hào về nó, rằng chính sự cẩn trọng, tình yêu thương và sự dũng cảm của em tôi đã giúp cứu sống mẹ và rằng thật ra em tôi đã vất vả hơn tôi trong vụ đó. Đúng ra tôi nên khuyên em bỏ sự thù hận với bố vì bố đang ốm và việc thù ghét chỉ càng làm em khổ lây. Thực ra tôi cũng thường viết thư và gọi điện cho em tôi khi tôi ở xa, khuyến khích em tôi học tập, hoạt động và nói rằng tôi rất yêu nó. Tuy vậy tôi vẫn thiếu sót khi quên mất nỗi sợ hãi, sự tổn thương mà sự việc gây ra. Phải rất lâu và trải qua nhiều dằn vặt, Roger mới tìm ra được nguồn cơn của nỗi đau trong lòng.

Dù vẫn còn lo lắng về sự an toàn của mẹ và Roger, tôi tin lời hứa của bố rằng ông sẽ không còn thô bạo nữa. Thực ra ông cũng không còn sức nên tôi thấy sẵn sàng cho năm học thứ hai của mình ở Georgetown. Vào tháng 6, tôi được một học bổng 500 đôla, và quy định mặc áo và đeo cà vạt đi học cũng được bỏ nên tôi thấy'thoải mái hơn với ngân sách 25 đô một tuần của mình. Tôi cũng tái đắc cử chức vụ lớp trưởng, lần này thì có một chương trình cụ thể tập trung vào các hoạt động tôn giáo phi hệ phái và các sáng kiến về dịch vụ cộng đồng - GUCAP, Chương trình hành động cộng đồng của Đại học Georgetown - mà chúng tôi tiếp nhận từ những sinh viên đi trước. Trong chương trình này, chúng tôi đưa sinh viên tình nguyên tới các khu dân cư nghèo quanh vùng để giúp trẻ em học tập. Chúng tôi cũng kèm người lớn học trung học theo chương trình mở rộng, và giúp các gia đình khó khăn phần nào trong cuộc sống. Tôi cũng đi tình nguyện được vài lần, dù không thường xuyên lắm. Những gì tôi học được khi lớn lên ở Arkansas và những gì chứng kiến ở nội đô Washington giúp tôi hiểu rằng các công việc tình nguyện từ thiện sẽ không bao giờ đủ để vượt qua sự khắc nghiệt của đói nghèo, phân biệt đối xử và thiếu cơ hội của rất nhiều đồng bào khốn khó của tôi. Điều đó càng khiến tôi ủng hộ các chương trình về dân quyền, quyền bầu cử và các sáng kiến chống đói nghèo của Tổng thống Johnson.

Cũng giống như năm đầu, năm học thứ hai của tôi chủ yếu tập trung vào việc học. Đó cũng là lần cuối cùng như vậy vì kể từ đó cho đến hai năm cuối ở Georgetown, thời gian ở Oxford, ở khoa Luật, việc học của tôi luôn phải vật lộn với các vấn đề chính trị, các kinh nghiệm của bản thân và tự nghiên cứu.

Lúc này, có quá nhiều thứ thu hút sự chú ý của tôi trong lớp học, bắt đầu từ môn tiếng Đức, những bài giảng dễ nhớ của cô Mary Bond về các văn sĩ lớn của Anh, rồi các bài giảng của thầy Ulrich Allers về Lịch sử tư tưởng chính trị. Thầy Allers là một người Đức khó tính và từng đánh giá bài viết của tôi về hệ thống luật pháp của thành Athen cổ là "hơi nhàm nhưng rất đàng hoàng". Lúc đó tôi thấy mình được khen chiếu lệ. Sau khi làm tổng thống vài năm, tôi thà giết người còn hơn bị khen như vậy.

Tôi bị một điểm C trong môn kinh tế vi mô của giáo sư Joe White trong học kỳ một. Bù lại tôi kiếm được một điểm A khi học kinh tê vĩ mô cũng do ông dạy trong học kỳ hai. Tôi thấy cả hai điểm đó đều mang tính báo hiệu vì khi là tổng thống tôi điều hành tốt nền kinh tế đất nước nhưng lại kém chu toàn tình hình tài chính của cá nhân mình ít nhất là cho đến khi rời Nhà Trắng.

Tôi học lịch sử châu Âu với thầy Luis Aguilar, một người gốc Cuba từng lãnh đạo phong trào dân chủ chống độc tài Batista trước khi nhà độc tài này bị Castro lật đổ. Một lần, thầy Aguilar hỏi tôi muốn làm gì trong đời. Tôi nói muốn được về nhà và làm chính trị nhưng tôi cũng thích rất nhiều thứ khác nữa. Ông trả lời tôi đầy nuối tiếc rằng "Chọn sự nghiệp của mình cũng giống như chọn vợ từ mười cô bạn gái. Dù cậu chọn cô đẹp nhất, thông minh nhất, tử tế nhất thì vẫn có nỗi đau vì mất chín cô còn lại". Dù ông thích dạy và dạy giỏi nhưng tôi có cảm giác rằng đối với thầy, Cuba chính là chín người phụ nữ còn lại gộp thành một.

Môn học tôi nhớ nhất trong năm thứ nhì của mình là môn Hiến pháp và chính quyền Mỹ của giáo sư Walter Giles - môn mà thầy dạy chủ yếu là thông qua các vụ kiện ở Tòa án tối cao. Thầy là một người đàn ông độc thân, tóc đỏ cắt húi cua, cuộc sống lúc nào cũng gắn liền với sinh viên, với tình yêu dành cho hiến pháp và công bằng xã hội, niềm đam mê với đội Washington Redskin, dù họ thắng hay thua. Thầy thường mời sinh viên tới nhà ăn tối, và một số ít còn may mắn được cùng thầy đi xem Redskin đấu. Thầy Giles là người đảng Dân chủ có xu hướng tự do ở Oklahoma, nơi mà loại người như vậy thời đó đã không nhiều và bây giờ lại càng hiếm đên mức có thể đưa thầy vào danh sách được Luật bảo vệ các chủng loài bị đe dọa tuyệt chủng.

Tôi nghĩ thầy quan tâm đến tôi vì tôi đến từ một bang giáp với Oklahoma, dù thầy cũng hay trêu tôi về vụ đó. Thường là đến giờ thầy thì tôi đã đạt đến ngưỡng thiếu ngủ trầm trọng nên tôi có thói quen đôi khi rất phiền hà là ngủ gật chừng năm mười phút rồi sau đó khỏe lại. Tôi ngồi ngay bàn đầu trong lớp, nên thầy rất dễ phát hiện ra. Một lần khi tôi đang gà gật, thầy liền nói to lên rằng một phán quyết nào đó của Tòa án tối cao là rất rõ ràng và ai cũng hiểu, "tất nhiên là trừ những ai đến từ một thị trấn xó xỉnh nào đấỵ ở Arkansas". Tôi bật dậy trong những tràng cười của lũ bạn trong lớp, và sau đó không bao giờ ngủ gật trong giờ của thầy nữa.

Chú thích:

1. The Yard: tên gọi ban đại diện sinh viên Đại học Georgetown