Chương 10
Sau năm thứ hai tôi về nhà, không có việc làm nhưng hiểu rõ mình muốn làm gì. Lúc ấy là kết thúc của một kỷ nguyên ở Arkansas - sau sáu nhiệm kỳ, Orval Faubus không ra tái tranh cử thông đốc nữa. Cuối cùng thì tiểu bang của chúng tôi cũng có cơ hội thoát khỏi những vết sẹo của sự kiện Little Rock và tì vết của thói thiên vị thân quen tràn lan trong những năm cầm quyền về sau này của ông ta. Tôi muốn tham gia làm việc trong cuộc chạy đua vào chức thống đốc, vừa để hiểu biết chính trị, vừa để góp phần nhỏ bé của mình vào việc đưa Arkansas đi theo một con đường tiến bộ hơn.
Những tham vọng bị dồn nén trong thời Faubus đẩy nhiều ứng viên vào cuộc đua, bảy người phe Dân chủ và một ứng viên Cộng hòa lớn, Winthrop Rockefeller, con thứ năm trong gia đình sáu anh em của John D. Rockefeller Jr., người đã rời bỏ đế chế của cha mình để trông coi công việc từ thiện của Quỹ Rockefeller; và do ảnh hưởng của người vợ Abby có đầu óc thông thoáng hơn và chính khách tự do người Canada Mckenzie King nên ông ta cũng đã rời bỏ luôn thái độ chính trị bảo thủ, chống người lao động của cha mình; và cuối cùng là rời bỏ quan điểm tôn giáo bảo thủ của cha mình để thành lập ra Nhà thờ liên hệ phái Riverside ở thành phố New York cùng với Harry Emerson Fosdick.
Winthrop hình như có số làm đứa con "hư" của gia đình. Ông ấy bị đuổi khỏi trường Yale và bỏ đi làm cho các giếng dầu ở Texas. Sau khi phục vụ xuất sắc trong Thế chiến hai, ông ấy cưới một nhân vật nổi tiếng ở New York và lấy lại danh tiếng ăn chơi tài tử của mình. Năm 1953, ông ấy chuyển đến Arkansas, một phần vì một người bạn thời quân ngũ ờ đây rủ ông mở một trang trại chăn nuôi, một phần vì luật ly hôn của tiểu bang này chỉ đòi hỏi có 30 ngày mà ông thì đang muốn chấm dứt cuộc hôn nhân đầu tiên ngắn ngủi của mình. Rockefeller là một người to khổng lồ, cao gần mét chín, nặng khoảng 120 ký. Ông ấy thực sự hạp với Arkansas, nơi mà ai cũng gọi ông là Win, một cái tên không đến nỗi tồi với một chính khách (Win, tiếng Anh nghĩa là chiến thắng - ND). Ông luôn đi giày cao bồi và đội nón nỉ Stetson, sau này trở thành dấu ấn riêng của ông. Ông mua một khoảnh lớn của núi Petit Jean, cách Little Rock khoảng 50 dặm, thành công trong việc nuôi bò giống Santa Gertrudis, và cưới vợ lần nữa, bà Jeannette.
Chuyển đến bang mới, ông cố gắng rũ bỏ hình ảnh tay chơi từng tàn hại đời ông ở New York. Ông gầy dựng lại tổ chức đảng Cộng hòa còn yếu ở Arkansas và nỗ lực đem các ngành công nghiệp đến tiểu bang nghèo nàn của chúng tôi. Thống đốc Faubus bổ nhiệm ông làm Chủ tịch ủy ban phát triển công nghiệp Arkansas, và ông đã tạo thêm được nhiều công ăn việc làm. Năm 1964, nóng lòng vì hình ảnh lạc hậu của Arkansas, ông ra tranh chức thống đốc với Faubus. Mọi người đều đánh giá cao những gì ông đã làm, nhưng Faubus có cơ sở ở từng hạt một; phần lớn dân chúng, đặc biệt là ở miền quê Arkansas, vẫn ủng hộ quan điểm phân cách chủng tộc của ông ta hơn là quan điểm vì dân quyền của Rockefeller; và Arkansas vẫn còn là một tiểu bang theo đảng Dân chủ.
Ngoài ra, ông Rockefeller nhút nhát kinh khủng này lại không có tài ăn nói, một nhược điểm càng tồi tệ hơn do thói nhậu nhẹt của ông, và khiến ông hay trễ hẹn nhiều đến mức so ra thì tôi là người cực kỳ đúng hẹn. Một lần ông vừa chuếnh choáng vừa đến trê hơn cả tiếng tại một bữa tiệc của phòng thương mại ở Wynne, thủ phủ hạt Cross, đông Arkansas, nơi ông phải phát biểu. Khi ông đứng lên mở lời, ông nói "Hôm nay tôi rất vui được đến • Khi ông nhận ra là không biết mình đang ở đâu, ông hỏi nhỏ người dân chương trình, "Đây là đâu?". Người dẫn chương trình thì thào trả lời: "Wynne". Ông lại hỏi lại, người kia lại trả lời như vậy. Thế là ông chịu hết nổi, "Bô khỉ, tôi biết tên tôi rồi! Tôi hỏi đây là chỗ nào mà?" (Wynne trong tiếng Anh phát âm giống như biệt danh Win của ông - ND). Chuyện này lập tức lan truyền nhanh như chớp ra khắp tiểu bang, nhưng thường là để cười không ác ý, vì ai cũng biết Rockefeller tự chọn làm người Arkansas và thực sự mong muốn lợi ích cho tiểu bang. Năm 1966, Rockefeller lại ra tranh cử nữa, nhưng ngay cả khi không còn Faubus nữa, tôi cũng không nghĩ là ông ấy có thể thắng cuộc.
Ngoài ra, tôi còn muốn ủng hộ một ứng viên tiến bộ của đảng Dân chủ. Người tôi có thiện cảm nhất là Brooks Hays, người mất ghế ở quốc hội năm 1958 vì ủng hộ việc trường Trung học Little Rock mở cửa cho học sinh da màu. Ông bị đối thủ Dale Alford, một bác sĩ nhãn khoa theo chủ nghĩa kỳ thị, trong một chiến dịch bỏ phiếu viết thành công, một phần nhờ vào các mảnh giấy dính có viết tên ông ta và có thể dùng dán vào phiếu bầu dành cho những cử tri không biết chữ nhưng lại đủ "khôn ngoan" để biết rằng người da đen và người da trắng không nên học cùng một trường. Hays là một tín hữu ngoan đạo, từng làm chủ tịch Liên hữu Baptist Phương Nam trước khi đa số các túi hữu Baptist của tôi quyết định chỉ có những người bảo thủ mới được lãnh đạo họ, hoặc lãnh đạo đất nước. Ông ấy là một người tuyệt vời, thông minh, khiêm tốn, có óc hài hước, và cực kỳ tử tế, ngay cả với những nhân viên làm việc tranh cử cho ứng viên đối thủ.
Thật trớ trêu, bác sĩ Alford cũng tham gia cuộc đua giành chức thống đốc, và ông ta cũng không thắng nổi, vì những kẻ phân biệt chủng tộc còn có một ứng viên khác trong cuộc đua đến chức thống đốc: Thẩm phán Jim Johnson, người từ giới nghèo khổ ở Crossett, đông nam Arkansas, leo lên đến tận tòa tối cao tiểu bang nhờ vào tài hùng biện mà ngay cả phong trào Ku Klux Klan (KKK - phong trào theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc - ND) cũng ủng hộ ông tranh cử thống đốc. Ông này thậm chí cho rằng Faubus vẫn còn nương tay về dân quyền; dù gì đi nữa thì Faubus cũng có bổ nhiệm vài người da đen vào các ủy ban của tiểu bang. Với Faubus, một người theo chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một con bài chính trị. Để thắng cử, ông ta thích làm những việc như cải thiện trường học và các nhà dưỡng lão, xây đường sá và cải tạo bênh viện tâm thần hơn là công kích chủng tộc. Đó là cái giá để có thể tại vị. Nhưng với Johnson thì phân biệt chủng tộc là một thứ thần học. Ông ta ngoi lên được nhờ vào hận thù. Mặt mũi ông ta sắc nét cặp mắt thì sáng nhưng hơi dại, làm ông ta có cái vẻ "gầy và khát khao" mà so ra thì Cassius của Shakespeare cũng phải ghen tị. Và ông ta là một chính khách tinh quái, biết rất rõ khối cử tri của mình nằm ở đâu. Thay vì tổ chức diễn thuyết liên miên như những ứng viên khác làm, ông ta tự mình đi khắp nơi trong tiểu bang cùng với ban nhạc chuyên chơi nhạc đồng quê và viễn tây mà ông ta dùng để thu hút đám đông. Sau đó ông ta sẽ khích mọi người nổi điên lên với những lời gào thét thoá mạ người da đen và những người da trắng tráo trở có thiện cảm với họ.
Lúc ấy tôi chưa nhận ra, nhưng ông ta lôi kéo được sự ủng hộ ở những người mà các ứng viên khác không chạm tới được: những người khó chịu vì các chính sách liên bang về dân quyền, khiếp sợ trước vụ bạo loạn ở Watts và những xung đột chủng tộc khác, những người tin rằng Cuộc chiến chống nghèo đói đồng nghĩa với việc đem lại phúc lợi kiểu xã hội chủ nghĩa cho người da đen, và uất ức vì những khó khăn kinh tế của chính họ. về mặt tâm lý, tất cả chúng ta đều là một hỗn hợp những hy vọng và sợ hãi. Mỗi ngày chúng ta thức dậy, cán cân giữa hai thứ đó khi thì nghiêng bên này, lúc thì nghiêng bên kia. Nếu nó nghiêng quá về bên hy vọng, chúng ta có thể trở nên ngây thơ và phi thực tế. Nếu nó nghiêng về bên ngược lại, chúng ta có thể bị tràn ngập bởi lòng hận thù và sợ hãi hoang tưởng. Ở miền Nam, chiều tiêu cực của cán cân này đã luôn là một vấn đề lớn. Vào năm 1966, Jim Johnson chính là người đã đẩy cán cân nghiêng hẳn về phía đó.
Ứng viên khả dĩ nhất có cơ may thắng cử cũng là một thẩm phán Tòa án tối cao và là cựu Bộ trưởng tư pháp, Frank Holt. Ông ta được các nhóm tòa án và các nhóm lợi ích doanh nghiệp lớn ủng hộ, nhưng ông ta tiến bộ hơn Faubus về các vấn đề chủng tộc, và tuyệt đối chân thành và tử tế. Hầu như tất cả ai từng biết Frank Holt đều ngưỡng mộ ông (ngoại trừ những người cho rằng ông quá dễ dãi nên không thể tạo nên sự thay đổi thực sự nào). Frank Holt cả đời mong làm thống đốc, và cũng muốn tiếp nối di sản của gia đình mình; anh trai Jack của ông - người theo chủ nghĩa dân túy miền nam kiểu cũ - trước đó vài năm đã thua trong một cuộc đua nóng bỏng vào thượng viện với thượng nghị sĩ bảo thủ của bang chúng tôi, John McClellan.
Bác Raymond Clinton của tôi là một ủng hộ viên tích cực của Frank Holt và bảo tôi rằng bác có thể đưa tôi vào làm việc cho chiến dịch tranh cử. Ông Holt đã có được sự ủng hộ của một số lãnh đạo sinh viên trong các trường đại học ở Arkansas, những thủ lĩnh này tự gọi mình là "Thế hệ Holt". Chẳng bao lâu tôi được nhận vào làm với lương 50 đôla một tuần. Tôi đoán bác Raymond dùng tiền lo lót cho tôi được như vậy. Vì tôi trước đó chỉ có 25 đôla một tuần ở Georgetown, nên tôi cảm thấy mình giàu có hẳn lên.
Mấy sinh viên kia lớn hơn tôi và cũng có thế hơn tôi. Mac Glover là chủ tịch hội sinh viên Đại học Arkansas; Dick King là chủ tịch hội sinh viên Đại học sư phạm Arkansas, Paul Fray là chủ tịch tổ chức Những người Dân chủ trẻ ở trường Ouachita Baptist; Bill Allen là cựu thống đốc Boys State của Arkansas và là thủ lĩnh sinh viên ở Đại học Memphis, chỉ cách bang Arkansas con sông Mississippi; Leslie Smith là một cô gái đẹp và thông minh, dòng dõi một gia đình chính trị có thế lực, và cũng từng đoạt giải Hoa khôi thiếu nữ Arkansas.
Từ đầu chiến dịch vận động, tôi rõ ràng chỉ là nhân viên loại hai trong Thế hệ Holt. Công việc của tôi bao gồm đóng các bảng ghi "Hãy bầu Holt làm Thống đốc" lên cây cối, thuyết phục dân chúng dán khẩu hiệu tranh cử cho ông Holt lên thanh cản xe, và phát tờ rơi tại các cuộc tập hợp trong tiểu bang. Một trong những cuộc tập hợp quan trọng nhất, lúc đó cũng như sau này khi tôi là ứng viên, là ở núi Nebo Chicken Fry. Núi Nebo là một nơi đẹp nhìn xuống sông Arkansas ở hạt Yell, tây Arkansas, nơi dòng họ Clinton định cư hồi xưa. Dân chúng sẽ đến dự vì có thức ăn, có nhạc, và để nghe hàng loạt các bài diễn thuyết của các ứng viên, từ tranh cử vào các chức vụ địa phương cho đến chức thống đốc tiểu bang.
Không lâu sau khi tôi tới đấy và bắt đầu hoạt động trong đám đông, các đối thủ của chúng tôi cũng đến. Thẩm phán Holt đến trễ. Khi đối thủ của ông đã bắt đầu nói, ông vẫn chưa có mặt. Tôi bắt đầu lo lắng. Sự kiện này đâu thể vắng mặt được. Tôi ra điện thoại công cộng và gọi tìm ông, lúc bấy giờ rất khó vì chưa có điện thoại di động- Ông nói ông không thể đến kịp trước khi các bài diễn văn kết thúc, và bảo tôi nên nói thay giùm ông. Tôi ngạc nhiên và hỏi có chắc là ông muốn như vậy không. Ông bảo tôi biết rõ lập trường của ông và tôi nên nói cho người dân nghe lập trường đó. Khi tôi bảo ban tổ chức là thẩm phán Holt không đến kịp và hỏi xem tôi nói thay có được không, tôi sợ chết khiếp; nói thế này còn khó hơn là tự nói cho mình. Khi tôi nói xong, dân chúng cũng lịch sự đón nhận. Tôi không nhớ mình nói gì, nhưng chắc là cũng tạm được, vì sau đấy ngoài nhiệm vụ treo bảng và phát khẩu hiệu dán cản xe, tôi được yêu cầu nói giùm thẩm phán Holt trong một số cuộc tập hợp nhỏ mà ông không đích thân dự được. Có quá nhiều cuộc tập hợp như vậy, không ứng viên nào có thể dự hết được. Arkansas có đến 75 hạt, và ở nhiều hạt lại có đến mấy cuộc tập hợp như vậy.
Sau vài tuần, ban vận động tranh cử quyết định vợ của thẩm phán, bà Mary, cùng các con gái Lyda và Melissa, phải lên đường để đến những nơi ông ấy không đến được. Mary Holt là một phụ nữ cao, thông minh và độc lập, chủ một cửa hàng quần áo thời trang ở Little Rock; Lyda là sinh viên Đại học Mary Baldwin ở Staunton, Virginia, nơi Woodrow Wilson ra đời; Melissa còn học trung học. Họ đều hấp dẫn và có tài ăn nói, và họ đều ngưỡng mộ thẩm phán Holt và nhiệt tình với chiến dịch vận động. Họ chỉ cần thêm người lái xe mà thôi, và không biết vì sao tôi lại được chọn.
Chúng tôi đi lòng vòng khắp tiểu bang. Chúng tôi đi mỗi chuyến kéo dài cả tuần, chỉ quay về Little Rock để giặt quần áo và nghỉ lấy sức cho chuyến kế tiếp. Hoạt động này rất vui. Tôi thực sự hiểu thêm về tiểu bang và học hỏi được nhiều sau hàng giờ trò chuyện với bà Mary và các cô con gái. Một đêm chúng tôi đến Hope để dự một cuộc tập hợp trên bậc thềm của tòa án. Vì bà tôi có mặt trong đám đông nên bà Mary đã khéo léo mời tôi lên nói chuyện với người dân quê mình, dù lẽ ra Lyda mới là người diễn thuyết hôm đó. Tôi đoán cả hai người đều biết rằng tôi muốn có được một cơ hội chứng tỏ rằng tôi đã trưởng thành. Đám đông lắng nghe tôi đàng hoàng, thậm chí tôi còn được tờ báo địa phương Hope Star nhắc đến. Việc này làm bố tôi buồn cười vì hồi ông còn làm đại lý xe Buick ở Hope, người chủ bút tờ báo này không ưa ông đến độ ông ta nuôi một con chó xấu xí, đặt tên nó là Roger rồi thường xuyên thả nó ra gần chỗ buôn bán xe của bố để ông ta có thể ra đấy và hét lên, "Roger, lại đây mau, Roger! Đây nè, Roger!".
Tối hôm đó tôi dắt Lyda đi xem căn nhà tôi từng ở trong bốn năm đầu đời và chỗ cái cầu vượt bằng gỗ cho xe lửa mà tôi hay ra chơi. Hôm sau chúng tôi ra nghĩa trang thăm mộ của gia đình bà Mary Holt, và tôi chỉ cho họ chỗ mộ cha và ông tôi.
Tôi nâng niu những kỷ niệm trong các chuyến đi này. Tôi đã quen bị phụ nữ sai bảo rồi nên cũng dễ hòa đồng, và chắc là tôi cũng hữu ích cho họ. Tôi thay vỏ xe, giúp một gia đình chạy khỏi nhà đang cháy, và bị đám muỗi làm thịt - mấy con muỗi to đến mức ta có thể cảm thấy nó chọc thủng da mình. Trong lúc lái xe trên đường suốt nhiều giờ liền, chúng tôi hay nói chuyện về chính trị, con người và sách vở. Và tôi nghĩ chúng tôi cũng kiếm được một số phiếu.
Không lâu trước cuộc tập hợp ở Hope, ban tranh cử quyết định đưa ra một đoạn phim 15 phút trên truyền hình chiếu cảnh các sinh viên làm việc cho thẩm phán Holt; họ nghĩ làm như vậy sẽ vẽ ra hình ảnh ông Holt như ứng viên của tương lai Arkansas. Nhiều người trong chúng tôi nói vài phút về lý do chúng tôi ủng hộ ông. Tôi không rõ đoạn phim ấy có giúp gì được không, nhưng tôi thích thú với lần đầu xuất hiện trên tivi, dù tôi cũng chẳng được xem. Tôi còn phải đi nói ở một cuộc tập hợp khác nữa ở Alread, một nơi xa xôi trong hạt Van Buren trong vùng núi trung-bắc Arkansas, ứng viên nào chịu khó lên tận đây thường là chiếm được phiếu, và tôi cũng bắt đầu nhận ra rằng chúng tôi cần càng nhiều phiếu càng tốt.
Trong những tuần lễ hè oi ả đó, tôi càng thấy nhiều bằng chứng rằng miền Nam cổ Hủ vẫn chưa mất hẳn, còn miền Nam Mới lại chưa đủ mạnh để thế chỗ. Phần lớn các trường học vẫn còn đơn chủng, và sự chống đối màu da vẫn còn mạnh. Một tòa án hạt ở đồng bằng Mississippi vẫn còn có bảng ghi "da trắng" và "da màu" trên cửa phòng vệ sinh công cộng. Khi tôi đề nghị một phụ nữ da đen lớn tuổi ở một thị trấn khác bỏ phiếu cho Thẩm phán Holt, bà bảo bà không thể vì bà chưa đóng thuế bầu cử. Tôi bảo quốc hội đã bãi bỏ thuế bầu cử hai năm trước rồi và bà chỉ cần đăng ký là được. Tôi không biết bà ấy có đăng ký sau đó hay không.
Tuy nhiên, đã có những tín hiệu của một ngày mới. Khi vận động ở Arkadelphia, cách Hot Springs 35 dặm về phía nam, tôi gặp ứng viên dẫn đầu cuộc tranh cử chiếc ghế quốc hội nam Arkansas một thanh niên tên David Pryor. Anh ấy rõ ràng là một người tiến bộ và nghĩ rằng nếu anh gặp được đủ số người thì anh có thể thuyết phục phần lớn họ bỏ phiếu cho anh. Anh làm được điều này vào năm 1966, một lần nữa vào năm 1974 khi ra tranh cử thống đốc, và thêm một lần nữa khi tranh cử vào thượng viện năm 1978. Khi anh về hưu, tôi rất buồn vì điều đó, và rút khỏi thượng viện năm 1996, David Pryor vẫn là chính khách được ưa chuộng nhất ở Arkansas, với một di sản tiến bộ đáng kể. Ai cũng coi anh ấy như một người bạn, và tôi cũng nằm trong số đấy.
Kiểu vận động chính trị với từng cử tri mà Pryor rất giỏi là quan trọng đối với các bang miền quê như Arkansas, nơi hơn một nửa dân chúng sống trong các thị trấn không quá năm ngàn dân, và hàng chục ngàn người khác sông ở "nơi thôn dã". Lúc ấy vẫn chưa đến thời kỳ của quảng cáo trên truyền hình, đặc biệt là những kiểu quảng cáo tiêu cực, nếu xét đến vai trò to lớn của nó trong tranh cử thời nay. Các ứng viên chủ yếu là mua thời lượng phát sóng trên truyền hình và nhìn vào ống kính thu hình mà nói chuyện với cử tri. Hồi đó các ứng viên thường phải đến các tòa án và doanh nghiệp chính ở từng thủ phủ hạt một, sục vào bếp của từng quán ăn một, vận động ở những hội chợ bán đấu giá gia súc. Các hội chợ hạt và những bữa tiệc bánh ngọt là những mảnh đất màu mỡ cho việc vận động tranh cử. Và tất nhiên, các tuần báo và đài phát thanh địa phương cũng trông đợi một chuyến viếng thăm hoặc sẽ có một vài quảng cáo tranh cử. Đó là cách tôi học làm chính trị. Tôi cho rằng như thế tốt hơn là tranh giành thời lượng phát sóng truyền hình. Bạn có thể nói, nhưng bạn cũng phải lắng nghe nữa. Bạn phải trả lơi những câu hỏi hóc búa của cử tri một cách trực tiếp. Tất nhiên, bạn vẫn có thể bị bôi nhọ, nhưng ít ra thì các đối thủ của bạn phải lam việc cực nhọc hơn bạn để có thể làm được như vậy. Và khi bạn thách thức đối thủ, bạn phải chấp nhận như vậy chứ không thể trốn đằng sau một cái ủy ban giả tạo nào đó vốn chỉ mong kiếm được tiền khi bạn tại chức nếu như những công kích của ủy ban đó có thể tiêu diệt ứng viên kia.
Dù tranh cử kiểu vậy mang tính cá nhân nhiều hơn, nhưng không chỉ đơn gỉản là những cuộc cạnh tranh về tính cách. Các vấn đề lớn cũng cần phải được xem xét. Nếu dư luận công chúng đang ở vào một trào lưu nào đấy mà bạn không thể hòa nhập vào cơn thủy triều ấy một cách có lương tâm thì bạn phải cứng rắn, có kỷ luật và phản ứng nhanh để không bị nó cuốn trôi.
Năm 1966, Jim Johnson - hoặc "Ông tòa Jim" như ông ta thích được gọi - đã cưỡi lên cơn thủy triều đó và tạo ra những đợt sóng xấu xa nhưng rộng lớn. Ông ta tấn công Frank Holt và gọi Holt là "một loại thực vật hiền hòa", và ngụ ý rằng Rockefeller quan hệ đồng tính luyến ái với đàn ông da đen - một điều thật nực cười nếu xét đến danh tiếng hảo ngọt trước đây của ông này. Thông điệp của Ông tòa Jim chỉ là phiên bản mới nhất cho một giai điệu cũ thường được rót vào tai cử tri miền Nam da trắng trong những thời điểm bấp bênh về kinh tế và xã hội: các bạn là những người tử tế, tốt bụng và kính Chúa; "bọn nó" đang đe dọa lối sống của các bạn; các bạn không cần phải thay đổi gì cả; mọi tội lỗi là do bọn nó; hãy bầu tôi lên và tôi sẽ đấu tranh cho các bạn và cho chúng nó một trận. Sự chia cắt chính trị muôn thuở, Chúng ta chống lại Chúng nó. Thật bần tiện, xấu xa và cuối cùng thì tự hoại đối với những ai tin tưởng vào những điều đó, nhưng như chúng ta ngày nay vẫn còn thấy, khi người ta cảm thấy bất mãn và bất ổn thì kiểu nói vậy vẫn thường có tác dụng. Vì Johnson cực đoan đến thế trong lời ăn tiếng nói, và hầu như chẳng thấy xuất hiện ở các nẻo đường tranh cử thông thường nên phần lớn các quan sát viên chính trị tưởng rằng lần này kiểu vận động ấy sẽ chẳng được gì. Ngày bầu cử tới gần, Frank Holt từ chối đáp trả những đòn đánh của Johnson cũng như của các ứng viên khác, lúc đó cũng cho rằng ông Holt đang vượt xa và bắt đầu tấn công ông vì ông là ứng viên "cho guồng máy cận vệ già". Thời bấy giờ không có nhiều các cuộc thăm dò và phần lớn người ta cũng không hưởng ứng gì lắm với những cuộc thăm dò ít ỏi.
Chiến lược của Holt nghe thì hay đôi với những người trẻ tuổi tốt bụng chung quanh ông, như tôi chẳng hạn. Ông ấy chỉ đáp trả moi lời buộc tội bằng một tuyên bố rằng ông hoàn toàn độc lập rằng ông sẽ không đáp trả những cáo buộc vớ vẩn hoặc những đòn tấn công từ các ứng viên khác, và rằng ông muốn thắng cử bằng giá trị của chính mình "hoặc không thắng gì cả". Cuối cùng tôi cũng hiểu ra những câu nói kiểu như vậy thường được dùng bởi những ứng viên quên rằng chính trị là một môn thể thao đối kháng. Chiến lược đó có thể có tác dụng nếu tâm trạng dân chúng còn bình ổn và đầy hy vọng và khi ứng viên ấy có một cương lĩnh với những đề xuất về chính sách nghiêm túc, cụ thể, nhưng vào mùa hè năm 1966, tâm trạng dân chúng may ra thì được coi là lẫn lộn, và cương lĩnh của ông Holt thì quá chung chung nên không thể tạo ra một xáo động lớn nào. Ngoài ra, những người chỉ muốn có một ứng viên chống lại nạn phân cách còn có thể bỏ phiếu cho Brooks Hays.
Bất chấp những cú tấn công nhắm vào ông, phần lớn dân chúng vẫn cho rằng Frank Holt sẽ vẫn dẫn đầu nhưng sẽ không đủ đa số phiếu, và vào vòng đấu kế tiếp hai tuần sau đó ông cũng sẽ thắng. Ngày 26 tháng 7, dân chúng - khoảng 42 ngàn người - nói lên tiếng nói của mình. Kết quả làm các chuyên gia ngạc nhiên. Johnson dẫn đầu với 25% số phiếu, Holt thứ nhì với 23%, Hays về ba với 15%, Alford được 13%, và ba ứng viên khác chia nhau phần còn lại.
Chúng tôi bị sốc nhưng chưa mất hết hy vọng. Thẩm phán Holt và Brooks Hays gom nhiều phiếu hơn hai người theo phái phân cách kia là Johnson và Alford chút ít. Bên cạnh đó, tại một trong những cuộc tranh cử lập pháp khá thú vị, một dân biểu hạ viện kỳ cựu lâu năm, Paul Van Dalsem, đã thất bại dưới tay một luật sư trường Yale trẻ tuổi và tiến bộ, Herb Rule. Vài năm trước Van Dalsem từng chọc giận những ủng hộ viên của phong trào nữ quyền bằng lời tuyên bố rằng phụ nữ cần phải bị giữ ở nhà "đi chân đất và có bầu". Chuyện này giúp Herb, người sau này chung phần với Hillary ở Công ty luật Rose, có được một đạo quân tình nguyện viên nữ giới, những người tự gọi mình là "Phụ nữ chân đất ủng hộ Rule".
Kết quả của bầu cử vòng hai thật khó đoán, vì những vòng đấu trực tiếp kiểu này chủ yếu phụ thuộc vào tỷ lệ cử tri đi bầu, và ứng viên sẽ phải làm tốt hơn việc kêu gọi các cử tri ủng hộ mình quay trở lại phòng phiếu cũng như thuyết phục những ai từng bỏ phiếu cho các ứng viên bị loại ở vòng đầu hoặc chưa bỏ phiếu chuyển sang ủng hộ mình. Thẩm phán Holt đã rất cố gắng để biến cuộc bỏ phiếu lần hai này trở thành một sự lựa chọn giữa miền Nam cũ và miền Nam mới. Johnson thực ra không làm gì được để phá nổi cách sắp đặt đó khi ông ta lên tivi để nói với cử tri rằng ông ta đứng chung "với Daniel trong ổ sư tử" và "với thánh Gioan Tiền hô trong triều đình của vua Herod" để chống lại sự hòa nhập chủng tộc vô thần. Tôi nhớ trong buổi nói chuyện đó hình như Ông tòa Jim thậm chí còn leo lên cả con ngựa của Paul Revere.
Dù chiến lược của Holt là khôn khéo và Johnson thì sẵn sàng chấp nhận trận đấu theo kiểu chọn giữa miền Nam mới và cũ, cách tiếp cận của Holt có hai rắc rối. Thứ nhất, cử tri phe miền Nam cũ là nhóm có động cơ đi bầu và tin chắc rằng Johnson chính là người đại diện cho họ, trong khi nhóm cử tri phe miền Nam mới lại không chắc chắn được như vậy với Holt. Việc ông không chịu chống trả mãi cho đến sau này đã càng làm họ nghi ngờ và giảm ý muốn bầu cho ông. Thêm nữa là có một số ủng hộ viên của Rockefeller muốn bỏ phiếu cho Johnson vì họ nghĩ người của họ sẽ dễ dàng đánh bại ông ta hơn là phải chống với Holt, và bất kỳ ai, dù Dân chủ hay Cộng hòa, cũng có thể bỏ phiếu trong vòng đấu trực tiếp của đảng Dân chủ nếu như họ chưa bầu trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Cộng hòa. Chỉ có 19.646 người làm như vậy, vì Rockefeller không có đối thủ. Vào ngày bầu cử vòng đấu trực tiếp, số người đi bầu chỉ kém có năm ngàn người so với cuộc bầu cử sơ bộ. Mỗi ứng viên đều được gấp đôi số phiếu so với lần đầu, và Johnson thắng với chênh lệch 15 ngàn phiếu, đạt 52% so với 48% của đối thủ.
Tôi không thể chịu nổi kết quả như vậy. Tôi rất thương mến thẩm phán Holt và gia đình ông, và đã tin ông ấy còn có thể làm một thống đốc tốt hơn là một ứng viên. Tôi lại càng không ưa những giá trị mà Ông tòa Jim là đại diện. Điểm sáng duy nhất là Rockefeller, người thực sự có cơ hội chiến thắng. Đến vòng thứ hai thì ông cũng có tổ chức tốt hơn. Ông chi tiền như thể tiền không còn giá trị gì nữa, thậm chí còn mua hàng trăm xe đạp cho trẻ em da đen nghèo. Vào mùa thu ông chiếm được 54,5% phiếu. Tôi rất tự hào về tiểu bang của mình. Lúc ấy tôi đã quay lại Georgetown và không trực tiếp chứng kiến diễn biến của chiến dịch vận động, nhưng nhiều ngừời bình phẩm rằng Johnson có vẻ như không đặc sắc lắm trong cuôc tổng tuyển cử. Có lẽ vì nguồn tài chính có hạn, nhưng còn có tin đồn ông ta có thể đã được Rockefeller "khuyến khích" rằng phải tam thời nằm yên. Tôi không biết có chuyện đó hay không.
Ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn ngưng đọng trong những năm Carter cầm quyền, khi tôi là ủng hộ viên của Tổng thống Carter ở Arkansas, và khoảng thời gian ông ta muốn con trai mình được bổ nhiệm vào một chức vụ liên bang, Jim Johnson lúc nào cũng thiên về cánh hữu và ngày càng thù hằn đối với tôi. Vào thập niên 80, cũng giống như bao nhiêu người phe bảo thủ ở miền Nam, ông ta theo đảng Cộng hòa. Ông ta tranh cử một lần nữa vào Tòa án tối cao và thất bại. Sau đó, ông ta thường giở trò khuấy động từ hậu trường. Khi tôi tranh cử tổng thống, ông ta trực tiếp và gián tiếp thêu dệt những chuyên rất khéo với tất cả những ai cả tin đến mức có thể tin ông ta, và có một số đáng kinh ngạc những nhân vật trong cái gọi là giới truyền thông tự do ở miền đông mà ông ta ưa sỉ vả cũng tin vào mấy chuyện này, đặc biệt là những thêu dệt về vụ Whitewater. Ông ta là một con chó rừng già khôn ngoan. Chắc hẳn ông ta rất vui khi lừa phỉnh họ, và nếu như những người thuộc đảng Cộng hòa ở Washington mà thành công trong việc tống cổ tôi khỏi đó, ông ta chắc cũng có thể cười vui với chiến thắng bất ngờ ấy.
Sau chiến dịch vận động tôi được dịp xả hơi bằng chuyến đi đầu tiên của mình tới bờ Tây nước Mỹ. Một khách hàng quen thuộc của bác Raymond muôn có một chiếc Buick mới mà ông ta còn thiếu. Bác Raymond tìm thấy một chiếc như vậy tại một cơ sở bán xe hơi ở Los Angeles (LA) và được dùng làm "xe mẫu" - chiếc xe dành cho khách lái thử xem có thích-không. Dân buôn bán xe thường trao đổi hoặc bán mấy chiếc này cho nhau với giá giảm. Bác tôi bảo tôi bay qua LA và lái xe về, chở theo Pat Brady - là con của bà thư ký của bác và cũng từng học cùng lớp và chơi cùng ban nhạc với tôi ở trung học. Nếu đi hai người thì chúng tôi có thể lái xe một mạch về. Chúng tôi háo hức đi, và hồi đấỵ vé máy bay cho sinh viên rẻ đến mức bác Raymond hầu như không phải tốn gì để chúng tôi bay sang đó mà vẫn có lãi trong vụ bán xe này.
Chúng tôi bay đến LA, lấy xe và lái về, nhưng không đi theo đường thẳng. Thay vào đó chúng tôi quẹo sang Las Vegas, nơi mà chúng tôi cứ nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ có cơ hội để thấy. Tôi vẫn còn nhớ chạy xe xuyên qua sa mạc bằng phẳng vào ban đêm với các cửa sổ xe mở hết, cảm thấy không khí nóng, khô và nhìn ngắm ánh sáng đô hội Las Vegas từ xa.
Hồi đó Las Vegas khác bây giờ. Chưa có các khách sạn lớn được thiết kế theo chủ đề như khách sạn Paris hay Venetian, mà chỉ có mỗi khách sạn Strip nơi có đánh bạc và các trò tiêu khiển. Pat và tôi không có nhiều tiền, nhưng lại muốn chơi máy đánh bạc tự động nên chúng tôi chọn một nơi, mỗi đứa đổi một cọc tiền 5 xu và bắt đầu chơi. Trong vòng 15 phút tôi thắng được một lần và Pat được hai lần. Chuyện này không lọt được qua mắt những con tin của bọn kẻ cướp một tay này. (Máy đánh bạc tự động có một cái cần giật ở bên hông tương tự như tay - ND). Họ tin rằng bọn tôi gặp vận may nên mỗi khi chúng tôi bỏ không đánh thì họ đổ xô đến tranh nhau giật cần để lấy được vận may mà bọn tôi bỏ lại. Bọn tôi không thể hiểu nổi. Trong 15 phút đó có lẽ bọn tôi đã xài hết vận may cho hàng năm trời, nên bọn tôi không muốn phung phí nữa. Bọn tôi tiếp tục lên đường với phần lớn tiền thắng bạc còn nguyên trong túi. Tôi nghĩ thời nay chắc chẳng ai đem theo nhiều tiền 5 xu đến thế nữa.
Sau khi trả xe cho bác Raymond, người chẳng phiền hà gì về chuyện chạy lòng vòng của chúng tôi, tôi phải chuẩn bị để quay về Georgetown. Vào cuối chiến dịch tranh cử, tôi nói chuyện với Jack Holt về việc mình thích đi làm cho Thượng nghị sĩ Fulbright, rằng tôi cũng không rõ liệu có được hay không. Mùa xuân năm trước tôi đã viết thư cho ông Fulbright để xin việc và nhận thư trả lời rằng lúc ấy chưa có chỗ trống nhưng họ sẽ lưu hồ sơ tôi lại. Tôi ngờ rằng tình hình chưa có gì biến chuyển, nhưng vài ngày sau khi quay về Hot Springs, tôi nhận được một cú điện thoại vào sáng sớm của ông Lee Williams, trợ lý hành chính của ông Fulbright. Lee nói là Jack Holt đã giới thiệu tôi, và hiện ủy ban Đối ngoại đang còn khuyết một chân trợ lý văn phòng. Ông ấy nói "Cậu có thể đi làm bán thời gian lương ba ngàn rưởi đôla, còn làm toàn thời gian thì năm ngàn đô". Dù còn ngái ngủ nhưng tôi không thể để vụ này tuột khỏi tay được. Tôi bảo: "Thế làm hai việc bán thời gian có được không?". Ông ấy cười và bảo tôi chính là loại người ông đang tìm và tôi nên trình diện vào sáng thứ hai để đi làm. Tôi phấn khích đến mức có thể nổ tung lên được, ủy ban Đối ngoại thời kỳ Fulbright là trung tâm của những tranh cãi cấp quốc gia về chính sách đối ngoại, đặc biệt là về cuộc chiến ngày càng leo thang ở Việt Nam. Vậy là tôi sẽ có dịp chứng kiến tấn kịch này diễn ra một cách trực tiếp, dù chỉ với vai trò người chạy việc vặt. Và tôi có thể kiếm tiền trang trải cho đại học mà không cần bố mẹ giúp, đỡ cho họ gánh nặng tài chính và đỡ cho tôi cảm giác tội lỗi. Trước đó tôi cứ lo mãi chuyện không biết bố mẹ lấy tiền đâu ra để vừa trả tiền chữa bệnh cho bố vừa trả tiền học cho tôi. Dù hồi ấy tôi không kể cho ai, nhưng tôi sợ tôi phải bỏ trường Georgetown và về quê, nơi chi phí đại học không đắt bằng. Còn bây giờ bỗng dưng tôi có được cơ hội tiếp tục ở lại Georgetown và làm việc cho ủy ban Đối ngoại. Tôi mang nợ Jack Holt về cả quãng đời sau này vì ông ông đã giới thiệu tôi đi làm ở đây, và biết ơn Lee Williams vì đã chấp thuận tôi.