← Quay lại trang sách

Chương 13 (tt)

Vào mùa hè năm 1968, vấn đề của Fulbright không phải là bị kiệt sức, dù ông rất mệt mỏi vì tranh cãi về chuyện Việt Nam. Điều ông cần không phải là nghỉ ngơi, mà là làm sao để giữ liên lạc với những cử tri nào cảm thấy bị mất liên lạc với ông. May thay là ông chỉ gặp phải các đối thủ yếu. Đối thủ chính của ông trong cuộc bầu cử sơ bộ không phải ai khác chính là Jim Johnson, người giở mánh cũ bằng cách lập ban nhạc đồng quê và đi khắp các thủ phủ của các hạt, thóa mạ Fulbright là "mềm yếu" trước cộng sản. Bà vợ Virginia của Johnson cố noi gương vợ của George Wallace, bà Lurleen trước đây từng kế nhiệm chồng mình làm thống đốc. Ứng viên vào thượng viện của đảng Cộng hòa là Charles Bernard, một doanh nhân ít ai biết đến quê ở đông Arkansas, nói rằng tư tưởng của Fulbright quá tự do đối với tiểu bang của chúng tôi.

Lee Williams cũng xuống để điều hành chiến dịch, với sự trợ giúp đắc lực của chính trị gia trẻ tuổi nhưng từng trải Jim McDougạl, người điều hành văn phòng của Thượng nghị sĩ Fulbright ở Little Rock. Jim McDougal (người dính líu trong vụ Whitewater) là một người theo chủ nghĩa dân túy kiểu cổ, biết kể chuyên hay bằng ngôn ngữ đầy màu sắc và làm việc tận tụy cho Fulbright, người mà anh rất tôn kính.

Jim và Lee giới thiệu Thượng nghị sĩ cho bang Arkansas với cái tên "chỉ thuần túy là Bill", tạo ra hình ảnh một người Arkansas dân dã mặc áo thể thao sọc đỏ. Tất cả những giấy tờ in ấn của chiến dịch vận động và phần lớn quảng cáo trên tivi đều đưa ra hình ảnh ông như vậy, dù tôi không nghĩ là ông thây thích thế, và hầu hết trong thời gian tranh cử ông vẫn mặc vest. Để củng cố hình ảnh thân thiện dân dã, ông thượng nghị sĩ quyết định đi một chuyến vận động ở cơ sở đến các thị trấn nhỏ trong bang, chỉ đem theo một tài xế đi cùng và một cuốn sổ màu đen ghi tên những người trước đây ủng hộ mình. Cuốn sổ này do Parker Westbrook soạn ra, anh hình như biết tâ't cả những ai ở Arkansas quan tâm dù chỉ chút ít đến chính trị. Vì Thượng nghị sĩ Fulbright chỉ vận động sáu năm một lần nên chúng tôi chỉ còn biết hy vọng là mấy người có tên trong sổ đen của Parker vẫn còn sống và hoạt động.

Lee Williams cho tôi cơ hội lái xe chở ông thượng nghị sĩ trong vài ngày trong chuyến đi về tây nam Arkansas, và tôi lập tức túm lấy cơ hội ấy. Tôi lúc nào cũng thích Fulbright, biết ơn vì lá thư mà ông viết giới thiệu cho tôi thi học bổng Rhodes, và hăm hở muốn biết xem dân chúng ở các thị trấn nhỏ Arkansas suy nghĩ gì. Họ ở quá xa những vụ bạo lực đô thị và những cuộc tuần hành phản chiến, nhưng nhiều người trong số họ có con cái đang ở Việt Nam.

Có lần Fulbright bị một nhóm phóng viên truyền hình quốc gia bám đuôi trong lúc chúng tôi đi vào một thị trấn nhỏ, đỗ xe và vào một cửa hàng thức ăn gia súc nơi nông dân thường tới mua ngũ cốc cho súc vật của họ. Trước ống kính camera, Fulbright bắt tay với một người có tuổi và đề nghị ông này bầu cho mình. Ông ta nói không thể được vì Fulbright không chịu đối đầu với "bọn Cộng" và để mặc cho chúng "chiếm nước ta". Fulbright ngồi xuống bao thức ăn gia súc chất đống trên sàn và bắt đầu trò chuyên. Fulbright nói ông sẽ đối đầu với những người cộng sản tại quê nhà nếu ông tìm thấy họ ở đây. "À, chúng đầy ra đấy", người kia đáp. Fulbright nói, "Thật sao? Thế ông có thấy người nào quanh đấy không? Tôi tìm khắp nơi mà chả thấy người cộng sản nào cả". Xem ông phô diễn phong cách của mình thật là vui. Người kia cứ tưởng họ đang nói chuyên một cách nghiêm túc. Tôi chắc khán giẫ truyền hình cũng thấy hài hước, nhưng những gì được chứng kiến làm tôi khó chịu. Tầm nhìn của người đàn ông kia rõ ràng đã bị chặn lại. Dù ông ta không tìm ra được "tên Cộng" nào thì cũng chẳng có gì khác biệt nữa. Ông ta đã từ chốì Fulbright thẳng cánh, và dù có nói nhiều đến đâu đi nữa thì cũng không thể phá bỏ bức tường đang che kín tầm nhìn của ông ta được. Tôi chỉ còn biết hy vọng rằng có đủ cử tri không suy nghĩ như vậy trong thị trấn đó và hàng trăm thị trấn khác - những người dù sao vẫn còn có thể nói chuyện phải trái được.

Bất chấp sự kiện ở cửa hàng thức ăn gia súc, Fulbright vẫn tin rằng cử tri ở thị trấn đó phần đông vẫn khôn ngoan, thực tế và công bằng. Ông nghĩ họ có nhiều thời gian hơn để suy xét mọi việc và không dễ bị những nhà phê bình cánh hữu dồn ép. Sau vài ngày đi thăm những nơi mà tất cả cử tri da trắng đều có vẻ như ủng hộ George Wallace, tôi bắt đầu lung lay. Thế rồi chúng tôi đến Center Point và một trong những cuộc gặp đáng nhớ trong cuộc đời chính trị của tôi xảy ra tại đó. Cuốn sổ màu đen ghi người cần gặp là Bo Reece, một ủng hộ viên lâu năm sống trong ngôi nhà đẹp nhất thị trấn. Vào thời trước khi có những quảng cáo tranh cử trên truyền hình, thị trân nhỏ nào ở Arkansas cũng có một ông Bo Reece như vậy. Vài tuần trước cuộc bầu cử, dân chúng sẽ hỏi: "Bo bầu cho ai vậy?". Sự lựa chọn của ông ấy sẽ được loan báo và kéo theo 2/3 số phiếu, đôi khi còn hơn nữa.

Khi chúng tôi dừng xe trước nhà, Bo đang ngồi trên thềm. Ông bắt tay Fulbright và tôi, nói rằng ông đang chờ chúng tôi và mời chúng tôi vào thăm. Đó là một căn nhà kiểu cổ có lò sưởi và mấy chiếc ghế êm ái. Khi chúng tôi yên vị xong xuôi, Reece nói: "Thưa thượng nghị sĩ, đất nước này còn nhiều chuyện lắm. Nhiều thứ không theo lẽ phải gì cả". Fulbright đồng ý, nhưng không biết Reece định dẫn dắt đến đâu, tôi cũng không biết - có khi lại dẫn ngay về việc ủng hộ Wallace không chừng. Sau đó Bo kể một câu chuyện mà tôi sẽ còn nhớ mãi chừng nào tôi còn sống: "Hôm nọ tôi nói chuyện với một ông bạn trồng bông ở phía đông Arkansas. Ông ta có mấy người tá điền. (Mấy người tá điền này là người phụ việc, thường là da đen, được trả công bằng một phần nhỏ mùa màng thu hoạch được. Họ sống trong các túp lều tồi tàn trong nông trại và cuộc sống rất nghèo khổ). Có lần tôi hỏi ông ta: "Mấy người tá điền của bạn sao rồi?". Ông ta nói, "À, nếu năm nào mất mùa họ coi như huề vốn" rồi ông ta phá lên cười và nói tiếp, "năm nào được mùa họ cũng huề vốn". Rồi ông Bo nói: "Thượng nghị sĩ ơi, như thế là không đúng và ông cũng biết thế. Vì vậy nên đất nước này còn nghèo khổ và lắm rắc rối khác nữa, và nếu ông trúng thêm một nhiệm kỳ nửa ông phải làm gì đó về chuyện ấy đi. Người da đen đáng được hưởng tốt hơn". Dù đã nghe đủ thứ tranh cãi về chủng tộc, Fulbright vẫn gần như ngã khỏi ghế. Ông trấn an Bo rằng ông sẽ cố làm một cái gì đó nếu ông tái cử, và Bo hứa sẽ tiếp tục ủng hộ ông.

Khi chúng tôi quay ra xe, Fulbright bảo: "Thây chưa, tôi nói cậu rồi mà, ở những thị trân nhỏ này có nhiều sự khôn ngoan lắm. Bo chỉ ngồi ở bậc thềm đó và suy ngẫm mọi điều". Bo Reece có tác động lớn đến Fulbright. Vài tuần sau, tại một cuộc tập hợp vận động ở F1 Dorado, một thị trấn dầu mỏ miền nam Arkansas và là nơi nan phân biệt chủng tộc nóng bỏng và có cảm tình với Wallace, người ta hỏi Fulbright rằng cái gì là vấn đề lớn nhất mà nước Mỹ đang đối mặt. Không chần chừ, ông trả lời: "Nghèo đói". Tôi tự hào về ông và biết ơn Bo Reece.

Khi chúng tôi lái xe từ thị trấn này sang thị trấn khác trên những con đường quê nóng nực, tôi thường cố bắt chuyện với Fulbright. Những cuộc trò chuyện ấy để lại trong tôi nhiều kỷ niệm tươi đẹp nhưng lại nhanh chóng chấm dứt sự nghiệp làm tài xế của tôi cho ông. Một hôm chúng tôi bàn chuyện về Tòa án Warren. Tôi ủng hộ mạnh mẽ phần lớn các phán quyết của tòa, đặc biệt là về dân quyền. Fulbright không đồng tình. Ông nói, "Thế nào rồi cũng có những phản ứng ngược cực kỳ tồi tệ đối với Tòa án tối cao này. Không thể thay đổi xã hội quá nhiều bằng hệ thống tòa án được. Phần lớn thay đổi phải thông qua hệ thống chính trị. Dù như thế sẽ mất thời gian hơn, nhưng những gì đạt được sẽ vững chắc hơn". Tôi vẫn cho rằng nước Mỹ tiến lên nhiều nhờ Tòa án Warren, nhưng chắc chắn chúng ta cũng đã phản ứng lại nó mạnh mẽ trong suốt hơn 30 năm nay.

Vào ngày thứ tư hay thứ năm của chuyến đi, tôi lại khai mào bàn chuyện chính trị với Fulbright khi đang rời một thị trấn nhỏ để đến thị trấn tiếp theo. Khoảng năm phút sau, Fulbright hỏi tôi đang lái xe đi đâu. Tôi trả lời ông, và ông nói "Thế thì tốt nhất là cậu vòng ngược lại đi. Cậu đi ngược hướng rồi đó". Khi tôi ngoan ngoãn quay đầu xe lại, ông nói: "Kiểu này rồi cậu dám bôi bẩn thanh danh của học bổng Rhodes mất thôi. Cậu hành xử y như một ông trí thức lơ đãng, đi mà không biết mình đi đâu".

Tất nhiên là tôi rất bối rối, quay xe lại và chở ông thượng nghị sĩ đi đúng lộ trình. Và tôi biết những ngày làm lái xe của mình đã chấm dứt. Nhưng đâu có sao chứ, tôi còn chưa đầy 22 tuổi, mới có vài ngày kinh nghiệm và vài cuộc nói chuyện đủ để suy ngẫm cả đời. Fulbright cần một người lái xe biết đưa ông đến nơi đúng giờ, và tôi vui vẻ quay về làm việc tại tổng hành dinh, những cuộc tập hợp và những bữa tối ngồi nghe Lee Williams, Jim McDougal và những tay kỳ cựu khác kể chuyện chính trị ở Arkansas.

Không lâu trước kỳ bầu cử sơ bộ, Tom Campbell trên đường xuống Texas để huấn luyện trong binh chủng thủy quân lục chiến đã ghé thăm. Tối hôm đó Jim Johnson cố tổ chức một cuộc tập hợp ở bậc thềm tòa án cùng với ban nhạc của ông ta tại Batesville, cách Little Rock một giờ rưỡi xe chạy về phía bắc, nên tôi quyết định cho Tom chứng kiến một khuôn mặt của Arkansas mà trước đây anh ta mới chỉ nghe nói đến. Johnson đang có phong độ. Sau khi "làm nóng" đám đông, ông ta cầm một chiếc giày lên và hét, "Các bạn có thấy chiếc giày này không? Nó được sản xuất ở nước Rumani cộng sản (ông ta phát âm từ này thành Ru mai nơ!). Bill Fulbright bỏ phiếu để cho mấy cái giày cộng sản này đến Mỹ và tước công ăn việc làm khỏi tay những người Arkansas tốt đang làm việc trong nhà máy giày". Hồi đó đúng là có nhiều người bị như vậy và Johnson hứa rằng nếu ông ta mà vào được thượng viện thì sẽ không còn giày dép cộng sản xâm lăng nước Mỹ nữa. Tôi cũng chẳng biết chúng ta có thực sự nhập khẩu giày từ Rumani hay không, hoặc có đúng là Fulbright đã bỏ phiếu nhưng không thành công nhằm mở cửa biên giới của chúng ta đối với giày Rumani hay không, haỵ Johnson dựng đứng chuyện ấy lên, nhưng rõ ràng đấy là một câu chuyện nghe cũng ra dáng lắm. Sau khi diễn thuyết, Johnson đứng trên bậc thềm và bắt tay với đám đông. Tôi kiên nhẫn chờ đến lượt mình. Khi ông ta bắt tay tôi, tôi bảo rằng ông ta làm tôi cảm thấy xấu hổ vì là một người Arkansas. Tôi nghĩ sự thẳng thắn của tôi làm ông ta ngạc nhiên và có vẻ khoái. Ông ta chỉ mỉm cười, mời tôi viết kể cho ông ta cảm xúc của mình, và tiếp tục bắt tay người khác.

Ngày 30 tháng 7, Fulbright đánh bại Jim Johnson và hai ứng viên ít được biết đến hơn. Vợ của ông tòa Jim, bà Virginia, cũng lọt được vào vòng trong sau khi đánh bại nhà cải cách trẻ Ted Boswell với chênh lệch 409 phiếu trên tổng số hơn 400 ngàn phiếu được bỏ, dù người của Fulbright đã cố hết sức giúp Ted trong những ngày cuối của chiến dịch và trong sáu ngày sau đó, khi mọi người đổ xô đến các khu vực chưa kiểm phiếu xong để tìm thêm phiếu hoặc để tránh bị đếm thiếu phiếu. Bà Johnson thua trong vòng hai với chỉ 63% số phiếu so với 67% của Marion Crank, một thành viên quốc hội tiểu bang quê ở Foreman, tây nam Arkansas, người đươc hậu thuẫn bởi giới tòa án và cả một bộ máy tranh cử của Faubus. Arkansas cuối cùng cũng hết chịu nổi gia đình nhà Johnson. Chúng tôi vẫn chưa đến được mức như miền Nam mới hồi thập niên 70 nhưng chúng tôi cũng đủ nhận biết để tiến lên phía trước.

Vào tháng 8, khi tôi bắt đầu giảm bớt tham gia vào chiến dịch của Fulbright để chuẩn bị đi Oxford, tôi đến ngủ đêm nhiều ngày ở nhà bạn của mẹ là Bill và Marge Mitchell, những người lúc nào cũng chào đón tôi, ở hồ Hamilton. Mùa hè năm đó tôi gặp vài người lý thú ở nhà hai bác Bill và Marge. Giống như mẹ, họ thích mấy cuộc đua ngựa và sau nhiều năm đã quen thuộc giới đua ngựa, trong đó có hai anh em chủ và huấn luyện ngựa quê ở Illinois là W. Hal và Donkey Bishop, W. Hal Bishop thành công hơn, nhưng Chú Donkey mới là một trong những nhân vật đáng nhớ nhất tôi từng gặp. Ông ấy hay đến thặm nhà hai bác Bill và Marge. Một tối chúng tôi ra hồ nói chuyện về thói tật ma túy và trai gái của thế hệ tôi, và Donkey kể rằng ông từng nhậu rất dữ và cưới vợ đến 10 lần. Tôi thật kinh ngạc. "Đừng nhìn chú như vậy", ông ấy nói. "Hồi chú bằng tuổi cháu, mọi việc không giống như bây giờ. Nếu muốn ngủ với nhau, nói yêu nhau là không đủ đâu. Phải cưới mới được!". Tôi phá lên cười và hỏi ông có nhớ hết tên mây bà vợ không. "Nhớ hết, chỉ trừ hai bà". Ông ấy trả lời. Cuộc hôn nhân ngắn nhất? "Có một đêm thôi. Chú tỉnh dậy trong một lữ quán, đầu nhức như búa bổ vì hôm trước uống nhiều quá, bên cạnh có một người phụ nữ lạ. Chú bảo, này cô là ai thế? Cô ta bảo, tôi là vợ ông đây, thằng chó chết! Thế là chú dậy, mặc quần vào và chuồn". Hồi những năm 50, Donkey gặp một phụ nữ khác hẳn những người kia. Ông kể cho cô ây toàn bộ sự thật đời mình và bảo nếu cô ấy cưới ông thì ông sẽ bỏ hẳn rượu. Cô ấy đã đón lấy cơ hội có một không hai ấy, và ông cũng giữ lời hứa trong 25 năm cho đến khi ông mất.

Marge Mitchell còn giới thiệu tôi với hai thanh niên vừa mới băt đầu giảng dạy ở Hot Springs: Danny Thomason và Jan Biggers. Danny quê ở Hampton, thủ phủ của hạt nhỏ nhất ở Arkansas, và cậu ấy có đủ thứ chuyện về miền quê để chứng tỏ điều này. Khi tôi làm thống đốc, chủ nhật nào chúng tôi cũng cùng hát với nhau trong dàn đồng ca nhà thờ Baptist Immanuel. Em trai và em dâu của cậu ấy, Harry và Linda, trở thành hai trong số những người bạn thân thiết nhất của tôi và Hillary, và đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1992 và trong những năm tôi ở Nhà Trắng.

Jan Biggers là một cô gái cao, xinh đẹp và nói nhiều, quê ở Tuckerman, đông bắc Arkansas. Tôi thích cô ấy, nhưng cô ấy cũng có nhiều quan điểm kỳ thị bị ảnh hưởng từ nhỏ, mà tôi lại không ưa gì mấy quan điểm đó. Khi tôi rời Oxford, tôi để lại cho cô ấy một thùng đầy những sách về dân quyền và khuyên cô nên đọc hết. Vài tháng sau, cô ấy trốn đi cùng với một giáo viên khác tên John Paschal, chủ tịch của hội NAACP địa phương. Họ đến New Hampshire lập nghiệp, anh chồng làm thầu xây dựng, cô ấy tiếp tục dạy học và có ba con. Khi tôi tranh cử tổng thống, tôi thật vui và ngạc nhiên khi biết Jan là chủ tịch của đảng Dân chủ ở một trong 10 hạt của New Hampshire.

Dù tôi chuẩn bị đi Oxford, tháng 8 vẫn là một trong những tháng điên cuồng nhất của năm 1968, và thật khó mà nhìn được tương lai. Tháng 8 bắt đầu bằng đại hội đảng Cộng hòa ở Miami Beach, nỗ lực nhằm đánh bại Richard Nixon đang nổi lên của thống đốc bang New York Nelson Rockefeller cho thấy cánh ôn hòa trong đảng Cộng hòa đã yếu đi đến nhường nào. Đại hội này cũng là nơi Thống đốc Ronald Reagan bang California lần đầu tiên nổi lên với khả năng trúng cử tổng thống với việc ông ấy quay sang tìm sự ủng hộ của những người bảo thủ đúng nghĩa. Nixon thắng trong lần bỏ phiếu đầu, với 692 phiếu so với 277 của Rockefeller và 182 của Reagan. Thông điệp của Nixon rất đơn giản: ông ta ủng hộ luật pháp và trật tự nội địa Mỹ, ủng hộ hòa bình trong danh dự ở Việt Nam. Dù bão tố chính trị thực sự vẫn còn ở phía trước khi đảng Dân chủ họp ở Chicago, đảng Cộng hòa cũng chịu phần hỗn loạn của mình gây ra bởi lựa chọn phó tổng thống trong liên danh mình là Thống đốc Spiro Agnew bang Maryland, khét tiếng vì quan điểm cứng rắn trước những sự hỗn loạn dân sự. Hảo thủ bóng chày có tên trong nhà huyền thoại Jackie Robinson, người da đen đầu tiên chơi trong các giải lớn, từ chức phụ tá cho Rockefeller vì ông không thể tiếp tục ủng hộ ứng viên Cộng hòa mà theo ông là một "tên phân biệt chủng tộc". Người kế tục Martin Luther King Jr. mục sư Ralph Abernathy, chuyển Chiến dịch của Người nghèo từ Washington xuống Miami Beach với hy vọng gây ảnh hưởng tiến bộ đến đại hội đảng Cộng hòa. Nghị trình làm việc, các bài diễn văn và việc Nixon cầu viện nhóm người cực kỳ bảo thủ làm họ thất vọng. Sau khi Agnew được đề cử tranh chức phó tổng thống, cuộc tụ họp ban đầu là trong hòa bình nhằm đấu tranh xóa nghèo biến thành một cuộc bạo động. Vệ binh quốc gia được gọi đến, và kịch bản chúng ta có thể đoán trước được đã diễn ra: hơi cay, đánh đập, cướp phá, hỏa hoạn. Khi mọi việc chấm dứt, ba người da đen thiệt mạng, và người ta ra lệnh giới nghiêm ba ngày, 250 người khác bị bắt giữ và sau đó được thả ra nhằm bưng bít thói bạo hành của cảnh sát. Nhưng tất cả những rắc rối ấy chỉ làm mạnh thêm con bài luật pháp - trật tự mà Nixon đưa ra trước cái gọi là đa số thầm lặng dân chúng Mỹ - những người kinh hoàng trước những điều họ cho là sự đổ vỡ của đời sống Mỹ.

Vụ lộn xộn ở Miami chỉ là màn khởi động cho những gì đảng Dân chủ phải đối mặt ở Chicago vào cuối tháng đó. Ngay từ đầu tháng, AI Lowenstein và những người khác đã tìm kiếm một người thay thế cho Humphrey. McCarthy vẫn còn đấy nhưng không có cơ hội thực sự để chiến thắng. Ngày 10 tháng 8, Thượng nghị sĩ George McGovern tuyên bố ra tranh cử, rõ ràng là hy vọng được sự ủng hộ của những người từng ủng hộ Robert Kennedy. Trong khi đó, những người trẻ tuổi chống đối chiến tranh bắt đầu đổ về Chicago. Một số nhỏ dự định gây chuyện thực sự; số còn lại đến để tổ chức nhiều hình thức phản đối ôn hòa khác. Trong số này có cả nhóm Yippies có kế hoạch chuẩn bị một "Ngày hội Cuộc sống" theo phong cách "phản văn hóa", với những người tham gia lúc nào cũng lử khử cần sa; và cả ủy ban Huy động Quốc gia dự định tiến hành một cuộc phản đối bình thường hơn. Nhưng Thị trưởng Richard Daley không mạo hiểm: ông báo động toàn bộ lực lượng cảnh sát, đề nghị thống đốc huy động Vệ binh quốc gia, và chuẩn bị cho cả tình huống xấu nhất.

Ngày 22 tháng 8, nạn nhân đầu tiên ở kỳ đại hội này, một thanh niên da đỏ 17 tuổi bị cảnh sát bắn vì cho rằng anh ta bắn họ trước, gần công viên Lincoln nơi có đông người tụ họp hàng ngày. Hai ngày sau, một ngàn người biểu tình chống lệnh phải giải tán khỏi công viên vào ban đêm. Hàng trăm cảnh sát xông vào và dùng dùi cui dẹp đám đông và đám đông lúc này cũng lấy đá ném lại, chửi rủa hoặc chạy trốn. Tất cả diễn biến đều được truyền hình ghi lại.

Tôi chứng kiến Chicago như vậy đây. Thật kỳ lạ. Tôi đã đi Shreveport, Louisiana với Jeff Dwire, người mà mẹ tôi bắt đầu thân thiết và sau đó cưới. Ông ây là một người kỳ lạ: một cựu chiến binh Thế chiến hai ở chiến trường Thái Bình Dương, bị hỏng cơ bụng vì nhảy dù ra khỏi máy bay và đáp xuống một rặng san hô; một thợ mộc giỏi; một người Louisiana có óc hài hước tinh quái; và là chủ một cơ sở chăm sóc sắc đẹp nơi mẹ hay đi làm tóc (trong suốt thời đại học ông ấy từng kiếm sống bằng nghề làm tóc). Ông từng là cầu thủ bóng bầu dục, huấn luyện viên judo, thợ xây nhà, nhân viên bán thiết bị giếng dầu và từng bán cổ phiếu. Ông có gia đình nhưng ly thân với vợ và có ba con gái. Ông cũng từng ngồi tù chín tháng vì lừa đảo chứng khoán. Năm 1956, ông quyên góp 24 ngàn đôla cho một công ty sắp làm phim về các nhân vật thú vị của Oklahoma, trong đó có cả tên gangster Floyd điển trai. Sở Tư pháp Mỹ kết luận công ty này nhận được đồng nào là xài hết đồng ấy, không hề có ý định làm phim gì hết. Jeff nói ông đã rút ra khỏi hoạt động này ngay khi phát hiện đây là trò lừa đảo nhưng không kịp. Tôi tôn trọng ông vì chỉ sau một thời gian ngắn quen nhau, ông đã kể hết những chuyện ấy cho tôi. Dù sự thực có thế nào thì mẹ cũng nghiêm túc với ông và muốn chúng tôi dành thời gian chơi với ông, nên tôi đồng ý đi Louisiana cùng với ông để ông lo công việc trong một công ty bán nhà có đồ đạc sẵn. Shreveport là một thành phố bảo thủ ở tây bắc Louisiana, không xa ranh giới Arkansas, có một tờ báo cực hữu lúc nào cũng đưa tin chấn động về những chuyện tôi đã xem qua truyền hình tối hôm trước. Tình cảnh thật quá kỳ quái, nhưng tôi ngồi dán mắt vào màn hình tivi hàng giờ liền, chỉ ra ngoài vài nơi và đi ăn với Jeff. Tôi cảm thây bị cô lập. Tôi không hòa mình với đám thanh niên đang quậy ầm ĩ và củng không theo phe ông thị trưởng Chicago cùng các chiến thuật cứng rắn của ông ấy cũng như những người ủng hộ ông, trong đó có cả những người tôi cùng lớn lên. Và tôi cũng đau buồn vì đảng của tôi và chính nghĩa tiến bộ của đảng tan vỡ ngay trước mắt mình.

Bất kỳ hy vọng nào rằng đại hội có thể đoàn kết lại đảng đã bị Tổng thống Johnson làm tiêu tan. Trong tuyên bố đầu tiên từ sau đám tang anh mình, Thượng nghị sĩ Edward Kennedy kêu gọi đơn phương chấm dứt ném bom và đồng loạt rút quân Mỹ và Bắc Việt Nam ra khỏi Nam Việt Nam. Đề nghị của ông dựa trên một nghị trình thỏa hiệp có sự đồng thuận của những người lãnh đạo chiến dịch tranh cử của Humphrey, Kennedy và McCarthy. Khi tướng Creighton Abrams, Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Việt Nam, nói với Johnson rằng ngưng ném bom sẽ gây nguy hiểm cho binh sĩ Mỹ, tổng thống yêu cầu Humphrey phải rút lui khỏi thỏa hiệp và Humphrey phải chiều theo. Sau này trong tự truyện của mình, Humphrey viết "Lẽ ra tôi phải giữ vững lập trường... Lẽ ra tôi không nên nhượng bộ". Nhưng ông ấy đã nhượng bộ, và mọi việc vỡ lở.

Đại hội khai mạc ngày 26 tháng 8. Diễn giả chính là Thượng nghị sĩ Dan Inouye bang Hawaii, một cựu binh Thế chiến hai người Mỹ gốc Nhật. Năm 2000 tôi trao tặng ông Huân chương danh dự quốc hội, một phần thưởng muộn màng để công nhận sự anh hùng mà ông phải trả giá bằng một cánh tay và suýt mất mạng, trong khi những người Mỹ gốc Nhật như ông đang bị dồn vào các trại giam giữ ở nội địa Mỹ. Inouye tuyên bố thông cảm với những người biểu tình và mục tiêu của họ, nhưng kêu gọi họ không nên từ bỏ phương thức đấu tranh ôn hòa. Ông phát biểu chống lại "bạo lực và thói vô chính phủ", nhưng cũng phê phán thói thờ ơ và thành kiến "ẩn đằng sau cái vỏ luật pháp và trật tự", rõ ràng là một cái tát đối với Nixon và có lẽ là cả các chiến thuật của cảnh sát Chicago. Inouye cũng tạo được một sự cân bằng nào đó, nhưng mọi việc đã đổ bể đến mức lời nói của ông không có thể cứu vãn được nữa.

Đại hội còn bị chia rẽ bởi nhiều thứ khác ngoài chuyện Việt Nam. Một số đoàn đại biểu miền Nam vẫn chống đốì điều lệ đảng cho phép người da đen tham gia quá trình lựa chọn đại biểu, ủy ban lễ tân, trong đó có dân biểu David Pryor của Arkansas, bỏ phiếu chấp nhận đoàn đại biểu tranh chấp của bang Mississippi do nhà hoạt động dân quyền Aaron Henry dẫn đầu. Các đoàn đại biểu miền Nam khác thì ổn định, ngoại trừ đoàn Georgia bị chia đôi, một nửa số ghế dành cho các đại biểu tranh chấp do hạ nghị sĩ tiểu bang trẻ và cũng là chủ tịch NAACP Julian Bond dẫn đầu; và đoàn bang Alabama có 16 đại biểu bị loại ra vì không tuyên bố ủng hộ ứng viên được đề cử của đảng, có lẽ vì Thống đốc bang Alabama George Wallace cũng ra tranh cử với tư cách ứng viên độc lập.

Dù có những bất đồng như vậy nhưng tiêu điểm của đại hội vẫn là cuộc chiến tranh. McCarthy có vẻ khổ sở, trở lại con người rụt rè của ông ta, châp nhận thất bại, không quan tâm gì đến đám trẻ hàng đêm vẫn bị quấy rối và đánh đập ở công viên Lincoln và công viên Grant vì không chịu giải tán. Trong một nỗ lực cuối cùng để tìm ra một ứng viên mà hầu hết đảng viên Dân chủ chấp nhận được, mọi người, từ AI Lowenstein cho đến thị trưởng Daley, đều giới thiệu Ted Kennedy. Khi Kennedy kiên quyết từ chối, vị trí đề cử của Humphrey mới chắc chắn. Và lúc ấy nghị trình Johnson mong muốn cũng mới chắc chắn với khoảng 60% đại biểu bỏ phiếu ủng hộ.

Vào tối mà đại hội tuyên bố ứng viên được đề cử, 15 ngàn người tập trung tại công viên Grant để phản đối chiến tranh và lối hành xử cứng rắn của thị trưởng Daley. Sau khi một người biểu tình giật cờ Mỹ xuống, cảnh sát ùa vào đám đông đánh đập và bắt bớ. Khi đám biểu tình đi đến khách sạn Hilton, cảnh sát bắn hơi cay và lại đánh đập họ ở đại lộ Michigan. Mọi diễn biến đều được truyền trực tiếp qua máy truyền hình ở hội trường đại hội. Cả hai phe đều nổi giận. McCarthy cuối cùng cũng phát biểu với những ủng hộ viên của mình ở công viên Grant, tuyên bố với họ rằng ông ta sẽ không bỏ rơi họ và sẽ không chấp nhận Nixon hay Humphrey. Thượng nghị sĩ Abe Ribicoft bang Connecticut trong khi đề cử McGovern đã phê phán "cách hành xử kiểu Gestapo trên đường phố Chicago". Daley nhảy dựng lên, và trước ống kính truyền hình, tung ra một tràng những lời nhục mạ Ribicoff. Các bài diễn văn chấm dứt là đến lúc bỏ phiếu. Humphiey thắng dễ dàng sau khi kiểm phiếu xong vào nửa đêm. Lựa chọn đề cử phó tổng thống của ông ta là Thượng nghị sĩ Edmund Muskie bang Maine cũng dễ dàng được thông qua sau đó. Trong khi ấy, những cuộc biểu tình do Tom Hayden và tay tấu hài da đen Dick Gregory dẫn đầu vẫn tiếp diễn bên ngoài sảnh đại hội. Diễn biến khả quan duy nhất bên trong đại hội, ngoài bài diễn văn của Inouye, là đoạn phim tưởng nhớ Robert Kennedy được chiếu vào cuối ngày và làm các đại biểu đầy cảm động. Tổng thống Johnson đã khôn khéo ra lệnh không được chiếu đoạn phim này trước khi Humphrey được đề cử.

Sự nhục mạ cuối cùng là sau khi đại hội kết thúc, cảnh sát vẫn còn xông vào khách sạn Hilton đánh đập và bắt giữ vài tình nguyện viên của McCarthy lúc ấy đang ăn tiệc chia tay. Cảnh sát cho là mấy thanh niên này trong khi uống rượu cho quên sầu đã ném đồ vào họ từ phòng ở lầu 15 dành cho nhân viên của McCarthy. Ngày hôm sau, Humphrey hoàn toàn ủng hộ việc Daley xử lý nạn bạo lực "có tính toán" và tuyên bố ông thị trưởng không làm gì sai trái cả.

Đảng Dân chủ rời Chicago trong tình trạng chia rẽ và xuống tinh thần - tổn thất mới nhất trong một cuộc chiến tranh về quan niệm đã vượt quá những tranh cãi về Việt Nam. Cuộc chiến ấy sẽ thay đổi lại cơ cấu và phe cánh trong chính trị Mỹ cho đến hết thế kỷ và sau đó nữa, và gây khó khăn cho việc tập trung cử tri đoàn vào những vấn đề tác động nhiều nhất đến cuộc sống của họ chứ không phải vào tâm lý họ. Thanh niên biểu tình và những người ủng hộ họ coi ông thị trưởng và cảnh sát là những kẻ ngoan cố ngu dôt, độc đoán và bạo lực. Ông thị trưởng và cảnh sát chủ yếu xuât thân từ dân lao động thì coi bọn thanh niên là bọn nhóc nhà giàu to mồm, vô đạo đức, không yêu nước, mềm yếu và được nuông chiều đên mức không còn coi giới chức ra gì, trong khi lại quá ích kỷ không thèm biết đến những gì cần làm để giữ ổn định xã hội và cũng quá hèn nhát không dám đi Việt Nam chiến đấu.

Tôi theo dõi tất cả những việc này trong căn phòng khách sạn nhỏ ở Shreveport, tôi hiểu cảm giác của cả hai bên. Tôi chống chiến tranh và chống thói hung bạo của cảnh sát, nhưng việc lớn lên ở Arkansas cũng làm tôi hiểu và tôn trọng những cực nhọc của người phải thi hành phận sự mỗi ngày, và nghi ngờ sâu sắc thói vênh váo tự cho mình là đúng dù là cánh hữu hay cánh tả. Sự cuồng tín của cánh tả vẫn chưa bung ra hết, nhưng nó đã gây ra phản ứng cực đoan từ phía cánh hữu - một phản ứng vững chắc, được hậu thuẫn tài chính dồi dào, thể chế hóa, và ham muốn quyền lực và có khả năng tự bảo tồn.

Phần lớn cuộc đời làm chính trị của tôi là dùng để tìm cách lấp đầy khoảng cách văn hóa và tâm lý từng bùng lên thành những xung đột ở Chicago. Tôi đã thắng nhiều cuộc bầu cử và tôi nghĩ mình cũng làm được nhiều điều tốt, nhưng tôi càng cố đoàn kết mọi người lại thì điều đó càng làm những kẻ cuồng tín cánh hữu tức tối. Không giống như những thanh niên ở Chicago, bọn họ không muốn nước Mỹ lại thống nhất. Họ có kẻ thù, và họ vẫn luôn muốn có kẻ thù.