← Quay lại trang sách

Chương 14

Tôi dành tháng 9 để chuẩn bị nhập học Oxford, chào tạm biệt bạn bè, và theo dõi cuộc tranh cử tổng thống tiếp diễn. Vì đang trong diện nhập ngũ nên tôi liên hệ với chủ tịch ban tuyển quân địa phương - Bill Armstrong để biết bao giờ đến lượt tôi. Mặc dù chế độ hoãn dịch cho sinh viên cao học đã được hủy bỏ hồi mùa xuân trước, nhưng sinh viên vẫn được phép kết thúc học kỳ họ đang học. Oxford có ba học kỳ tám tuần trong một năm, và xen kẽ là hai kỳ nghỉ năm tuần. Tôi được thông báo có thể đến tháng 10 mới bị gọi và tôi có thể học tiếp một học kỳ nữa, tùy thuộc vào chỉ tiêu mà ban tuyển quân địa phương phải đáp ứng. Tôi thực sự muốn đến học ở Oxford, kể cả trường hợp chỉ được học một vài tháng. Quỹ học bổng Rhodes cho phép người ta đi quân dịch xong rồi quay về học tiếp ở Oxford, nhưng vì tôi đã quyết định nằm trong diện quân dịch, và chuyên Việt Nam vẫn chưa biết bao giờ kêt thúc, nên nghĩ đến việc đi học sau đó quả là không khôn ngoan chút nào.

Về chính trị, mặc dù sau kỳ đại hội ờ Chicago tôi nghĩ chẳng còn hy vọng gì, và Humphrey vẫn theo đuổi chính sách Việt Nam của Lyndon Johnson, nhưng tôi vẫn muốn ông chiến thắng. Nội vấn đề dân quyền cũng đủ để làm vậy. Nạn phân biệt chủng tộc vẫn chia rẽ miền Nam. Theo lệnh của tòa án, người ta dùng xe buýt chở trẻ em đi học chia đều ra các trường nhằm đảm bảo tỷ lệ chủng tộc trong trường ở nhiều hạt. Việc này ngày càng lan rộng và gây chia rẽ ngày càng tăng ở khắp nơi trên đất nước. Thật trớ trêu là việc Wallace ra tranh cử đã tạo cơ hội cho Humphrey, vì hầu hết các cử tri của ông ta thuộc giới ủng hộ việc trường học không hòa hợp chủng tộc và theo trường phái luật pháp và trật tự, và nếu như cuộc đua tranh cử chỉ có hai ứng viên thì họ chắc sẽ bỏ phiếu cho Nixon.

Xung đột văn hóa vẫn tiếp tục bùng nổ. Những người biểu tình phản chiến nhắm vào Humphrey nhiều hơn là Wallace và Nixon. Phó tổng thống cũng bị coi thường khi tiếp tục chỉ trích cách hành xử của cảnh sát của Thị trưởng Daley trong kỳ đại hội. Dù một cuộc trưng cầu của viện Gallup cho thấy có 56% người Mỹ ủng hộ các biện pháp của cảnh sát đối với những người biểu tình, hầu hết số người này không phải là người theo đảng Dân chủ, đặc biệt là trong cuộc đua ba người, kể cả Wallace. Thêm nữa, trật tự vừa mới được vãn hồi đã lại bị lung lay vì hai cuộc phản đối tại cuộc thi Hoa hậu toàn mỹ ở thành phố Atlantic. Một nhóm người da đen phản đối vì cuộc thi không có thí sinh da đen. Một nhóm nữ quyền cũng phản đối cuộc thi vì cho rằng nó hạ thấp nhân phẩm phụ nữ. Để thuyết phục hơn, một sô phụ nữ còn đốt áo ngực của họ, một chứng cớ hùng hồn đối với nhiều người Mỹ kiểu cũ rằng lần này gay go to rồi.

Trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Nixon có vẻ đang dễ dàng tiến tới chiến thắng. Ông ta công kích Humphrey là yếu và không hiệu quả, và nói càng ít càng tốt về những gì ông ta sẽ làm nếu được bầu tổng thống, ngoại trừ cố gắng thỏa mãn nhóm theo chủ nghĩa phân biệt (và ve vãn cử tri của Wallace) bằng cách hứa hẹn sẽ đảo ngược chính sách cắt ngân sách quỹ liên bang cho các trường học nào từ chối lệnh củạ tòa án liên bang về việc cho học sinh khác màu da học chung. Người đứng chung liên danh với Nixon, Spiro Agnew, là người trực tiếp xông xáo làm việc này với sự trợ giúp của chuyên gia viết diễn văn của ông ta là Pat Buchanan. Giọng điệu khắc nghiệt và những câu nói hớ của ông ta đã trở thành huyền thoại. Đi đâu Humphrey cũng gặp phải những cuộc biểu tình phản đối ồn ào. Đến cuối tháng, các cuộc trưng cầu cho thấy Nixon ổn định với 43%, Humphrey rớt 12 điểm còn 28%, chỉ hơn Wallace 7 điểm lúc này đang giữ 21% số phiếu. Vào ngày cuối cùng của tháng 9, trong cơn tuyệt vọng, Humphrey công khai từ bỏ quan điểm của Tổng thống Johnson về vấn đề Việt Nam và tuyên bố rằng Johnson nên ngừng ném bom Bắc Việt Nam và coi đấy là "nguy cơ chấp nhận được để có hòa bình". Cuối cùng ông ta đã trở về với bản chất thật của mình, nhưng đến lúc đó chỉ còn năm tuần nữa là bầu cử.

Khi Humphrey đọc bài diễn văn công bố quan điểm của ông ta tôi đang ở New York chuẩn bị lên đường đi Oxford. Tôi và Denise Hyland đã ăn một bữa trưa tuyệt vời với Willie Morris, lúc này là một biên tập viên trẻ của tạp chí Harper. Lúc còn học năm thứ nhất tôi đã từng đọc cuốn tự truyện thú vị của anh: North Toward Home - Lên phương bắc về nhà và trở thành người hâm mộ anh suốt cả đời. Sau khi giành được học bổng Rhodes, tôi viết cho Willie hỏi xem tôi có thể đến thăm anh ở New York được hay không. Mùa xuân năm đó, anh tiếp tôi trong văn phòng ở đại lộ Park. Tôi thấy cuộc gặp gỡ thú vị đến mức trước khi chia tay tôi lại yêu cầu được gặp một lần nữa, và vì lý do nào đấy, có thể vì lịch sự kiểu người miền Nam, anh đã thu xếp thời gian gặp tôi.

Ngày 4 tháng 10, Denise đi cùng tôi ra cầu cảng 86 trên sông Hudson, nơi tôi sẽ lên tàu SS United States để đi Anh. Tôi biết đích đến của chiếc tàu biển khổng lồ này, nhưng không rõ rồi đây mình sẽ đi tới nơi đâu.

VVào thời đó tàu United States là tàu chạy nhanh nhất, thế nhưng chuyến đi cũng phải mất đến gần một tuần. Đi tàu biển cùng nhau để làm quen là một truyền thống lâu đời của sinh viên học bổng Rhodes. Nhịp lướt êm ái của tàu và những lần ăn tối chung với nhau thực sự cho chúng tôi thời gian biết thêm về nhau (sau khi đã buộc phải "đánh hơi nhau" như những con chó săn no đủ mệt mỏi), gặp gỡ những hành khách khác, và xả bớt áp lực của không khí chính trị nóng bỏng của nước Mỹ. Hầu hết chúng tôi đều còn tử tế đến mức cảm thấy hơi tội lỗi vì thích thú chuyến đi; chúng tôi ngạc nhiên khi gặp những người không mấy ám ảnh về Việt Nam và chính trị trong nước như chúng tôi.

Cuộc gặp gỡ khác thường nhât của tôi là với Bobby Baker, đệ tử chính trị khét tiếng của Lyndon Johnson, người từng là thư ký °ủa thượng viện khi Tổng thông Johnson còn là lãnh tụ đa sô trong thượng viện. Một năm trước, Baker bị kết tội trốn thuế và một số tội danh khác, nhưng ông ta vẫn được tự do trong lúc kháng án. Baker có vẻ vô tư, thích chính trị và thích giao du với đám sinh viên học bổng Rhodes. Đám sinh viên có lẽ không cảm thấy thế với ông ta. Một số người trong nhóm không biết ông ta là ai; hầu hết những người còn lại coi ông ta là hiện thân của tệ quen biết thối nát của thể chế chính trị. Tôi không đồng tình với những gì ông ta đã làm, nhưng tôi vẫn thấy thu hút bởi những câu chuyện về nội tình mà ông ta rất sẵn lòng chia sẻ. Chỉ cần hỏi một hay hai câu là ông ta kể ngay.

Ngoại trừ Bobby Baker và tùy tùng, tôi chủ yếu chỉ chơi với các sinh viên học bổng Rhodes và những thanh niên khác trên tàu. Tôi đặc biệt mến Martha Saxton, một nhà văn thông minh, xinh đẹp và đầy cảm hứng. Phần lớn thời gian của cô dành cho một sinh viên khác, nhưng cuối cùng tôi cũng có cơ hội tiếp cận, và khi chuyện lãng mạn của chúng tôi kết thúc, chúng tôi trở thành bạn thân trọn đời. Mới đây cô đã gửi cho tôi cuốn sách mới nhất của mình: Being Good: Women's Moral Values in Early America - Bản chất tốt: Những giá trị đạo đức của phụ nữ ở Mỹ thời sơ khai.

Một hôm có người mời một số trong chúng tôi đến phòng ông ta để uống cocktail. Trước đó tôi chưa bao giờ uổng và cũng chưa bao giờ muốn uống. Tôi căm ghét những gì rượu đã gây ra với bố tôi, Roger Clinton, và sợ nó cũng có thể ảnh hưởng đến tôi tương tự như vậy. Nhưng tôi nghĩ đã đến lúc phải kết thúc mối lo sợ dai dẳng này. Ông ta hỏi tôi muốn uống gì, tôi nói scotch pha sôđa, thức uống tôi vẫn thường pha cho mọi người lúc làm pha chế rượu trong một vài bữa tiệc riêng ở Georgetown. Tôi không biết mùi vị nó ra sao, và khi nhấp thử tôi chẳng thấy thích chút nào. Hôm sau, tôi thử bour-bon pha nước, thấy khá hơn chút ít. Đến Oxford, tôi thường uống bia, rượu vang và rượu sherry, và khi về nhà, tôi thích uống gin với tonic và mùa hè thì thích uống bia. Trong những năm cuối tuổi 20 và đầu tuổi 30, thỉnh thoảng tôi cũng có quá chén. Từ khi gặp Hillary, chúng tôi thường uống sâmpanh trong những dịp đặc biệt, nhưng may thay, rượu không hề ảnh hưởng xấu đến tôi. Cuối thập niên 70, tôi bị dị ứng với tất cả các loại thức uống có cồn trừ vodka. Xét ra, tôi thấy mừng vì đã thoát khỏi cơn sợ hãi đối với rượu, và cũng thấy nhẹ người khi thấy mình không bị cuốn theo nó. Không có rượu tôi cũng đã có đủ rắc rối rồi.

Nhưng nói chung chuyến đi này hay nhất là vì những hứa hẹn nó đem lại: giao du với sinh viên được học bổng Rhodes. Tôi cố gắng chơi với tất cả mọi người, nghe họ nói chuyện và học hỏi họ. Rất nhiều người có thành tích học tập đáng nể hơn tôi và một số ít hoạt động tích cực trong phong trào chính trị phản chiến hồi còn ở trường hoặc trong các chiến dịch của McCarthy và Kennedy. Một vài trong số những người tôi thích nhất đã trở thành bạn trọn đời của tôi, và một số đáng kể khác sau này đóng vai trò quan trọng trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi: Tom Williamson, cầu thủ bóng bầu dục da đen của trường Harvard, sau này là cố vấn Bộ Lao động trong nhiệm kỳ đầu tiên của tôi; Rick Stearns - trường Stanford là người đã giới thiệu tôi làm việc cho chiến dịch tranh cử quốc gia của McGovern và được tôi bổ nhiệm làm thẩm phán liên bang ở Boston; Strobe Talbott, chủ bút tờ Yale Daily News, sau này trở thành cố vấn đặc biệt của tôi về Nga và thứ trưởng ngoại giao sau sự nghiệp thành công ở tòa báo Time-, Doug Eakeley, ở cùng nhà với tôi ở trường luật, được tôi bổ nhiệm làm chủ tịch của Tập đoàn Dịch vụ Pháp lý; Alan Bersin, một cầu thủ bóng bầu dục khác của trường Harvard đến từ Brooklyn, người được tôi bổ nhiệm làm công tố viên Mỹ ở San Diego, nơi bây giờ ông là giám thị ở trường trung học; Willie Flecher ở Seattle, tiểu bang Washington, tôi đã bổ nhiệm vào Tòa phúc thẩm khu vực thứ chín (tại Mỹ có 134 khu vực tư pháp, mỗi khu vực bao gồm nhiều tiểu bang và có một tòa phúc thẩm. Tòa phúc thẩm khu vực thứ chín là tòa lớn nhất - ND); và Bob Reich - lúc đó là ngòi nổ sáng giá khơi mào các cuộc tranh luận của nhóm ' sau này là Bộ trưởng lao động trong nhiệm kỳ đầu tiên của tôi. Một người khác là Dennis Blair, sinh viên tốt nghiệp Học viện Hải quân, đã trở thành đô đốc trong Lầu năm góc khi tôi làm Tổng thống và rôi làm chỉ huy các lực lượng ở Thái Bình Dương, nhưng anh ấy làm mọi việc mà không cần tôi giúp gì cả.

Trong hai năm kế tiếp, tất cả chúng tôi trải nghiệm Oxford theo những cách khác nhau, nhưng chúng tôi cùng chia sẻ sự bất an và lo lắng ở quê nhà Mỹ, yêu mến Oxford đấy song không khỏi băn khoăn rằng chúng tôi đang làm cái quái quỉ gì ở đây. Phần lớn chúng tôi lao vào cuộc sống mới hơn là lên giảng đường. Những cuộc trò chuyện, đọc sách và các chuyên đi dường như quan trọng hơn, đặc biệt đối với những người nghĩ rằng mình đang sống khoảng thời gian vay mượn. Sau hai năm, tỷ lệ người Mỹ trong khóa chúng tôi thực sự nhận được bằng ít hơn bất cứ khóa học nào khác trước đó trong chương trình học bổng Rhodes. Nhưng chúng tôi, theo cách của mình, lòng tràn ngập sự bồng bột của tuổi trẻ, có lẽ đã tự hiểu mình hơn trong thời gian ở Oxford, và cũng hiểu những điều có thể quan trọng đối với cả cuộc đời hơn hầu hết những sinh viên học bổng Rhodes khóa trước.

Sau năm ngày và một lần dừng ngắn ở Le Havre, cuối cùng chúng tôi đến Southampton, nơi lần đầu tiên chúng tôi có ý niệm về Oxford thông qua con người của Ngài Edgar "Bill" Williams, giám thị của Rhodes House. Ồng đứng đợi chúng tôi ở bến tàu, đầu đội mũ phớt, mặc áo mưa và tay cầm dù, trông ông giống một công tử Ănglê hơn là một người đã từng là giám đốc tình báo của Thống chế Montgomery trong Thế chiến hai.

Bill Williams lùa chúng tôi lên xe buýt để về Oxford. Trời đã tối và đang mưa nên chúng tôi chẳng thấy gì nhiều. Đến Oxford đã 11 giờ đêm, và cả thành phố tối đen như mực ngoại trừ chút ánh sáng le lói của một xe bán xúc xích, cà phê dở ẹc và đồ ăn nhanh trên đường High Street ngay bên ngoài University College, nơi tôi được chỉ định sẽ học. Xe buýt thả chúng tôi xuống và chúng tôi bước qua cánh cổng vào sân chính của trường có từ thế kỷ 17, ở đó, Douglas Millin, người quản lý trường, đứng đón chúng tôi. Millin là một ông già kỳ quặc, cộc cằn, nhận việc ở trường sau khi ra khỏi hải quân. Ông rất thông minh, nhưng lại luôn cố che giấu điều đó bằng cách thường xuyên chửi bới văng mạng. Ông đặc biệt thích hành hạ những người Mỹ. Những lời đầu tiên của ông mà tôi nghe là nhắm vào Bob Reich, người chỉ cao khoảng 1,5 mét. Ông nói người ta bảo sẽ gửi đến bốn "chàng Mẽo", hóa ra chỉ có ba chàng rưỡi. Ông không bao giờ ngừng giễu cợt chúng tôi, nhưng ẩn đằng sau là một con người khôn ngoan và xét đoán về người khác rât sắc sảo.

Trong hai năm tiếp theo, tôi dành nhiều thời gian nói chuyện với Douglas. Bằng thứ ngôn ngữ đầy những tiếng lóng Ảnglê, ông dạy cho tôi cách trường đại học thực sự vận hành ra sao, kể cho tôi nghe những câu chuyên về các giáo sư và nhân viên, bàn luận thời sự, kể cả sự khác biệt giữa chiến tranh Việt Nam và Thế chiến hai. Trong 25 năm kế tiếp, bất cứ khi nào có dịp đến Anh tôi đều đến thăm Douglas. Cuối năm 1978, sau khi được bầu làm thống đốc bang Arkansas, lần đầu tôi đưa Hillary đến Anh để nghỉ ngơi. Khi đặt chân đến Oxford, khi bước chân qua cánh cổng trường tôi tự hào ghê lắm. Thế rồi chúng tôi thấy Douglas. Ông không bao giờ bỏ lỡ dịp. "Clinton" - ông nói - "Tôi nghe nói cậu mới được bầu làm vua một vương quốc nào đó chỉ có ba người và một con chó". Tôi yêu mến Douglas Millin.

Phòng tôi ở phía sau trường, sau lưng thư viện, ở sân Helen's Court, một nơi nhỏ bé kỳ quặc được đặt theo tên vợ một ông thầy của trường. Hai tòa nhà đối diện nhau qua một khoảng sân có tường bao quanh. Tòa nhà bên trái cũ hơn có hai cửa dẫn đến hai dãy phòng sinh viên ở tầng trệt và lầu một. Tôi được phân một phòng bên cánh trái ở lầu hai gần lối ra vào. Phòng tôi có một phòng ngủ nhỏ và một phòng làm việc nhỏ mà thực ra gộp lại thành một phòng lớn. Nhà vệ sinh ở tầng trệt, mỗi lần đi vệ sinh phải đi xuống cầu thang lạnh lẽo. Phòng tắm ở lầu một. Thỉnh thoảng cũng có nước nóng. Tòa nhà hiện đại bên phải dành cho sinh viên cao học, mỗi người được một căn hộ một trệt một lầu. Tháng 10 năm 2001, tôi giúp Chelsea sắp xếp đồ đạc trong căn hộ có phòng ngủ đối diện với căn phòng tôi đã từng ở 33 năm trước. Đó là một trong những khoảnh khắc vô giá khi ánh mặt trời xua đi tất cả những bóng tối của cuộc đời.

Buổi sáng đầu tiên ở Oxford tôi thức dậy và tiếp xúc ngay với rnột trong những thông lệ kỳ lạ của cuộc sống Oxford: ông Archie, tùy viên" của tôi và là người dọn phòng ở Helen's Court. Tôi đã quen tự soạn giường và tự lo cho mình, nhưng dần dà tôi để cho Archie làm công việc mà, tính đến khi "vướng" vào tôi, ông đã làm trong gần 50 năm. Archie là người thầm lặng, tử tế mà tôi và các bạn ngày càng thực sự kính trọng và yêu mến. Vào giáng sinh và các dịp đặc biệt khác, sinh viên thường tặng cho người "tùy viên" một món quà nhỏ, trong giới hạn cho phép của vỏn vẹn 1.700 đôla tiền tiêu xài hàng năm của học bổng Rhodes. Archie đánh tiếng rằng ông thực sự thích vài chai Guinness, một loại bia đen Ireland. Tôi mua cho ông khá nhiều lúc ở Helen's Court và thỉnh thoảng tôi cùng ông làm vài ngụm. Archie rất thích loại bia đó, và nhờ ông tôi cũng thích luôn.

Cuộc sống ở trường đại học được tổ chức quanh 29 trường nhỏ, lúc bấy giờ vẫn còn nam riêng nữ riêng; có rất ít trường dành cho nữ. Vai trò chính của trường đại học trong cuộc đời sinh viên là cung cấp các bài giảng, mà sinh viên có thể tham dự hoặc không, và tổ chức thi, thường vào cuối kỳ học mỗi môn. Có được bằng hay không, hoặc bằng loại nào hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả thi. Muốn học hết tài liệu thì phải tham gia các buổi học nhóm hàng tuần để viết bài luận ngắn về đề tài sẽ thảo luận. Mỗi trường đều có nhà nguyện riêng, phòng ăn, và thư viện. Hầu hết các trường đều có kiến trúc nổi bật; một số có vườn đẹp tuyệt, thậm chí có cả công viên và hồ, hoặc nằm cạnh sông Cherwell chảy bên rìa phía đông thành phố cổ. Ngay dưới Oxford, sông Chervvell chảy vào Isis, một nhánh của sông Thames, con sông rộng lớn định hình phần lớn London.

Tôi dành phần lớn thời gian của hai tuần đầu tiên để dạo quanh Oxford, một thành phố cổ kính và đẹp đẽ. Tôi khám phá những dòng sông, công viên, những con đường có hàng cây, nhà thờ, những ngôi chợ có mái che, và, tất nhiên, các trường trực thuộc Oxford.

Mặc dù trường tôi không có sân lớn, và dãy nhà cổ kính nhất cũng chỉ từ thế kỷ 17 nhưng tôi thấy hợp với trường. Vào thế kỷ 14, các sinh viên của trường đã giả mạo tài liệu để chứng minh đây là trường lâu đời nhất của Oxford, có gốc rễ từ thời Alfred Đại đế hồi thế kỷ thứ chín. Tuy nhiên điều không cần phải tranh cãi là trường tôi, hay Univ như mọi người thường gọi, là một trong ba trường lâu đời nhất, được thành lập cùng với Merton và Balliol vào thế kỷ 13. Năm 1292, quy định của trường gồm một loạt những quy định hà khắc, kể cả việc cấm hát tình ca và nói tiếng Anh (quy định bắt phải nói tiếng Latinh - ND). Đôi lần trong các đêm quậy phá gào rú, tôi ước gì đám bạn tôi vẫn phải chịu quy định ấy và bị bắt buộc phải thì thào bằng tiếng Latinh.

Sinh viên nổi tiếng nhất của trường là Percy Bysshe Shelley ghi danh vào năm 1810, theo ngành hóa. Ông chỉ học được một năm rồi bị đuổi, không phải do ông đã dùng kiến thức mình học được để đặt một máy nấu rượu nhỏ trong phòng ở, mà do bài luận của ông có tên "Sự cần thiết của thuyết vô thần". Năm 1894, Univ đã phục hồi danh dự cho Shelley bằng cách đúc một bức tượng cẩm thạch rất đẹp của nhà thơ quá cố, người đã chết đuối bên bờ biển Ý lúc gần 30 tuổi. Khách tham quan đến trường dù chưa bao giờ đọc thơ của ông, chỉ cần chiêm ngưỡng những vần thơ tuyệt mệnh uyển chuyển của ông cũng có thể hình dung tại sao ông lại có ảnh hưởng đến thế đối với những người trẻ tuổi thời ông còn sống. Vào thế kỷ 20, trong số sinh viên cử nhân và cao học của Univ có ba nhà văn nổi tiếng Stephen spender, c.s. Lewis và V.S.Naipaul; nhà vật lý học vĩ đại Stephen Hawking; hai thủ tướng Anh, Clement Attlee và Harold Wilson; thủ tướng úc Bob Hawke, người vẫn đang giữ kỷ lục uống bia nhanh của trường; diễn viên Michael York; và người đã giết Rasputin, hoàng tử Felix Yusupov.

Khi bắt đầu tìm hiểu Oxford và nước Anh, tôi cũng cố gắng tiếp tục theo dõi từ xa tiến triển cuộc bầu cử và nóng lòng chờ đợi lá phiếu cho cử tri vắng mặt để tôi có thể gửi đi phiếu bầu tổng thống đầu tiên của mình. Mặc dù bạo lực đô thị và các cuộc biểu tình của sinh viên vẫn tiếp tục nhưng Humphrey đã khá hơn. Sau tuyên bố tách mình khỏi lập trường về vấn đề Việt Nam của LBJ, Humphrey ít bị phản đối hơn và có thêm sự ủng hộ từ giới trẻ. Cuối cùng McCarthy cũng ủng hộ ông ấy, theo kiểu nửa vời rất đặc trưng, nói thêm rằng ông ta sẽ không ra tái tranh cử vào thượng viện năm 1970 hay tổng thống năm 1972 nữa. Trong khi đó, Wallace đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi chỉ định cựu tư lệnh không quân Curtis LeMay làm ứng viên phó tổng thống trong liên danh của mình. LeMay, người đã hối thúc Tổng thống Kennedy ném bom Cuba trong cuộc khủng hoảng tên lửa năm năm trước, ra mắt với tư cách ứng viên bằng tuyên bố rằng bom hạt nhân cũng chỉ là ''một loại vũ khí trong kho vũ khí" và rằng "cũng có lúc sử dụng chúng là hiệu quả nhất". Tuyên bố cúa LeMay khiến Wallace phải lui vào thế thủ và không bao giờ có lại được ưu thế nữa.

Trong khi đó, Nixon vẫn giữ chiến thuật đang giúp ông tiến đến chiến thắng, né tránh mọi lời mời tranh luận với Humphrey. Nixon chỉ hơi phiền vì tương quan bất lợi cho Spiro Agnew so với đối thủ là Thượng nghị sĩ Muskie trong liên danh của Humphrey, và vì mối lo ngại rằng Johnson có thể đạt được đột phá "bất ngờ tháng 10" tại hòa đàm Paris với tuyên bố ngừng ném bom. Bây giờ thì chúng ta đã biết cuộc vận động của Nixon có được thông tin tay trong về các cuộc đàm phán do Henry Kissinger cung cấp. Kissinger với vai trò cố vấn của Averell Harriman có liên quan đến hòa đàm Paris đủ để biết việc gì đang diễn ra. Chúng ta cũng biết rằng chỉ huy chiến dịch tranh cử của Nixon, John Mitchell đã thông qua người bạn của Nixon - Anna Chennault - vận động Tổng thống Thiệu của Nam Việt Nam không khuất phục sức ép của LBJ mà ngồi vào bàn đàm phán với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Nhờ các đoạn băng nghe lén giữa Anna Chennault và Đại sứ Nam Việt Nam ở Washington (Bộ Tư pháp cho phép việc nghe lén này) mà Johnson biết hết các nỗ lực đó của phía Nixon. Cuối cùng, vào ngày cuối cùng của tháng 10, Tổng thống Johnson tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn cũng như việc Hà Nội đồng ý cho Nam Việt Nam tham gia đàm phán, và việc Mỹ chấp thuận vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Tháng 11 bắt đầu đầy kỳ vọng đối với Humphrey và những người ủng hộ ông. Số người ủng hộ trong các cuộc trưng cầu tăng lên nhanh chóng, và rõ ràng ông ta cho rằng sáng kiến hòa bình sẽ đưa ông lên dẫn đầu. Ngày 2 tháng 11, ngày thứ bảy trước bầu cử, Tổng thống Thiệu tuyên bố không thể đi Paris vì sự có mặt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Ông ta nói, như thế buộc ông ta phải liên minh chính phủ với cộng sản, và ông ta chỉ đàm phán với Bắc Việt Nam thôi. Phe Nixon nhanh chóng ám chỉ LBJ đã quá vội vàng trong tiến trình đàm phán hòa bình, cố giúp Humphrey mà chưa chuẩn bị chu đáo các giải pháp ngoại giao.

Johnson điên tiết và thông báo cho Humphrey về những nỗ lực phá hoại sáng kiến hòa đàm do Anna Chennault tiến hành thay mặt Nixon. Lúc đó không cần phải giấu giếm dư luận để khỏi mất mặt không tung hê sự việc lên. Bởi vì kết quả trưng cầu cho thấy Nixon sẽ phải đối mặt với cuộc đua sít sao, nên ông nghĩ ông có thể chiến thắng mà không cần dùng đến thủ đoạn đó, và rõ ràng ông cũng lo sự nếu tiết lộ ra có thể lợi cất cập hại vì các sự kiện chưa đủ để chứng minh rằng Nixon biết những gì người khác, trong đó có John Mitchell, đang làm sau lưng và nhân danh ông ta. Tuy vậy, rõ ràng ở đây có chuyện Nixon đã dính líu đến các hành động phản trắc. Johnson rất giận Humphrey. Tôi tin là nếu LBJ tranh cử, ông ta sẽ tung hê thông tin đó ra, và nếu ở tình thế ấy, Nixon cũng chẳng ngần ngại gì mà không làm tương tự.

Humphrey đã phải trả giá cho sự đắn đo hay sự khó tính đó của mình. Ông thua cuộc, thiếu mất 500.000 phiếu, giảm từ 43,4% xuống còn 42,7% và kém Wallace 13,5%. Nixon giành được 301 phiếu đại cử tri, vượt mức đa số 31 phiếu, với những chiến thắng sít sao ở Illinois và Ohio. Nixon đã thoát nạn với vụ Kissinger-Mitchell- Chennault, nhưng như Jules Witcover suy đoán trong cuốn sách của mình về năm 1968, The Year the Dream Died - Năm Giấc mơ lụi tàn, thì lần thoát hiểm đó có thể phải trả giá đắt hơn người ta tưởng nhiều. Chuyện thoát hiểm này đã làm cho phe Nixon tin rằng họ có thể làm mọi việc trót lọt, kể cả những trò bịp bợm trong vụ Watergate.

Ngày 1 tháng 11, tôi bắt đầu viết nhật ký bằng một trong hai cuốn sổ bìa da mà Denise Hyland đã tặng tôi ngày rời nước Mỹ. Khi Archie đánh thức tôi dậy để báo tin lành ngừng ném bom, tôi đã viết: "Ước gì hôm nay mình được gặp Thượng nghị sĩ Fulbright - một lần nữa đây là minh chứng cho cuộc đấu tranh không biết mệt mỏi và ngoan cường của ông". Hôm sau tôi đoán việc ngừng bắn có thể dân đến rút quân và tôi có thể không bị động viên, hoặc ít nhất "cho phép các bạn đang tại ngũ của tôi có thể thoát khỏi Việt Nam. Và một số người trong rừng rậm ở đó có thể thoát chết". Tôi không hay biết rằng tổn thất nhân mạng Mỹ ở Việt Nam sẽ còn tăng gấp đôi. Tôi kết thúc hai đoạn nhật ký bằng "ca tụng niềm hy vọng, đã làm nên con người tôi, điều đã ở bên tôi ngay cả vào những đêm như đêm nay khi tôi không còn chút khả năng nào để phân tích và diễn đạt cho mạch lạc". Vâng, tôi còn trẻ và hay cường điệu, nhưng tối đã tin vào điều mà sau này trong bài diễn văn ở đại hội đảng Dân chủ năm 1992 tôi mô tả như "một nơi có tên Hy vọng". Chính điều đó đã giúp tôi tiếp tục đi lên trong suốt cuộc đời.

Ngày 3 tháng 11, tôi tạm quên cuộc bầu cử để ăn trưa với George Cawkwell, trưởng khoa phụ trách cao học của Univ. Đó là một người to lớn dềnh dàng và trông vẫn ra dáng một ngôi sao bóng bầu dục như trước đây, và là một người được học bổng Rhodes đến từ New Zealand. Ngay trong buổi gặp đầu tiên, Giáo sư Cawkwell đã trách mắng tôi về quyết định thay đổi khóa học. Ngay sau khi đến Oxford, tôi đã ngưng học nhóm PPE bao gồm chính trị, triết học và kinh tế trong chương trình cử nhân để chuyển sang Cử nhân Văn chương ngành Chính trị, môn này bắt buộc tôi phải làm luận án tốt nghiệp 50.000 từ. Tôi đã học hết chương trình PPE vào năm thứ nhất ở Georgetown, và vì có vấn đề quân dịch nên tôi không mong học hết năm thứ hai ở Oxford. Cawkwell cho rằng tôi đã sai lầm nghiêm trọng khi không tham gia các buổi học nhóm hàng tuần, nơi người ta đọc, phê bình và phản biện các bài luận. Phần lớn nhờ những lý lẽ của Cawkwell mà tôi lại đổi môn học, lần này chuyển sang cử nhân triết học ngành Chính trị; chương trình này bao gồm các buổi học nhóm, làm bài luận, thi và luận án ngắn hơn.

Ngày bầu cử, 5 tháng 11, cũng là ngày Guy Fawkes ở Anh, kỷ niệm lần ông ta định đốt tan nghị viện Anh vào năm 1605. Trong nhật ký, tôi viết: "Mọi người ở Anh đều ăn mừng ngày này; một số vì Fawkes thất bại, một số khác vì ông ta đã cố làm việc đó". Đêm hôm đấy, người Mỹ chúng tôi tụ tập lại ăn tiệc và theo dõi kết quả bầu cử ở Rhodes House. Đám đông phần lớn ủng hộ Humphrey, cổ vũ ông ta liên tục. Chúng tôi đi ngủ mà chẳng biết chuyện gì đã diễn ra ngoại trừ việc Fulbright đã thắng lợi dễ dàng, nhẹ nhõm phần nào vì lần trước ông chỉ vượt qua Jim Johnson và hai đối thủ được biết đến ít hơn với 52% số phiếu bầu. Mọi người ở Rhodes House reo hò khi người ta công bố chiến thắng của ông.

Ngày 6 tháng 11, chúng tôi biết Nixon đã thắng và như tôi viết trong nhật ký, "bác Raymond và các bạn đã giúp Wallace thắng ở bang Arkansas, lần đầu tiên đi chệch khỏi thông lệ lúc nào cũng bỏ phiếu cho đảng Dân chủ từ khi thành lập bang vào năm 1836... Tôi phải gửi 10 đôla cho bác Raymond vì đã cá với bác hồi tháng 11 năm ngoái rằng Arkansas, bang miền Nam "tự do" nhất không bao giờ bầu cho Wallace, và hóa ra những kẻ "ngụy trí thức" đã sai ("ngụy trí thức" là từ Wallace thích gán cho bất cứ ai tốt nghiệp đại học mà bất đồng quan điểm với ông ta). Tôi đã ghi rằng, không như chính phủ Nam Việt Nam, tôi cực kỳ thất vọng vì "sau tất cả sự việc đã diễn ra, sau cú phục hồi đáng kể của Humphrey, kết cục lại đúng như tôi từng dự cảm hồi tháng 1 năm ngoái: Nixon vào ngồi ở Nhà Trắng".

Thêm vào nỗi đau khổ đó, phiếu bầu cử tri vắng mặt của tôi không thấy đâu và tôi đã bỏ lỡ cơ hội đầu tiên trong đời được bầu tổng thống. Nhân viên hành chính đã gửi bằng đường bưu điện thường, không phải qua máy bay. Như vậy rẻ hơn nhưng phải mất ba tuần, sau ngày bầu cử khá lâu, tôi mới nhận được.

Ngày hôm sau, tôi quay lại với cuộc sống thường nhật. Tôi gọi cho mẹ, lúc này đã quyết định lấy Jeff Dwire và có vẻ hạnh phúc đến mức tôi cũng cảm thây vui lây. Và tôi gửi 10 đôla cho bác Raymond và đề nghị rằng nước Mỹ cũng nên có ngày George Wallace tương tự như ngày Guy Fawkes. Ai cũng có thể ăn mừng: một số vì Wallace dám tranh cử tổng thống, số còn lại vì ông ấy tranh cử quá kém như vậy.

Những ngày cuôl tháng là một loạt những hoạt động làm cho chính trị và Việt Nam tạm lui xuống hàng thứ yếu trong tâm trí tôi. Một thứ sáu nọ, tôi và Rick Stearns đón xe buýt và quá giang xe xuống Wales và quay về, trên đường Rick đọc thơ của Dylan Thomas cho tôi nghe. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe "Đừng nhẹ nhàng tan vào đêm đó". Tôi rất thích, và vẫn còn thích bài thơ khi những linh hồn dũng cảm "nổi giận trước ánh sáng lụi tàn".

Tôi cũng đi vài chuyến với Tom Williamson. Một lần chúng tôi quyết định chơi trò đổi vai cho nhau, tôi đóng vai người nô lệ da đen khúm núm, còn Tom cư xử kiểu ông chủ da trắng phân biệt chủng tộc miền Nam. Khi bác tài xê người Anh tốt bụng dừng xe lại để đón chúng tôi, Tom nói: "Ê, xuống ghế sau ngồi đi". "Vâng, thưa ngài", tôi trả lời. Bác tài xế người Anh nghĩ chúng tôi bị điên.

Hai tuần sau ngày bầu cử, tôi ghi điểm touchdown đầu tiên cho đội bóng bầu dục của Univ. Đó là một sự kiện lớn đối với cựu nhạc công như tôi. Mặc dù không hiểu lắm về ý nghĩa của môn này, tôi vẫn thích bóng bầu dục. Tôi to cao hơn hầu hết các sinh viên Anh và có thể góp sức đáng kể bằng cách ngăn cản đối phương, hoặc đẩy thật mạnh từ hàng thứ hai của "cục người", một đội hình mà cả hai bên đều cố gắng đẩy nhau thật mạnh để giành quả bóng được đặt ở giữa sân cỏ. Một lần chúng tôi đến Cambridge thi đấu. Mặc dù Cambridge có vẻ ôn hòa hơn Oxford, vốn Oxford to và công nghiệp hóa hơn Cambridge, nhưng đối thủ chơi rắn hơn nhiều. Tôi bị một cú vào đầu và chắc là bị choáng. Tôi bảo huân luyện viên rằng tôi bị chóng mặt, nhưng ông nhắc là hết người thay rồi, và nếu tôi ra sân thì đội chúng tôi sẽ bị thiếu người: "Thôi vào sân đi, lao vào ngăn cản người nào cũng được". Dù sao chúng tôi cũng thua, nhưng tôi mừng là đã không rời sân. Bạn luôn có cơ hội miễn là đừng bỏ cuộc.

Cuối tháng 11, tôi viết bài luận đầu tiên nộp cho thầy giáo, tiến sĩ Zbigniew Pelczynski, một người Ba Lan lưu vong, về vai trò của khủng bố trong chế độ chuyên chế Xô Viết, dự buổi học nhóm đầu tiên, và dự buổi hội thảo hàn lâm đầu tiên. Ngoại trừ một số nỗ lực ít ỏi như vậy, tôi dành phần lớn thời gian còn lại trong tháng để đi đây đó. Tôi đến Stratford-upon-Avon, quê hương của Shakespeare, hai lần để xem những vở kịch của ông, đến London hai lần để thăm Dru Bachman và Ellen McPeake, hai người bạn cũ cùng nhà hồi ở Georgetown của Ann Markusen, đang sống và làm việc ở đây; đến Birmingham để chơi một trận bóng rổ tồi tệ; và đến Derby để diễn thuyết trước học sinh trung học và trả lời những câu hỏi về nước Mỹ nhân dịp kỷ niệm năm năm ngày mất của Tổng thống Kennedy.

Đầu tháng 12, tôi lên kế hoạch bất ngờ về nhà dự đám cưới của mẹ, trong lòng tràn ngập những linh tính không lành về tương lai của tôi cũng như của mẹ. Nhiều bạn của mẹ rất không hài lòng trước tin mẹ sẽ lấy Jeff Dwire vì ông đã từng vào tù và vì họ nghĩ ông vẫn chưa đáng tin cậy. Tệ hơn nữa, ông vẫn chưa giải quyết xong vụ li dị với bà vợ vốn đã nguội lạnh từ lâu.

Đồng thời, cảm giác bất an của tôi tăng lên sau khi bạn tôi, Frank Aller, cũng được học bổng Rhodes ở trường Queen ngay đối diện Univ trên đường High Street, vừa nhận được giấy gọi nhập ngũ từ ủy ban tuyển quân có lựa chọn ở Spokane, Washington. Cậu ấy nói với tôi là sẽ về nhà gặp cha mẹ và bạn gái để chuẩn bị cho họ cậu sẽ quyết định từ chối lệnh điều động và ở lại Anh vô thời hạn để khỏi bị đi tù. Frank nghiên cứu về Trung Quốc, hiểu Việt Nam rất rõ, và nghĩ rằng chính sách của chúng ta vừa sai lầm vừa trái đạo lý. Cậu ấy cũng là một người tốt thuộc giới trung lưu và rất yêu nước. Cậu rất đau khổ vì tình thế tiến thoái lưỡng nan này. Tôi và Strobe Talbott sống ở trường Magdalen gần đó cố gắng an ủi và động viên cậu ấy. Frank là người tốt bụng và biết chúng tôi cũng chống chiến tranh như cậu ấy, nên cũng cố an ủi lại chúng tôi. Cậu ấy tỏ ra rất hùng hồn khi nói với tôi rằng, không như cậu ấy, tôi có ước vọng và khả năng tạo sự khác biệt trong chính trị và nếu tôi trốn quân dịch và bỏ lỡ những cơ hội ấy thì thật là sai lầm. Sự hào sảng của cậu ấy chỉ làm cho tôi càng cảm thấy tội lỗi, thể hiện trong những trang nhật ký đầy lo lắng và ray rứt của tôi. Cậu ấy dễ dãi với tôi hơn nhiều so với chính tôi cho phép bản thân mình.

Ngày 19 tháng 12, tôi hạ cánh xuống Minneapolis dưới trời bão tuyết để gặp Ann Markusen. Cô đã về nhà ở bang Michigan để học bằng tiến sĩ, và cũng giống như tôi, cô ấy hoang mang về tương lai của mình và của hai đứa tôi. Tôi yêu cô ấy, nhưng vào thời điểm đó tôi không chắc chắn chút nào về bản thân mình để có thể cam kết gắn bó với bất cứ ai.

Ngày 23 tháng 12, tôi bay về nhà. Đúng là mọi người ngạc nhiên. Mẹ khóc mãi không thôi. Mẹ, Jeff và Roger đều có vẻ rất hạnh phúc trước lễ cưới sắp diễn ra, mừng đến mức không còn thời gian la rầy mái tóc dài mới để của tôi. Giáng sinh diễn ra vui vẻ, bất chấp những nỗ lực cuôl cùng của hai người bạn của mẹ cứ một hai bắt tôi phải thuyết phục mẹ đừng cưới Jeff. Tôi mang bốn bông hồng vàng ra mộ cha và cầu cho gia đình cha cũng ủng hộ mẹ và em Roger trong cuộc phiêu lưu mới. Tôi thích Jeff Dwire. Ông thông minh, chăm chỉ, đôi xử tốt với Roger, và rõ ràng có yêu mẹ. Tôi ủng hộ cuộc hôn nhân, và ghi lại rằng "nếu cả người có thiện chí nhưng đây nghi ngờ lẫn người xấu bụng nói đúng về Jeff và mẹ thì cuộc hôn nhân của họ cùng lắm cũng chỉ tệ như các cuộc hôn nhân trước của mẹ hoặc của ông ấy là cùng". Và bỗng nhiên, tôi quên hết tất cả những xáo trộn của năm 1968, năm đảng Dân chủ và đất nước chịu sóng gió; năm chủ nghĩa dân túy bảo thủ đã thay thế chủ nghĩa dân túy cấp tiến như một thế lực nổi bật trong nước; năm mà luật lệ và trật tự lại thành lãnh địa của phe Cộng hòa còn phe Dân chủ lại gắn liền với hỗn loạn, yếu đuối và thiểu số xa rời thực tế và buông thả; năm bắt đầu chuỗi cầm quyền của Nixon, Reagan, rồi Gingrich, rồi George w. Bush. Phản ứng ngược của giới trung lưu sẽ định hình và làm biến dạng nền chính trị Mỹ đến cuối thế kỷ. Chủ nghĩa bảo thủ mới sẽ bị vụ Watergate làm lung lay, nhưng vẫn không bị tiêu diệt. Khi những lý thuyết gia cánh hữu khuyến khích sự bất bình đẳng về kinh tế, phá hủy môi trường và phân hóa xã hội, sự ủng hộ của công chúng đối với nó sẽ suy yếu đi, nhưng vẫn không mất hẳn. Khi chính những sự quá quắt của nó bắt đầu quay trở lại đe dọa nó, phong trào bảo thủ sẽ hứa "tử tế và ôn hòa hơn" hoặc sẽ "thông cảm" hơn, nhưng vẫn tố cáo phe Dân chủ là yếu kém trong các giá trị, tính cách cũng như ý chí. Và chỉ cần có thế cũng đủ khơi dậy phản ứng có thể đoán trước, hầu như giống phản xạ kiểu Pavlov (phản xạ có điều kiện của khoa học gia Pavlov - ND) trong giới cử tri trung lưu da trắng để thành công. Tất nhiên, mọi sự phức tạp hơn thế. Đôi khi những lời chỉ trích phái bảo thủ của đảng Dân chủ cũng hợp lý, và luôn có những nhân vật Cộng hòa ôn hòa và những người bảo thủ có thiện chí hợp tác với đảng Dân chủ để tạo ra những thay đổi tích cực.

Dù sao đi nữa, những cơn ác mộng ám ảnh của năm 1968 đã tạo ra một vũ đài chính trị nơi tôi và tất cả những chính trị gia cấp tiến khác phải đấu tranh trong suốt sự nghiệp của mình. Có thể, nếu Martin Luther King Jr. và Robert Kennedy còn sống, mọi sự đã khác. Có thể nếu Humphrey sử dụng thông tin về sự can thiệp của Nixon vào hòa đàm Paris thì mọi việc đã khác. Mà cũng có thể không. Dù gì đi nữa, những ai trong chúng ta tin mọi điều tốt của thời thập niên 60 vẫn nhiều hơn cái xấu sẽ vẫn tiếp tục chiến đấu, vẫn được truyền nhiệt huyết bởi những người hùng và giấc mơ thời tuổi trẻ.