← Quay lại trang sách

Chương 17

Vào tháng 7, tôi đến làm việc ở Washington cho Dự án Pursestrings, một dự án vận động hành lang của công dân ủng hộ chánh án McGovern - Hatfield đòi cắt giảm chi phí cho cuộc chiến Việt Nam trước năm 1971. Cơ hội để tu chánh án được thông qua là không có, nhưng chiến dịch này tạo ra phương tiện huy động và nêu bật sự chống đối chiến tranh ngày càng tăng trong cả hai đảng.

Mùa hè đó tôi ở tại một phòng trong nhà của Dick và Helen Dudman. Họ sống trong một căn nhà cổ hai tầng lớn có hàng hiên rộng ở tây bắc Washington. Dick là một nhà báo thành đạt. Cả ông ấy và Helen đều chống chiến tranh và ủng hộ đám thanh niên đang cố gắng chấm dứt cuộc chiến. Họ đối đãi tôi thật tuyệt vời. Một sáng nọ họ mời tôi ăn sáng ở hiên trước nhà với người bạn và hàng xóm họ là Thượng nghị sĩ Gene McCarthy. Ông ta lúc này đang ở năm cuối nhiệm kỳ trong thượng viện, và từ hồi 1968 đã tuyên bố là sẽ không ra tái ứng cử. Sáng hôm đó ông ấy trong một tâm trạng cởi và thoải mái, phân tích cặn kẽ các sự kiện thời sự và cho thấy một chút buồn hoài cổ khi sắp phải rời thượng viện. Tôi thích McCarthy hơn mong đợi, đặc biệt là sau khi ông cho tôi mượn đôi giày để đi dự buổi tiệc Báo chí Phụ nữ trang trọng, mà tôi nhớ không lầm là hai ông bà Dudman dàn xếp để tôi được mời. Tổng thống Nixon có đến và bắt tay nhiều người nhưng không có tôi. Tôi được xếp ngồi cùng bàn với Clark Clifford, người theo Tổng thống Truman từ Missouri đến Washington và làm phụ tá thân cận rồi bộ trưởng quốc phòng cho Tổng thống Johnson trong năm cuối nhiệm kỳ. Nói về Việt Nam, Clifford khô khan nói: "Đó là một trong những nơi kinh khủng nhất trên thế giới để dính líu đến". Bữa tiệc là một cơ hội ngẩng đầu cho tôi, đặc biệt là khi chân tôi gắn chặt xuống đất nhờ đôi giày của Gene McCarthy.

Không lâu sau khi tôi bắt đầu làm cho dự án Pursestrings, tôi nghỉ một kỳ cuối tuần dài và lái xe đến Springfield, Massachusetts, để dự đám cưới bạn cùng phòng ở Georgetown của tôi, trung úy thủy quân lục chiến Kit Ashby.

Trên đường quay lại Washington, tôi ghé Mũi Cod thăm Tommy Caplan và Jim Moore, hai người cũng đi dự đám cưới Kit. Buổi tối, chúng tôi đến thăm Carolyn Yeldell, mùa hè đó đang biểu diễn ở Mũi Cod cùng với một nhóm nghệ sĩ trẻ. Chúng tôi thật vui, nhưng tôi nán lại lâu quá. Khi tôi lên đường đi tiếp, tôi mệt muốn chết. Chưa kịp ra khỏi Massachusetts, trên đường xa lộ liên bang, một chiếc xe chạy ra khỏi chỗ dừng nghỉ ngay trước mặt tôi. Lái xe không trông thấy tôi, và tôi cũng không trông thây anh ta trước khi quá muộn. Tôi cố lượn né, nhưng vẫn đâm mạnh vào phần sau bên trái xe anh ta. Người đàn ông và phụ nữ trên xe có vẻ choáng váng nhưng không hề hấn gì. Tôi cũng không sao, nhưng chiếc Volkswagen Bug xinh xinh mà Jeff Dwire đưa để tôi lái trong mùa hè thì hư hại nặng. Khi cảnh sát tới, tôi gặp rắc rối to. Tôi đã để lạc mất bằng lái khi chuyển từ Anh về nhà và không thể chứng minh tôi lái xe hợp lệ. Hồi đó chưa có hệ thống lưu trữ thông tin vi tính hóa về những thứ như vậy, nên tôi phải chờ đến sáng hôm sau mới được xác minh. Viên sĩ quan bảo rằng ông ấy phải tạm giữ tôi. Lúc chúng tôi đến nơi đã khoảng năm giờ sáng. Họ lấy hết đồ đạc cá nhân và lấy luôn thắt lưng để tôi khỏi treo cổ, cho tôi một tách cà phê, và tông tôi vào một xà lim, trong đó có một cái giường kim loại, một cái mền, toilet thì bốc mùi còn đèn thì cứ sáng mãi. Sau vài giờ ngủ chập chờn, tôi gọi cho Tommy Caplan nhờ giúp. Cậu ấy và Jim Moore đến tòa cùng với tôi và đóng tiền bảo lãnh. Ông thẩm phán thân thiện nhưng khiển trách tôi vì không đem theo bằng lái. Lời trách mắng ấy có kết quả: sau đêm nằm khám ấy, tôi không bao giờ quên bằng lái xe nữa.

Hai tuần sau chuyến đi Massachusetts, tôi quay về Connecticut New England một tuần để làm việc cho Joe Duffey trong cuộc bầu cử sơ bộ tranh ghế trong thượng viện của đảng Dân chủ. Duffey ra ứng cử với tư cách ứng viên ủng hộ hoà bình, được ủng hộ chủ yếu bởi chính những người hai năm trước đã ủng hộ Gene McCarthy Thượng nghị sĩ Dân chủ đương chức là Tom Dodd, một nhân vật lão làng trong chính trị ở Connecticut. Ông từng truy tố bọn Quốc xã ở Tòa án xét xử tội ác chiến tranh Nuremberg và có thành tích hoạt động tiến bộ, nhưng ông gặp hai rắc rối. Thứ nhất, ông từng bị thượng viện khiển trách vì dùng quỹ được quyên cho ông với tư cách dân biểu vào mục đích cá nhân. Thứ hai, ông từng ủng hộ Tổng thống Johnson về vấn đề Việt Nam, và cử tri trong bầu cử sơ bộ đảng Dân chủ thì nhiều khả năng đa phần sẽ chống đối chiến tranh. Dodd đau đớn và giận dữ trước sự khiển trách của thượng viện, và không dễ dàng chịu nhường ghế. Thay vì phải đối đầu với một cử tri đoàn thù địch trong cuộc bầu cử sơ bộ, ông đăng ký tranh cử với tư cách ứng viên độc lập trong cuộc tổng tuyển cử tháng 11. Joe Duffey là giáo sư đạo đức học cho Cơ sở Chủng viện Hartford, và là chủ tịch hội Những người Mỹ cho Hành động Dân chủ có xu hướng tự do. Dù ông là con trai của một thợ mỏ than quê ở tây Virginia, các ủng hộ viên mạnh mẽ nhất của ông lại là những người cấp tiến có học, khá giả và phản chiến ở các khu ngoại ô, cũng như những thanh niên bị cuốn hút bởi thành tích của ông trong vấn đề dân quyền và hoà bình. Đồng chủ tịch chiến dịch tranh cử của ông là Paul Newman, làm việc rất cật lực. ủy ban tài chính của ông ấy có nhiếp ảnh gia Margaret Bourke-White, họa sĩ Alexander Calder, họa sĩ biếm họa của tờ New Yorker Dana Fradon, và một loạt các cây viết và sử gia ưu tú như Francine du Plessix Gray, John Hersey, Arthur Miller, Vance Packard, William Shirer, William Styron, Bar¬bara Tuchman, và Thornton Wilder. Tên của họ nhìn rất ân tượng trong bảng danh sách của chiến dịch, nhưng có lẽ họ sẽ không gây an tượng gì nhiều lắm trong giới cử tri lao động.

Trong khoảng từ 29 tháng 7 đến 5 tháng 8, tôi được giao tổ chức vận động ở Bethel và Trumbull, hai thành phố trong quận Nghị viện thứ năm. Cả hai nơi đều đầy những căn nhà gỗ màu trắng cổ với hàng hiên lớn và có lịch sử từ xưa vẫn còn ghi lại trong các sổ bộ đăng ký tại địa phương. Ở Bethel, chúng tôi dành ngày đầu để đặt điện thoại và tổ chức vận động qua điện thoại, sau đó đích thân đưa tài liệu đến tận nơi cho các cử tri còn đang phân vân. Các tình nguyện viên làm việc ở văn phòng đến tận khuya, và tôi chắc Duffey sẽ đạt được số phiếu tối đa có thể. Trumbull không tổ chức tổng hành dinh hoạt động đầy đủ; các tình nguyên viên gọi điện cho một số cử tri, một số khác thì đến gặp. Tôi khuyên họ nên mở cửa văn phòng vận động từ 10 giờ sáng đến 7 giờ tối, từ thứ hai đến thứ bảy, đồng thời làm theo kiểu vận động ở Bethel để đảm bảo các cử tri có thể vận động được có hai đầu mối liên lạc. Tôi cũng xem xét lại hoạt động ở hai thị trấn khác vốn không trơn tru bằng và đề nghị tổng hành dinh tiểu bang ít nhất cũng phải đảm bảo có đủ danh sách cử tri và đủ chuẩn bị để thực hiện vận động qua điện thoại.

Tôi thích công việc này và gặp nhiều người sau này sẽ đóng vai trò quan trọng trong đời tôi. Trong số có John Podesta, sau này làm việc xuất sắc trong Nhà Trắng với vai trò thư ký nhân sự, phó chánh văn phòng, rồi chánh văn phòng; Susan Thomases, người mà khi tôi ở New York đã cho tôi ngủ trên ghế sofa trong căn hộ ở đại lộ Park mà nay cô ấy vẫn đang ở, và cũng là một trong những bạn thân và cố vấn tin cẩn nhất của tôi và Hillary.

Khi Joe Duffey thắng cuộc bầu cử sơ bộ, tôi được giao điều phối vận động ở quận Nghị viện thứ ba cho cuộc tổng tuyển cử. Thành phố lớn nhất trong khu vực này là New Haven, nơi tôi học luật, và Milford, nơi sau này tôi sẽ chuyển đến ở. Đi làm như vậy nghĩa là tôi phải bỏ học nhiều cho đến khi cuộc bầu cử kết thúc vào đầu tháng 11, nhưng tôi nghĩ mình có thể qua được nhờ mượn tập chép bài và học cật lực vào cuối học kỳ.

Tôi yêu mến New Haven, cái nôi không khí chính trị đa chủng tộc kiểu cũ và các nhà hoạt động sinh viên. Thị trấn East Haven bên cạnh chủ yếu là dân gốc Ý, trong khi thị trấn Orange gần đó lại đa phần là dân gốc Ireland. Các thị trấn cách xa New Haven có vẻ giàu có hơn với lằn ranh chủng tộc cũng không rõ rệt bằng. Hai thị trấn ở rìa phía đông của quận là Guilford và Madison đặc biệt đẹp và cổ kính. Tôi dành nhiều thời gian lái xe đến các thị trấn trong khu vực, đảm bảo sao cho người của chúng tôi có kế hoạch vận động tốt và nhận được đầy đủ hỗ trợ cũng như các tài liệu từ tổng hành dinh trung tâm. Chiếc Volkswagen của tôi bị hư trong vụ đụng xe ở Massachusetts, nên tôi lái chiếc Opel màu rỉ sắt, dù sao cũng phù hợp hơn để chuyên chở tài liệu vận động. Tôi rong ruổi khá nhiều với chiếc xe đó.

Vào những lúc công việc vận động cho phép, tôi đi học các lớp về luật hiến pháp, hợp đồng, nguyên tắc và vi phạm dân sự. Lớp học thú vị nhất là Luật hiến pháp của thầy Robert Bork, người sau này được chỉ định làm việc cho Tòa phúc thẩm quận Columbia, và năm 1987 được Tổng thống Reagan đề cử vào Tòa án tối cao. Thầy Bork cực kỳ bảo thủ trong triết lý luật pháp, hăng hái bảo vệ quan điểm của mình nhưng vẫn công bằng với những sinh viên nào bất đồng quan điểm. Trong một lần trao đổi đáng nhớ của tôi với thầy, tôi chỉ ra rằng lập luận của thầy về vấn đề đang được thảo luận là vòng tròn. Thầy đáp: "Tất nhiên rồi. Mọi luận điểm hay đều thế cả".

Sau cuộc bầu cử sơ bộ, tôi cố hết sức để chiêu dụ các ủng hộ viên của các ứng viên khác về cho chiến dịch của Duffey, nhưng thật khó. Tôi thường trà trộn vào các khu vực dân lao động đa chủng tộc và cố lên tiếng thuyết phục, nhưng có thể thấy rõ là tôi đang húc đầu vào đá. Quá nhiều người da trắng thuộc phe Dân chủ cho rằng Joe Duffey, người mà Phó tổng thống Agnew từng gọi là "tên xét lại Mác xít", quá cực đoan, quá gần gũi với đám hippy nghiện hút, phản chiến. Nhiều người Dân chủ cũng quay lại chống chiến tranh, nhưng họ lại không thấy thoải mái đồng hành với những người chống chiến tranh trước họ. Chiến dịch giành sự ủng hộ của họ càng phức tạp khi Thượng nghị sĩ Dodd ra tranh cử như ứng viên độc lập, nên những người phe Dân chủ bất mãn vẫn còn nơi để dồn sự ủng hộ. Joe Duffey tổ chức chiến dịch khá tốt, tập trung tâm lực và truyền cảm hứng cho thanh niên trên khắp nước, nhưng ông thất bại dưới tay ứng viên Cộng hòa, Hạ nghị sĩ Lowell Weicker, một tay chơi sau này rời đảng Cộng hòa và làm thống đốc Connecticut với tư cách nhân vật độc lập. Weicker đạt chưa đầy 42% số phiếu, đủ để đánh bại Duffey. Duffey được dưới 34%, còn Thượng nghị sĩ Dodd được gần 25%. Chúng tôi bị thua trong các thành phố mang tính thuần chủng tộc như East Haven và West Haven.

Tôi không biết nếu Dodd không ra tái cử thì Duffey liệu có thắng nổi không, nhưng tôi chắc chắn là đảng Dân chủ sẽ dần biến thành phe thiểu số nếu chúng tôi không tìm cách chiếm lại những cử tri đã bỏ phiếu cho Dodd. Sau cuộc bầu cử tôi nói chuyện ấy hàng giờ với Anne Wexler, người thực hiện xuất sắc vai trò quản lý chiến dịch vận động. Bà ấy là một chính khách tuyệt vời và quan hệ tốt với nhiều loại người, nhưng vào năm 1970 phần lớn cử tri không quan tâm đến thông điệp cũng không để ý nhiều đến người mang thông điệp. Anne trở thành một người bạn và cố vấn tốt cho tôi trong nhiều năm về sau. Sau khi bà ấy và Joe Duffey lấy nhau, tôi vẫn giữ liên lạc với họ. Khi tôi vào Nhà Trắng, tôi chỉ định ông ấy điều hành Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, quản lý Đài tiếng nói Hoa Kỳ - nơi ông mang thông điệp của nước Mỹ đến một thế giới sẵn lòng đón nhận ông hơn là cử tri đoàn Connecticut vào năm 1970. Tôi nghĩ về nó như chiến dịch cuối cùng của Joe, và lần này ông đã chiến thắng.

Điểm sáng nhất vào tháng 11 năm 1970, việc một thống đốc Dân chủ trẻ tuổi trúng cử ở Arkansas, đó là Dale Bumpers. Ông ấy dễ dàng đánh bại cựu thống đốc Faubus trong cuộc bầu cử sơ bộ và thắng lớn trước Thống đốc Rockefeller trong cuộc tổng tuyển cử. Bumpers là cựu thủy quân lục chiến và là một luật sư tại tòa xuất sắc. Ông ấy hài hước và có thể nói cho kiến bò ra khỏi lỗ. Ông còn là một người tiến bộ chân chính từng dẫn dắt thị trấn quê nhà Charleston ở miền tây bảo thủ của Arkansas trong tiến trình mở cửa trường cho học sinh đa chủng tộc một cách êm ái, ngược hoàn toàn với sự hỗn độn ở Little Rock. Hai năm sau ông tái cử với chênh lệch lớn, và hai năm sau nữa ông trở thành một trong hai thượng nghị sĩ của tiểu bang chúng tôi. Bumpers chứng tỏ rằng quyền năng của người lãnh đạo nhằm nâng đỡ và đoàn kết dân chúng cho sự nghiệp chung có thể vượt qua những chia rẽ chính trị cổ lỗ của miền Nam. Đó là điều tôi muốn làm. Tôi đã không nề hà ủng hộ những ứng viên hầu như cầm chắc thất bại khi chúng tôi đấu tranh cho dân quyền hoặc chống chiến tranh. Nhưng không sớm thì muộn, muộn thay đổi được sự việc thì ta phải chiến thắng. Tôi đến học ở trường Luật Yale để hiểu thêm về chính sách. Và trong trường hợp những hoài bão chính trị của tôi không thành, tôi muốn có một nghề nghiệp mà không bao giờ bị buộc phải về hưu.

Sau cuộc bầu cử, tôi quay về yên ổn với cuộc sống ở trường luật, gạo bài để thi cử, quen biết với vài bạn bè sinh viên khác, vui vầy với căn nhà và ba người bạn cùng nhà. Doug Eakeley, bạn học bổng Rhodes của tôi ở Univ, tìm được một căn nhà xưa tuyệt hảo tại Long Island Sound ở Milford. Căn nhà này có bốn phòng ngủ, một cái bếp khá rộng rãi, và một hàng hiên có mái che lớn mở ngay ra bãi biển. Bãi biển thật hoàn hảo cho các bữa nấu ăn ngoài trời, và khi triều rút, chúng tôi có đủ chỗ để chơi bóng đá. Nhược điểm duy nhất của căn nhà là nó là nhà nghỉ hè, không có bao bọc chống lại gió buốt mùa đông. Nhưng chúng tôi còn trẻ và cũng quen được với chuyện đó. Tôi vẫn còn nhớ rõ một ngày mùa đông sau bầu cử tôi quấn chăn ngồi ở hiên và đọc cuốn The Sound and the Fury - Âm thanh và cuồng nộ của William Faulknér.

Những người bạn cùng nhà tại số 889 East Broadway còn lại là Don Pogue và Bill Coleman. Don thì cánh tả hơn bọn chúng tôi, nhưng anh ấy trông có vẻ dân lao động hơn. Tướng anh ấy chắc như một tảng bê tông và khỏe như trâu. Anh ấy đi môtô đến trường luật, nơi anh ấy sẵn sàng tiếp chuyện bất kỳ ai trong những buổi tranh luận chính trị bất tận. May cho chúng tôi, anh ấy nấu ăn cũng ngon và thường cư xử tử tế, nhờ công cô bạn gái người Anh là Susan Bucknell cũng quyết liệt như anh ấy nhưng biết điều hơn. Bill là một trong số sinh viên da đen ngày càng nhiều học ở Yale. Cha anh ấy là một luật sư Cộng hòa cấp tiến - hồi đấy vẫn có những người như vậy - từng làm việc cho Thẩm phán Felix Frankfurter ở Tòa án tối cao và từng làm bộ trưởng giao thông dưới thời Tổng thống Ford. Bề ngoài mà nói, Bill là người thâm trầm nhất trong nhóm chúng tôi.

Ngoài các bạn cùng phòng, tôi chỉ biết thêm ít bạn sinh viên khác khi tôi về học ở Yale sau chiến dịch tranh cử của Duffey, trong đó có bạn từ hồi đại hội Boys Nation quê ở Louisiana là Fred Kammer, và Bob Reich. Vì anh ấy là bí thư trong khóa học bổng Rhodes của chúng tôi nên anh giữ liên lạc với mọi người và thường xuyên cung cấp thông tin cũng như những tin thất thiệt đầy hài hước về đường đời của chúng tôi.

Bob sống trong một căn nhà gần cơ sở trường cùng với ba sinh viên khác, một trong số này - Nancy Bekavac - trở thành một người bạn đặc biệt của tôi. Cô ấy là một người cấp tiến nhiệt thành, và những cảm xúc phản chiến của cô ấy được khẳng định vào mùa hè trước khi cô sang làm phóng viên ở Việt Nam. Cô làm thơ hay, viết những lá thư đầy cảm xúc và chép bài rất đầy đủ, và cô cho tôi sử dụng chúng khi tôi nhập học trễ mất hai tháng.

Qua Bill Coleman, tôi được gặp một số sinh viên da đen. Tôi muốn biết họ đến học ở Yale như thế nào, và họ dự định làm gì với một cơ hội mà hồi đó được coi là khác thường đối với người Mỹ gốc Phi. Ngoài Bill, tôi kết bạn với Eric Clay quê ở Detroit, người sau này tôi bổ nhiệm vào Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ; Nancy Gist, bạn cùng lớp ở Wellesley với Hillary và làm việc trong Bộ Tư pháp khi tôi làm tổng thống; Rufus Cormier, một người đàn ông to lớn, trầm lặng và là ngôi sao trong đội bóng Đại học Giám lý miền Nam; và Lani Guinier, người tôi cố bổ nhiệm làm trự lý Bộ trưởng tư pháp phụ trách dân quyền, một câu chuyện buồn tôi sẽ kể chi tiết sau. Thẩm phán Tòa án tối cao Clarence Thomas cũng học cùng lớp tôi, nhưng tôi không thân quen với ông ấy.

Gần cuối học kỳ, chúng tôi nghe tin Frank Aller quyết định trở lại nước Mỹ. Cậu ấy chuyển về lại khu vực Boston và về nhà ở Spokane để đối diện với quân dịch. Cậu ấy bị bắt giữ, bị truy tố và được tạm tha để chờ xét xử. Frank đã quyết định dù việc chống quân dịch của cậu ấy tạo ra tác động như thế nào đi nữa thì cậu ấy cũng không muốn sống nốt phần đời còn lại bên ngoài nước Mỹ để rồi bước vào tuổi trung niên già cỗi, lạnh lùng trong một trường đại học nào đó ở Canada hay Anh và cuộc đời mãi mãi bị cuộc chiến Việt Nam định đoạt. Một đêm tháng 12, Bob Reich nói rằng Frank về để chịu tù đày thật là ngớ ngẩn khi có biết bao điều cậu ấy có thể làm bên ngoài nước Mỹ. Nhật ký của tôi ghi lại câu trả lời của mình: "Một con người không chỉ là tổng hòa của những gì anh ta có thể làm gộp lại". Quyết định của Frank đã khẳng định anh ấy là ai chứ không phải chuyện anh ấy có thể làm được gì. Tôi nghĩ đó là quyết định đúng. Không lâu sau khi anh ấy quay về, Frank đi khám tâm lý, viên bác sĩ cho rằng anh bị trầm cảm và không phù hợp đi quân dịch. Anh ấy đi khám sức khỏe quân dịch, và cũng như Strobe, được xếp loại 1-Y, tức là chỉ bị động viên trong trường hợp khẩn cấp toàn quốc.

Vào giáng sinh, tôi về nhà ở Hot Springs, rất xa vịnh Helsinki - nơi giáng sinh trước tôi đi bộ trên băng. Lần này tôi đi trong sân trường tiểu học cũ của mình, điểm lại những điều may mắn và thay đổi trong cuộc đời mình. Nhiều bạn thân của tôi bắt đầu lấy vợ lấy chồng. Tôi chúc họ tốt lành và tự hỏi không biết có bao giờ tôi lập gia đình hay không.

Tôi cũng nghĩ nhiều về quá khứ và cội nguồn của mình. Vào ngày năm mới, tôi đọc xong cuốn The Burden of Southern History - Gánh nặng của Lịch sử miền Nam của c. Vann Woodward, trong đó ông ghi lại "sự ý thức lịch sử riêng biệt" của người miền Nam, cái mà Eudora Welty gọi là "ý thức về nơi chốn". Arkansas là nơi chốn của tôi. Không giống như Thomas Wolfe, tôi rất hâm mộ văn chương của ông, tôi biết tôi có thể về nhà một lần nữa. Thực ra, tôi phải về nhà. Nhưng trước tiên, tôi phải học xong trường luật đã.

Tôi hoàn thành học kỳ hai của mình ở trường Yale như một sinh viên ngoan ngoãn với chương trình học nặng nề nhất trong thời gian tôi ở đây. Giáo sư Luật kinh doanh của tôi là John Baker, thành viên da đen đầu tiên trong ban giáo sư của trường luật Yale. Ong rât tôt với tôi, giao cho tôi một số việc nghiên cứu để giúp tôi kiếm thêm, và mời tôi đến nhà ăn tối. Thầy John và vợ ông từng học Đại học Fisk, trường cho người da đen ở Nashville, Tennessee đâu thập niên 60, khi phong trào dân quyền nở rộ nhất. Thầy kể tôi nghe nhiều chuyện kỳ thú về nỗi lo sợ họ phải chung sống với niêm vui sướng thầy và các bạn cùng lớp của thầy có được khi làm việc cho phong trào.

Tôi học môn Luật hiến pháp với thầy Charles Reich. Bob Bork bảo thủ chừng nào thì Charles lại cấp tiến chừng ấy. Thầy là tác giả của một trong những cuốn sách "phản văn hóa" về thời thập niên 60, cuốn The Greening of American - Nước Mỹ hóa xanh. Giáo sư Luật hình sự của tôi, Steve Duke, là một người khắc nghiệt và tinh quái nhưng là một thầy giáo giỏi, sau này tôi có làm luận văn với thầy về tội phạm cổ cồn trắng. Tôi thực sự thích thú môn Quyền chính trị và dân sự của thầy Tom Emerson, một người bé nhỏ bảnh bao từng làm việc dưới thời Franklin Roosevelt và sách của thầy được dùng làm sách giáo khoa cho bọn tôi. Tôi cũng học môn Luật quốc gia và Triết học của Giáo sư William Leon McBride, làm một số công việc dịch vụ pháp lý và kiếm được một công việc bán thời gian. Trong vài tháng, tôi lái xe đến Hartford bốn lần một tuần để phụ Dick Suisman, một doanh nhân phe Dân chủ tôi gặp trong cuộc vận động cho Duffey, trong công việc của ông ấy với tư cách ủy viên thành phố. Dick biết tôi cần việc làm, và tôi nghĩ chắc mình cũng giúp được ông phần nào.

Cuối tháng 2, tôi bay đến California vài ngày chơi với Frank Aller, Strobe Talbott, và bạn gái của Strobe là Brooke Shearer. Chúng tôi gặp nhau ở Los Angeles tại nhà của ba mẹ Brooke, ông bà Marva và Lloyd Shearer - những người cực kỳ niềm nở và rộng rãi. Trong nhiều năm, hai ông bà viết cho mục tin bên lề về người nổi tiếng được đọc nhiều nhất ở Mỹ, mục "Nhân vật của Walter Scott". Sau đó vào tháng 3 tôi lên Boston, nơi Frank sống và đang tìm việc làm nhà báo, để- gặp lại anh ấy và Strobe. Chúng tôi đi dạo trong rừng sau nhà Frank và dọc bờ biển New Hampshire gần bên. Frank có vẻ mừng vì đã về nhà, nhưng vẫn buồn. Dù anh ấy đã thoát quân dịch và tù tội, có vẻ như anh vẫn bị trầm cảm, giống như tình trạng mà Turgenev gọi là "chỉ người rất trẻ mới biết và chẳng có lý do gì rõ rệt". Tôi nghĩ anh ấy rồi sẽ vượt qua được.

Mùa xuân, như mọi khi, làm tinh thần tôi phấn chấn lên. Tin tức chính trị thì tốt xấu lẫn lộn. Tòa án tối cao đồng lòng giữ lại quy định dùng xe buýt chở học sinh đi học đến các trường nhằm duy trì sự cân bằng về chủng tộc trong thành phần học sinh. Người Trung Quốc đã đáp lại việc đội bóng bàn Mỹ qua Trung Quốc thi đấu bằng cách chấp nhận lời mời của Mỹ gửi đội bóng bàn của họ đến Mỹ. Và các cuộc phản đôi chiến tranh vẫn tiếp diễn. Thượng nghị sĩ McGovern đến New Haven ngày 16 tháng 5, chỉ với ý định tranh cử tổng thống năm 1972. Tôi thích ông và nghĩ rằng ông có cơ hội thắng cử, nhờ vào thành tích anh hùng khi làm phi công ném bom trong Thế chiến hai, tài lãnh đạo chương trình Lương thực cho Hòa bình dưới thời Kennedy, và nhờ vào những quy định mới trong việc lưa chọn đại biểu cho kỳ đại hội dân chủ tới. McGovern đứng đầu một ủy ban soạn thảo ra những quy định đó, với mục đích đảm bảo một đại hội đa dạng hơn về chủng tộc, giới tính và lứa tuổi. Những quy định mới này, cộng thêm sức nặng của những người cấp tiến phản chiến trong các kỳ sơ bộ, hầu như chắc chắn đảm bảo rằng những ông chủ chính trị cũ sẽ có ít ảnh hưởng hơn và những người hoạt động trong đảng có nhiều ảnh hưởng hơn trong quá trình đề cử năm 1972. Rick Stearns cũng làm việc cho ủy ban này, và tôi chắc chắn anh ấy đủ cứng rắn và khôn ngoan để đưa ra một hệ thống có lợi cho McGovern.

Trong khi tình hình chính trị và học hành ở trường luật đều suôn sẻ, đời sống riêng của tôi thì lại lộn xộn. Tôi chia tay với một cô gái trẻ, cô ta về quê cưới người yêu cũ. Tiếp đó tôi lại phải đau đớn chia tay với một sinh viên luật tôi rất thích nhưng chưa thể gắn bó. Tôi vừa mới sắp thoải mái khi còn một thân một mình và quyết sẽ không cặp kè với ai một thời gian. Thế rồi một hôm, khi tôi đang ngồi ở dãy sau trong lớp của giáo sư Emerson môn Quyền chính trị và dân sự thì tôi phát hiện ra một phụ nữ tôi chưa hề thấy trước đó. Rõ là cô ấy đi học còn ít hơn tôi. Tóc cô ấy dày, vàng sẫm, đeo kính mắt và không trang điểm, nhưng cô ấy toát ra một sức mạnh và sự tự chủ mà tôi hiếm khi thấy ai có, dù là nam hay nữ. Hết giờ học tôi theo cô ấy ra ngoài, định tự giới thiệu. Khi tôi còn cách cô ấy vài bước, tôi đưa tay ra để chạm vào vai cô ấy, nhưng lập tức đột ngột rụt tay lại. Đó là một phản ứng gần như vật lý. Một cách nào đó, tôi biêt rằng đây không phải chỉ là cú vỗ vai bình thường, rằng tôi có thê bắt đầu cho một điều mà tôi sẽ không thể dừng lại được.

Tôi thấy cô gái ấy vài lần trong vài ngày kế tiếp, nhưng không tiếp cận cô ấy. Rồi một tối nọ tôi đứng ở thư viện trường Luật Yale dài và hẹp, nói chuyên với một sinh viên khác, Jeff Gleckel, về khả năng đi làm cho tờ Yale Law Journal. Jeff khuyên tôi nên làm, bảo rằng như thế sẽ đảm bảo cho tôi cơ hội làm văn phòng cho một thẩm phán liên bang hoặc kiếm được việc làm với một công ty luật danh giá nào đó. Anh ấy có lý, nhưng tôi không quan tâm; tôi định về quê nhà ở Arkansas, và lúc ấy tôi thích chính trị hơn là làm cho tờ báo luật kia. Được một lúc tôi bỗng nhiên ngừng chú ý đến hảo ý của anh ấy vì tôi nhìn thấy cô gái ấy, đang đứng ở đầu kia của căn phòng- Cô ấy cũng đang tôi nhìn chằm chằm. Một lúc sau thì cô ấy gấp sách lại, đi dọc thư viện, nhìn vào mắt tôi và nói: "Nếu anh cứ tiếp tục nhìn tôi và tôi tiếp tục nhìn anh, ít ra chúng ta cũng nên biết tên nhau. Tên tôi là Hillary Rodham. Tên anh là gì?". Tất nhiên Hillary nhớ tất cả việc này, nhưng chi tiết lời nói có hơi khác một chút. Tôi bị ấn tượng và choáng váng đến mức không thốt nên lời trong vài giây. Cuối cùng tôi cũng xưng tên. Chúng tôi trao đổi vài lời, và cô ấy đi khỏi. Tôi chẳng rõ cậu Jeff Gleckel tội nghiệp nghĩ chuỵện gì đang diễn ra, nhưng cậu ấy không bao giờ nói chuyện với tôi về việc đi làm cho tờ báo nữa.

Vài ngày sau, tôi đang đi cầu thang xuống tầng trệt của trường thì gặp lại Hillary. Cô ấy mặc một chiếc váy hoa màu sáng dài gần chấm đất. Tôi quyết phải dành thời gian cùng với cô ấy. Cô ấy bảo đang đi đăng ký môn học cho học kỳ tới, nên tôi bảo tôi cũng đi. Chúng tôi xếp hàng và nói chuyên. Tôi nghĩ chắc mình làm ăn cũng không đến nỗi nào cho tới khi đến lượt chúng tôi. Người đăng ký ngó lên tôi và nói, "Này Bill, cậu quay lại đây làm gì? Sáng nay cậu đăng ký rồi mà". Mặt tôi đỏ lựng, còn Hillary thì cười lớn theo kiểu đặc trưng của cô ấy. Thế là tôi bị lộ tẩy, nên tôi mời cô ấy đi bộ với tôi đến Phòng Trưng bày Nghệ thuật Yale để xem triển lãm của Mark Rothko. Tôi hăm hở và run đến mức quên mất rằng nhân viên của trường đang đình công và bảo tàng đang đóng cửa, May thay vẫn còn một ông bảo vệ trực. Tôi trình bày tình cảnh và đề nghị được dọn cành khô và các thứ rác rưởi khác trong vườn của bảo tàng nếu ông ấy cho tôi vào.

Ông bảo vệ nhìn chúng tôi, hiểu ra ngay và cho chúng tôi vào. Thế là chỉ có mình chúng tôi với cả triển lãm. Thật tuyệt vời, và từ đó trở đi tôi mê Rothko. Khi xem xong, chúng tôi ra vườn và tôi dọn dẹp. Có lẽ đó là lần đầu tiên và duy nhât tôi làm người từ chối đình công trong đời, nhưng công đoàn không có người đứng cản công nhân viên đi làm ở bên ngoài bảo tàng. Hơn nữa, lúc ấy tâm trí tôi chẳng để ý gì đến chính trị nữa. Sau khi dọn dẹp xong, tôi và Hillary còn nán lại trong vườn thêm khoảng một tiếng. Trong vườn có một bức tượng lớn hình một phụ nữ ngồi do Henry Moore tạc. Hillary ngồi trong lòng của bà ấy, còn tôi ngồi cạnh cô ấy và nói chuyện. Chẳng bao lâu sau, tôi nghiêng qua và dựa đầu vào vai cô ấy. Đó là lần hẹn hò đầu tiên của chúng tôi.

Chúng tôi ở bên nhau nhiều ngày tiếp theo, chỉ đi chơi lòng vòng, nói đủ thứ chuyên trên đời. Cuối tuần tiếp đó Hillary lên Vermont trong một chuyến đi đã được lên kế hoạch từ lâu để thăm người mà cô ấy hẹn hò cho tới lúc đó. Tôi lo lắng lắm. Tôi không muốn mất cô ấy. Khi cô ấy quay về vào khuya chủ nhật, tôi gọi cho cô ấy. Cô ấy bệnh rũ rượi, nên tôi mang cho cô ấy ít súp gà và nước cam. Từ đó trở đi chúng tôi không thể rời nhau được nữa. Cô ấy đến chơi nhiều ở nhà chúng tôi trên bờ biển và nhanh chóng chiếm được cảm tình của Doug, Don và Bill.

Với mẹ tôi thì cô ấy không được như thế khi bà đến thăm vài tuần sau đó, một phần vì cô ấy cố gắng tự cắt tóc ngay trước khi mẹ tới. Trông cô ấy giống một tay chơi punk rock hơn là một người vừa bước ra từ thẩm mỹ viện của Jeff Dwire. Không trang điểm, mặc áo sơmi công nhân và quần jean, chân không giày lại còn dính nhựa đường vì đi bộ trên bờ biển ở Milford, trông cô ấy như người ngoài hành tinh vậy. Mẹ tôi cũng xốn xang về việc tôi tỏ ra nghiêm túc với Hillary. Trong cuốn sách của mình, mẹ gọi Hillary là "một trải nghiệm trưởng thành". Cô ấy là một cô gái "không trang điểm, đeo kính đít chai, tóc nâu không ra kiểu cọ gì cả", đối lại với một phụ nữ tô son màu hồng chói, kẻ mắt, và tóc có một lọn bạc. Tôi thật phấn khích khi nhìn hai người tìm hiểu nhau. Dần dà họ cũng hiểu ra, mẹ băt đầu bớt chú ý đến bề ngoài của Hillary còn Hillary cũng chăm chút bề ngoài hơn. Dưới những phong cách khác nhau ấy, họ đều là những phụ nữ thông minh, mạnh mẽ và đầy đam mê. Khi họ liên kết lại với nhau, tôi chỉ có chào thua.

Đến giữa tháng 5, tôi muốn lúc nào cũng ở bên Hillary. Kết quả ta tôi gặp nhiều bạn bè cô ấy, trong đó có Susan Graber, bạn học trường Wellesley mà sau này tôi bổ nhiệm làm thẩm phán liên bang ở Oregon; Carolyn Ellis, một phụ nữ gốc Libăng sáng láng, hài hước quê ở Mississippi, chất miền Nam còn nhiều hơn tôi, và hiện nay đang làm hiệu trưởng Đại học Mississippi; và Neil Steinman, người sáng láng nhất tôi từng gặp ở Yale, sau này gây những đồng tiền quỹ đầu tiên cho tôi ở Pennsylvania vào năm 1992.

Tôi được biết thêm về thời thơ ấu của Hillary ở Park Ridge, Illinois; bốn năm cô ấy học ở Wellesley nơi cô ấy chuyển thái độ chính trị từ Cộng hòa sang Dân chủ vì vấn đề dân quyền và cuộc chiến tranh; chuyến đi sau khi tốt nghiệp của cô ấy tới Alaska và kiếm sống bằng nghề ướp cá; và những quan tâm của cô ấy về dịch vụ pháp lý cho người nghèo và về các vấn đề của trẻ em. Tôi còn biết thêm về bài phát biểu nổi tiếng của cô ấy ở trường Wellesley, trong đó cô hùng biện về mâu thuẫn của thế hệ chúng tôi, vừa cảm thấy xa lạ với hệ thống chính trị nhưng vẫn mong muốn làm cho nước Mỹ tốt đẹp hơn. Bài phát biểu đó được toàn quốc chú ý nhiều và là lần đầu tiên cô ấy chạm đến sự nổi tiếng ngoài môi trường trực tiếp của mình. Điều tôi thích trong thái độ chính trị của cô ây là, cũng giống như tôi, cô ấy vừa lý tưởng lại vừa thực tế. Cô ấy muốn thay đổi sự việc, và biết rằng muốn làm được như vậy đòi hỏi phải có nỗ lực liên tục. Giống như tôi, cô ấy chán ngấy chuyện cứ bị thua cuộc và cứ coi thất bại là bằng chứng của sự cao đạo. Hillary là một nhân vật tuyệt vời ở trường luật, một con cá lớn trong cái ao nhỏ nhưng đầy tính cạnh tranh của chúng tôi. Tôi thì là một nhân vật trôi nổi hơn, chạy ra chạy vào.

Nhiều sinh viên mà chúng tôi quen nói đến Hillary như thể họ hơi e sợ cô ấy. Tôi thì không. Tôi chỉ muốn được ở bên cô ấy. Nhưng chúng tôi không còn nhiều thời gian. Hillary đã chấp nhận một việc làm trong mùa hè ở Công ty luật Treuhaft, Walker và Burnstein có trụ sở tại Oakland, California, còn tôi được mời làm điều phối viên các bang miền nam cho Thượng nghị sĩ McGovern. Cho đến trước khi gặp Hillary, tôi rất mong được làm việc này. Tôi dự kiến sẽ đóng tại Miami, và công việc đòi hỏi phải đi lại khắp miền Nam để lo liệu chiến dịch tranh cử. Tôi biết tôi sẽ làm tốt việc ấy, và dù tôi không cho là McGovern sẽ thành công gì nhiều trong kỳ tổng tuyển cử ở miền Nam, tôi tin rằng ông ấy có thể kiếm được một số kha khá các đại biểu đi dự đại hội trong mùa bầu cử sơ bộ. Dù gì đi nữa tôi cũng sẽ có thêm rất nhiều kinh nghiêm chính trị. Đó là một cơ hội hiếm hoi đối với một người 20 tuổi, cơ hội mà tôi có được nhờ là bạn của Rick Steams, người có vai trò quan trọng trong chiến dịch vận động, và nhờ vào thuyết hành động khẳng định: đằng nào họ cũng phải có ít nhất một người miền Nam ở vị trí có trách nhiệm chứ!

Vấn đề là ở chỗ tôi không muốn nhận việc ấy nữa. Tôi biết nếu đi Florida thì tôi và Hillary có thể sẽ mất nhau. Dù tôi thấy viễn cảnh vận động tranh cử là lý thú, tôi sợ rằng, như từng viết trong nhật ký, đó sẽ chỉ là một cách "chính thức hóa tình trạng cô độc của mình", cho phép tôi cư xử với mọi người vì sự nghiệp chính đáng nhưng ở một khoảng cách. Với Hillary thì không có khoảng cách nào cả. Cô ấy ở sát bên tôi ngay từ đầu, và, trước khi tôi kịp nhận ra, cô ấy đã ngự trị trong trái tim tôi.

Tôi lấy hết dũng khí và hỏi Hillary xem tôi có thể ở cùng với cô ấy trong mùa hè ở California được không. Lúc đầu cô ấy còn hoài nghi, vì cô ấy biết tôi ham mê chính trị và có thái độ mạnh mẽ như thế nào về chiến tranh. Tôi bảo cô ấy tôi còn cả đời để làm việc và tham vọng, nhưng tôi yêu cô ấy và muôn thử xem chuyện giữa chúng tôi có đi đến đâu không. Cô ấy hít một hơi dài và đồng ý cho tôi đưa cô ấy đến California. Lúc ấy chúng tôi mới quen nhau được chừng một tháng.

Chúng tôi dừng chân ở Park Ridge để gặp gia đình cô ấy. Bà Dorothy mẹ cô ấy là một phụ nữ đáng yêu, cuốn hút, và tôi hòa đồng ngay với bà ấy, nhưng tôi cảm thấy xa lạ với cha Hillary y như cô ấy xa lạ với mẹ tôi vậy. Hugh Rodham là một người theo phe Cộng hòa, ăn nói cứng rắn và cộc cằn, và nói một cách nhẹ nhàng nhất thì ông nghi ngờ tôi. Nhưng càng nói chuyện với nhau nhiều tôi lại càng thích ông hơn. Tôi quyết định sẽ tiếp tục cố gắng chờ đến đúng thời điểm. Sau đó chúng tôi lái xe đến Berkeley, California, gần nơi cô ấy làm việc ở Oakland. Cô ấy sẽ sống trong một căn nhà nhỏ mà chị kế của mẹ cô ấy, bà Adeline, làm chủ. Một vài ngày sau tôi lái xe xuyên đất nước về Washington để báo với Rick Stearns và quản lý chiến dịch của Thượng nghị sĩ McGovern là Gary Hart rằng tôi không thể đi Florida được. Gary tưởng tôi đã mất trí khi bỏ lỡ một cơ hội như vậy. Chắc Rick cũng nghĩ thế. Đối với họ, có vẻ như tôi là một thằng ngốc, nhưng cuộc đời ta được định hình bởi những cơ hội bạn bỏ qua cũng như những cơ hội bạn nắm bắt được.

Thực sự tôi cũng buồn vì phải rời cuộc vận động tranh cử, và tôi xin được đi Connecticut vài tuần để làm công tác tổ chức tại đó. Khi đăng ký nhân sự cho tất cả các quận nghị viện, tôi quay về California, lần này theo đường phía nam để có thể ghé thăm nhà.

Tôi tận hưởng chuyên lái xe sang phía tây này, trong đó có ghé thăm Grand Canyon (Hẻm núi lớn). Tôi đến nơi lúc chiều muộn và bò ra một tảng đá nhô ra bên rìa của hẻm núi để ngắm mặt trời lặn. Cảnh tượng các tảng đá bị ép chặt vào theo những hình thù kỳ lạ qua hàng triệu năm đổi màu khi hẻm núi tối dần từ dưới đáy lên thật kỳ diệu.

Rời hẻm núi, tôi lái xe qua Thung lũng Tử thần, điểm nóng nhất nước Mỹ, rồi quẹo lên hướng bắc để đến với Hillary. Khi tôi bước vào nhà của cô ấy ở Berkeley, cô. ấy chào đón tôi với bánh đào - thứ tôi khoái nhất - mà cô tự nướng. Bánh ngon, nên chẳng bao lâu đã hết sạch. Ban ngày, cô ấy đi làm còn tôi đi lòng vòng khắp thành phố, đọc sách trong công viên và các quán cà phê, khám phá San Francisco. Buổi tối chúng tôi đi xem phim hoặc ăn nhà hàng, hoặc chỉ ở nhà nói chuyện. Ngày 24 tháng 6, chúng tôi lái xe xuống Stanford để nghe Joan Baez hát ở khán phòng di động ngoài trời. Để tất cả các fan của mình có thể đến được, Joan Baez chỉ tính tiền vé 2 đô 50, ngược hẳn với giá vé của các cuộc biểu diễn lớn thời nay. Baez hát những bài nổi tiếng cũ của mình, và một trong những lần đầu tiên trước công chúng, Baez hát bài "The Night They Drove Old Dixie Down" (Cái đêm họ hạ bệ miền Nam cũ).

Hết mùa hè, Hillary và tôi vẫn chưa hết chuyện để nói với nhau, nên chúng tôi quyết định về New Haven sống chung với nhau, một quyết định làm cả hai bên gia đình lo ngại. Chúng tôi tìm được một căn hộ ở tầng trệt của một căn nhà cũ tại sô 21 đại lộ Edgewood, gần trường Luật.

Cửa chính của căn hộ này mở vào một phòng khách bé xíu, đằng sau là một khu vực ăn nhỏ hơn và một phòng ngủ còn nhỏ hơn nữa. Sau phòng ngủ là một phòng bếp cũ và một phòng tắm nhỏ tới độ thỉnh thoảng nắp bàn cầu lại quẹt vào bồn tắm. Căn nhà cũ đến mức sàn nhà lún theo chiều từ chân tường vào giữa phòng đến mức tôi phải lấy mấy mẩu gỗ chặn bên trong chân bàn ăn nhỏ của chúng tôi. Nhưng giá cả thì phù hợp với những sinh viên luật túng thiếu: 75 đôla một tháng. Chỗ hay nhất của căn hộ ấy là cái lò sưởi trong phòng khách. Tôi vẫn còn nhớ mình ngồi trước đống lửa vào một ngày đông lạnh giá và cùng Hillary đọc tiểu sử Napoleon do Vincent Cronin viết.

Chúng tôi hạnh phúc bên nhau và nghèo đến mức chỉ còn biết tự hào về căn nhà mới của mình. Chúng tôi thích mời bạn bè đến ăn. Trong số khách ưa thích có Rufus và Yvonne Cormier. Họ là con của những mục sư gốc Phi ở Beaumont, Texas, lớn lên ở cùng một khu vực và ở bên nhau nhiều năm trước khi cưới. Rufus học luật, còn Yvonne học tiến sĩ ngành hóa sinh. Sau này cô ấy thành tiến sĩ còn anh ấy trở thành luật sư hợp danh (có góp vốn và làm chủ sở hữu một phần công ty - ND) da đen đầu tiên của công ty luật lớn ở Houston là Baker and Botts. Một lần trong bữa ăn tối, Rufus - một trong những sinh viên giỏi nhất lớp chúng tôi - than vãn về việc phải học hành quá nhiều. "Mấy người biết không", anh ấy nói với giọng trầm trầm, "cuộc sống này bị tổ chức một cách ngược đời. Ta dành những năm tháng tốt đẹp nhất để học và đi làm. Khi ta nghỉ hưu năm 65 tuổi thì đã quá già và không còn hưởng thụ gì được cuộc sống nữa. Người ta nên nghỉ hưu từ năm 21 đến 35 tuổi, sau đó làm việc cật lực cho đến khi chết". Tất nhiên, như thế không được. Chúng ta vẫn cứ đến 65 tuổi mới về hưu.

Tôi tập trung thực sự vào học kỳ thứ ba ở trường, với các môn Tài chính doanh nghiệp, Tố tụng hình sự, Thuế, Bất động sản, và một khóa hội thảo về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Khóa này là của thầy Burke Marshall, một nhân vật trở thành huyền thoại nhờ đâu tranh cho dân quyền với tư cách trợ lý Bộ trưởng tư pháp dưới thời Kennedy, và thầy Jan Deutsch, nổi tiếng là người duy nhất cho đến thời điểm ấy tốt nghiệp hạng danh dự trong tất cả các môn ở trường Yale. Thầy Marshall nhỏ người và rắn chắc nhưng mắt sáng và linh hoạt. Ông ấy lúc nào cũng nói thì thào, nhưng giọng thầy có thép, và con người thầy cũng vậy. Thầy Deutsch thì có kiểu nói lập bập từng chuỗi từng chuỗi rất bất thường, chưa nói xong câu này đã lại sang câu khác. Có lẽ đây là hậu quả chấn thương đầu mà thầy bị trong vụ tai nạn bị xe hơi tông văng lên không một quãng và rơi xuống nền bê tông. Thầy bất tỉnh mất vài tuần và tỉnh dậy thì đầu phải bó nẹp kim loại. Nhưng thầy rất thông minh. Tôi quen với kiểu nói của thầy và "dịch" lại cho các bạn khác không bắt kịp. Jan Deutsch cũng là người duy nhất tôi từng gặp ăn táo cả quả, kể cả hạt. Thầy bảo tất cả các khoáng chất bổ đều nằm trong đó. Thầy chắc là giỏi hơn tôi, nên tôi theo thầy và ăn thử. Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn ăn táo cả hạt, và nhớ lại những kỷ niệm đẹp về giáo sư Deutsch.

Thầy Marvin Chirelstein dạy tôi hai môn Tài chính doanh nghiệp và Thuế. Tôi học thuế dở tệ. Luật thuế quá nhiều những phân cấp nhân tạo mà tôi chẳng hứng thú gì; những phân cấp này có vẻ như chỉ nhằm tạo thêm cơ hội cho các luật sư về thuế giảm nghĩa vụ của các thân chủ của họ đối với nước Mỹ hơn là thúc đẩy các mục tiêu xã hội xác đáng. Một lần, thay vì tập trung trong lớp, tôi đọc One Hundred Years of Solitude - Trăm năm cô đơn của Gabriel García Marquez. Cuối giờ học, giáo sư Chirelstein hỏi tôi điều gì mà thú vị hơn bài giảng của ông đến thế. Tôi giơ sách lên và bảo thầy đó là cuốn tiểu thuyết tuyệt nhất được viết bằng bất cứ thứ tiếng nào từ khi William Faulkner mất. Bây giờ tôi vẫn còn nghĩ vậy.

Tôi gỡ thể diện cho mình trong môn Tài chính doanh nghiệp và đỗ đầu trong kỳ thi cuối khóa. Khi giáo sư Chirelstein hỏi sao tôi có thể học giỏi Tài chính doanh nghiệp đến thế mà lại kém môn Thuế, tôi trả lời vì tài chính doanh nghiệp cũng giống như chính trị; trong khuôn khổ luật lệ nhất định, đó là một cuộc đấu tranh liên tục để nắm quyền lực, tất cả các bên đều cố tránh bị lừa nhưng sẵn sàng thủ đoạn.

Ngoài đi học tôi còn làm hai việc nữa. Dù đã có học bổng và hai khoản vay cho sinh viên, tôi vẫn cần thêm tiền. Vài giờ trong tuần tôi làm cho Ben Moss, một luật sư địa phương, giúp nghiên cứu luật pháp và làm việc vặt. Việc nghiên cứu chẳng bao lâu trở nên nhàm chán, nhưng mấy việc vặt thật lý thú. Có lần tôi phải giao một số giấy tờ đến địa chỉ trong một tòa nhà cao tầng ở nội đô. Khi tôi leo cầu thang lên tầng ba hay bốn gì đó, tôi đi ngang qua một người đàn ông mặt đờ đẫn đứng ở cầu thang tay vẫn còn dính một cái xilanh rỗng. Ông ta vừa mới tự tiêm một ống đầy heroin. Tôi giao giấy tờ xong và ba chân bốn cẳng vội chuồn khỏi.

Công việc thứ hai của tôi không hung hiểm bằng nhưng lại thú vị hơn. Tôi dạy hình luật cho sinh viên trong một chương trình bảo vệ pháp luật tại Đại học New Haven. Vị trí của tôi do chương trình Trợ giúp Bảo vệ Pháp luật Liên bang cấp vốn, chương trình này vừa mới khởi động dưới thời Nixon. Lớp học được thiết kế nhằm cung cấp thêm các nhân viên bảo vệ pháp luật chuyên nghiệp biết cách bắt giữ, khám xét và tịch biên một cách hợp hiến. Tôi thường phải chuẩn bị bài giảng vào tối trước ngày lên lớp. Để khỏi ngủ gật, tôi thường đem bài ra soạn ở quán ăn phố Elm, cách nhà chúng tôi một dãy phố. Quán này mở cửa suốt đêm, có cà phê và bánh trái cây ngon tuyệt, và đầy những nhân vật về đêm của New Haven. Trông coi quán vào ban đêm là Tony, một người gốc Hy Lạp và là cháu của ông chủ quán. Khi tôi vất vả làm bài, anh ấy cho tôi thêm cà phê thoải mái mà không tính tiền.

Con đường trước quán là ranh giới phân chia giữa hai nhóm gái đứng đường. Thỉnh thoảng cảnh sát cũng hốt họ đi nhưng rồi họ lại nhanh chóng xuất hiện trở lại. Mấy cô hay vào quán để uống cà phê và sưởi ấm. Khi họ biết tôi ở trường luật, nhiều cô ghé qua chỗ tôi ngồi để nhờ tư vấn pháp lý. Tôi cố làm hết sức mình, nhưng chẳng cô nào chịu nghe lời khuyên tốt nhất của tôi là đi kiếm việc khác. Một đêm nọ, một tay nam giả gái da đen ngồi xuống đối diện tôi và nói câu lạc bộ của anh ta muốn tổ chức rút thăm trúng thưởng một cái tivi để gây quỹ; anh ta muốn hỏi liệu làm như vậy có phạm luật chống cờ bạc hay không. Sau này tôi hiểu ra rằng thực sự anh ta không biết cái tivi đây có phải là đồ ăn cắp không. Nó được hiến tặng cho câu lạc bộ của anh ta bởi một ông bạn làm chủ một dịch vụ tiêu thụ đồ gian, chuyên mua đồ ăn cắp và bán lạí với giá rẻ. Dù Sao tôi cũng bảo anh ta rằng các nhóm khác tổ chức rút thăm trúng thưởng hoài và chắc câu lạc bộ của anh ta sẽ không bị truy tô gì. Để đáp lại lời tư vấn khôn ngoan củạ tôi, anh này cho tôi khoản thù lao duy nhất mà tôi có được trong suốt thời gian làm tư vấn ở quán ăn phố Elm: một vé rút thăm. Tôi không trúng được cái tivi kia, nhưng dù sao cũng ra về mãn nguyên với tấm vé viết tên của câu lạc bộ bằng chữ in đậm: Những người độc đáo da đen.