Chương 16 (tt)
Trong tất cả các trận đấu tôi theo dõi, chỉ có Trận cầu Thế kỷ là có tác động đến cuộc đời chính trị của tôi. Mặc dù trên tivi không chiếu cảnh những người biểu tình phản chiến nhưng họ vẫn có mặt ở đấy. Một người trong số đó leo lên một cành cây cao trên quả đồi nhìn xuống sân. Hôm sau, hình ảnh của anh ta xuất hiện trên các báo tuần và báo ngày của Arkansas. Năm năm sau, năm 1974, ngay trước cuộc bầu cử vào nghị viện đầu tiên của tôi, các nhân viên tham gia vận động cho đối thủ của tôi đã gọi điện cho các báo trong toàn bang để hỏi họ có còn giữ bài báo "có hình của Bill Clinton đang trèo lên cây để biểu tình chống lại Nixon ở trận Arkansas-Texas" hay không. Tin đồn lan nhanh như gió thổi và tôi đã mất đi khá nhiều phiếu bầu. Năm 1978, khi tôi tranh cử thống đốc nhiệm kỳ đầu, một binh sĩ tiểu bang ở miền nam Arkansas đã cam đoan với một số người rằng anh ta chính là người đã kéo tôi xuống khỏi cây vào ngày đó. Năm 1979, năm đầu tiên làm thống đốc, và 10 năm sau trận đấu, khi tôi đang trả lời các câu hỏi tại một trường trung học ở Berryville, cách Fayetteville khoảng một giờ lái xe về phía đông, một sinh viên đã hỏi có đúng là tôi trên cây hôm đó hay không. Tôi hỏi ai đã nghe tin đồn này, một nửa số học sinh và ba phần tư giáo viên giơ tay. Năm 1983, 14 năm sau trận đấu, tôi đến Tontitown, một quận nhỏ phía bắc Fayetteville để trao tặng danh hiệu hoa khôi trong Đại hội Nho hàng năm. Sau khi tôi trao xong, một cô gái 16 tuổi nhìn tôi và nói: "Có thực sự là Ngài đã leo lên cây không mặc quần áo và phản đối Tổng thống Nixon và chiến tranh không?". Khi tôi trả lời không, cô bé nói: "Ô, trời. Đó là một lý do tôi vẫn ủng hộ ngài trong mấy năm qua". Và dù theo lời đồn thổi thì tôi coi như đã không mặc quần áo mà leo lên cây, người ta vẫn cứ chăm chăm vào chuyện ấy. ơn Chúa, không lâu sau đó, một tuần báo cấp tiến tự do ở Fayetteville, The Grapevine, cuối cùng đã cho câu chuyện khùng điên này vào quên lãng bằng một bài viết về người biểu tình thực sự, có kèm theo hình ảnh của anh ta đang ở trên cây. Tác giả bài báo cũng viết rằng khi Thống đốc Clinton còn trẻ, ông ấy là người "ra dáng con nhà", đâu có hành động mạo hiểm như thế.
Trận đấu từ xa xưa đó là một cơ hội để tôi thưởng thức môn thể thao mình ưa thích và cảm thấy như ở gần nhà hơn. Tôi mới bắt đầu đọc You Can't Go Home Again - Bạn không thể về nhà được nữa của Thomas Wolfe và lo sợ tôi có thể rơi vào hoàn cảnh như vậy. Và tôi cũng sắp đi xa nhà hơn bất cứ lúc nào khác, và theo nhiều cách.
Cuối tuần đầu của tháng 12, trong kỳ nghỉ đông dài, tôi bắt đầu chuyến đi 40 ngày từ Amsterdam qua cậc nước vùng Scandinavie đến nước Nga, sau đó quay lại Oxford qua Prague và Munich. Đó là chuyến đi dài nhất trong đời tôi.
Tôi đến Amsterdam với người bạn họa sĩ Aimée Gautier. Đường phố chìm trong ánh đèn Noel và đầy những cửa hàng hấp dẫn. Khu đèn đỏ nổi tiếng thấp thoáng các cô gái điếm hợp pháp ngồi trưng bày bên cửa sổ. Aimée đùa vui hỏi tôi có muốn vào một trong số các cửa tiệm ấy chơi hay không, nhưng tôi từ chối.
Chúng tôi đi tham quan các nhà thờ chính, xem tranh Van Gogh ở bảo tàng thành phố, tranh của Vermeer và Rembrandt ở bảo tàng Rijksmuseum. Đến giờ đóng cửa, người ta bắt chúng tôi rời khỏi chôn cổ kính tuyệt vời này. Tôi đến phòng treo quần áo lấy áo khoác. Chỉ có một người đứng xếp hàng chờ lấy áo. Khi người ấy quay lại, tôi nhận ra đó chính là Rudolf Nureyev. Chúng tôi trao đổi vài lời và anh ấy mời tôi đi uổng trà. Tôi biết Aimée sẽ rất thích, nhưng ngay ngoài cửa ra vào, một người đàn ông đẹp trai, cau có đang bồn chồn bước tới bước lui, rõ ràng là đang đợi Nureyev, vì thế tôi từ chối. Nhiều năm sau, khi làm Thống đốc, tôi nhận ra mình ở cùng khách sạn với Nureyev ở Đài Bắc, Đài Loan. Cuối cùng chúng tôi cũng có dịp uống trà với nhau vào một đêm muộn khi cả hai đã hoàn tất những nghĩa vụ cao cả của mình. Rõ ràng anh ấy không nhớ gì về cuộc gặp gỡ đầu tiên.
Từ Amsterdam, Aimée về nhà nên tôi tạm biệt cô ấy và lên tàu đi Copenhagen, Oslo và Stockholm. Ở biên giới giữa Na Uy và Thụy Điển, suýt chút nữa tôi bị kẹt lại giữa nơi đồng không mông quạnh.
Ở một ga xép, những người gác tàu kiểm tra hành lý của hành khách trẻ tuổi để tìm ma túy. Trong túi của tôi, họ tìm thấy rất nhiều viên Contac mà tôi mang sang cho bạn ở Moscow. Contac là loại thuốc khầ mới và vì một vài lý do nào đó chưa được đưa vào danh sách thuốc được chính phủ Thụy Điển công nhận. Tôi cố gắng giải thích rằng thuốc này chỉ để trị cảm lạnh, được bán rộng rãi ở các hiệu thuốc của Mỹ và không hề gây nghiện. Người gác tàu đã tịch thu số thuốc Contac, nhưng ít ra tôi không vì tội buôn ma túy mà bị quẳng ra ngoài trời tuyết hoang vắng, để có thể trở thành một bức tượng bằng đá, được gìn giữ tuyệt hảo không tan đến tận mùa xuân năm sau.
Sau vài ngày ở Stockholm, tôi đi phà đêm đến Helsinki. Đêm đã rất khuya, tôi ngồi một mình bên bàn trong khu vực nhà ăn, vừa đọc sách vừa uống cà phê thì có ẩu đả ở quầy bar. Hai người đàn ông say rượu đánh nhau vì một cô gái đứng gần bên. Cả hai đều không biết thủ thân nhưng lại có thể đấm vào mặt đối phương. Được một lúc cả hai bắt đầu máu me nhoe nhoét. Một trong hai người thuộc thủy thủ đoàn, hai hay ba người bạn anh ta cũng ở đó nhưng chỉ đứng nhìn. Cuối cùng tôi không thể chịu được nữa. Tôi đứng dậy tiến về phía họ định can ngăn trước khi cả hai đánh nhau bị thương nặng. Khi tôi còn cách họ khoảng vài mét, một thủy thủ đoàn bước ra chặn tôi lại và nói: "Anh không thể ngăn họ được. Nếu anh vào, cả hai sẽ quay sang đánh anh đấy. Và chúng tôi sẽ giúp họ". Khi tôi hỏi tại sao, anh ta chỉ mỉm cười và trả lời: "Chúng tôi là người Phần Lan". Tôi nhún vai, quay người, nhặt cuốn sách và về đi ngủ, thấm thìa bài học mới về sự khác biệt văn hóa. Tôi cá rằng chẳng ai giành được cô gái đó.
Tôi đăng ký nhận phòng tại một khách sạn nhỏ và bắt đầu tham quan thành phố cùng với bạn học ở Georgetown là Richard Shullaw, có cha là phó đại sứ Mỹ ở đó.
Ngày giáng sinh, giáng sinh đầu tiên xa nhà, tôi đi bộ ra vịnh Helsinki. Băng rất dày, và tuyết đủ để chơi xe trượt. Giữa khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tôi nhìn thây một căn nhà gỗ cách bờ vài mét, và một lỗ nhỏ bên cạnh. Đâ'y là một nhà tắm hơi, và một lúc sau có một người đàn ông mặc áo tắm bước ra. Ông ta đi thẳng đến hố băng và bước dìm người xuống làn nước giá lạnh. Sau vài phút, ông ta bước ra và đi ngược vào nhà tắm hơi, và cứ thế lặp đi lặp lại. Tôi nghĩ ông này còn điên khùng hơn hai người ở quán bar. về sau tôi rất thích tắm hơi sauna, nhưng dù có ngày càng yêu mến Phần Lan trong những chuyến đến thăm sau đó, tôi cũng không thể nào ngâm mình trong làn nước đóng băng được.
Vào đêm giao thừa, tôi lên tàu đi Moscow có chặng dừng đổi tàu ở ga Phần Lan của Leningrad. Đó cũng là lộ trình của Lenin năm 1917 khi ông trở về nước Nga để lãnh đạo cách mạng. Tôi nhớ vì đã đọc trong cuốn To the Finland Station - Đến ga Phần Lan tuyệt hay của Edmund Wilson. Khi chúng tôi đến biên giới Nga, một ga vắng vẻ nữa, thì tôi được gặp người cộng sản đầu tiên bằng xương bằng thịt trong đời, một anh lính gác tàu trông to lớn dềnh dàng. Khi anh ta nhòm ngó túi của tôi, tôi nghĩ anh ta đang kiểm tra xem có ma túy hay không. Nhưng anh ta lại hỏi bằng giọng tiếng Anh nặng trịch: "Có sách đồi trụy không? Sách đồi trụy ấy? Có cuốn nào không?". Tôi bật cười và mở túi đựng sách, đổ ra một đống sách bìa mỏng của nhà xuất bản Penguin của các tác giả Tolstoy, Dostoevsky và Turgenev. Anh ta thất vọng thấy rõ. Tôi đoán anh ta đang mong chờ kiếm được món hàng gì đấy để giải khuây trong những đêm dài vùng biên giới cô đơn này.
Tàu hỏa của Xô Viết có nhiều khoang rộng rãi. Mỗi toa có một ấm samovar khổng lồ đựng đầy trà nóng dùng kèm với bánh mì đen do một phụ nữ lớn tuổi phục vụ. Cùng khoang với tôi là một người' thú vị từng là huấn luyện viên cho đội quyền anh Estonia trong Olympics 1936, ba năm trước khi Liên bang Xô Viết thu phục các quốc gia vùng Baltic. Chúng tôi nói được chút ít tiếng Đức đủ để hiểu nhau. Anh ta là một người sống động, và nói với tôi về niềm tin tuyệt đối rằng một ngày nào đó Estonia sẽ lại được tự do. Năm 2002, khi đến thăm Tallinn, thủ đô cũ xinh đẹp của Estonia để nói chuyện, tôi đã kể câu chuyện này cho các cử tọa. Bạn tôi, cựu tổng thống Lennart Meri cũng tham dự và đã tìm kiếm giùm tôi. Tên người đàn ông đó là Peter Matsov. Ông ấy đã chết năm 1980. Tôi thường nghĩ về ông ta và chuyến tàu đêm giao thừa năm đó. Tôi ước sao ông ấy sống thêm một thập kỷ nữa để chứng kiến ước mơ của mình thành hiện thực.
Gần nửa đêm và cũng gần đến bình minh của thập kỷ mới thì chúng tôi đến Leningrad. Tôi bước ra và đi bộ vài phút, nhưng tôi chỉ thấy cảnh sát đang kéo mấy người vui chơi quá chén khỏi đường phố trong cơn bão tuyết. Phải mất gần 30 năm sau tôi mới có dịp thăm thú những danh thắng của thành phố này. Lúc đó những người cộng sản đã ra đi và tên cũ của thành phố được khôi phục, St.Petesburg.
Buổi sáng năm mới 1970, tôi bắt đầu chuỗi năm ngày tuyệt vời. Tôi đã chuẩn bị cho chuyến đi Moscow bằng cách tìm sách hướng dẫn du lịch và một tấm bản đồ thành phố bằng tiếng Anh vì tôi không thể đọc được các mẫu tự tiếng Nga gốc Xlavơ.
Tôi đăng ký phòng ở khách sạn Quốc gia, gần Quảng trường Đỏ. Ở đây sảnh đợi có trần cao, phòng tiện nghi và nhà ăn cùng quán bar đàng hoàng.
Người duy nhất tôi biết ở Moscow là Nikki Alexis, người đã tặng tôi hai tấm thiệp dễ thương về tình bạn mà tôi rất thích lúc tôi phải rời Oxford về nhà mùa hè năm ngoái. Đó là một phụ nữ thú vị, sinh ở Martinique thuộc Tây Ấn, sống ở Paris vì cha cô làm ở ngoại giao đoàn tại đó. Nikki đang học trường đại học Lumumba, mang tên nhà lãnh đạo người Congo bị ám sát năm 1961 mà rõ ràng là có bàn tay của CIA Hoa Kỳ. Hầu hết sinh viên là con nhà nghèo đến từ các nước nghèo. Rõ ràng người Xô Viết hy vọng rằng sau khi được đào tạo, họ sẽ quay về nhà và tạo ra những thay đổi.
Một đêm, tôi đón xe buýt đến trường Đại học Lumumba để ăn tôi với Nikki và một vài người bạn của cô. Một trong số đó là Helene, người Haiti, có chồng đang học ở Paris. Họ có một con gái đang sống cùng với ba. Họ không có tiền để đi lại và đã không gặp nhau trong gần hai năm. Vài ngày sau khi tôi rời Moscow, Helene đã tặng tôi một cái mũ lông đặc trưng của Nga. Cái mũ không đắt lắm nhưng cô ấy không có tiền. Tôi hỏi cô có chắc là cô muôn tặng tôi hay không. Cô trả lời: "Có chứ. Anh đã rất tử tế với tôi và làm cho tôi có hy vọng". Năm 1994, lúc làm tổng thống, tôi quyết định thay thế nhà độc tài quân sự, tướng Raoul Cedras, bằng tổng thống được bầu một cách dân chủ là Jean-Bertrand Aristide, lần đầu tiên sau nhiều năm tôi nghĩ đến người phụ nữ đó và tự hỏi không biết cô có trở lại Haiti hay không.
Đến khoảng nửa đêm tôi đi xe buýt về khách sạn. Chỉ có một người ở đó. Anh ta tên Oleg Rakito và nói tiếng Anh còn hay hơn tôi. Anh ta hỏi tôi rất nhiều và cho biết anh ta đang làm cho chính phủ, gần như thú nhận rằng anh được phân công theo dõi tôi. Anh ta nói muốn tiếp tục trò chuyện vào bữa sáng hôm sau. Khi chúng tôi cùng ăn thịt nguội và trứng thì anh ta nói sáng nào anh ta cũng đọc báo Time và Newsweek và rất yêu thích ngôi sao nhạc pop người Anh Tom Jones và đã ghi âm rất nhiều bài hát của thần tượng. Nếu Oleg tính moi thông tin vì tôi đã được kiểm tra an ninh đủ để làm việc cho Thượng nghị sĩ Fulbright, thì anh ta đã không moi được gì cả. Nhưng tôi nhận thấy ở anh ta cơn khát khao thông tin thực sự về thế giới bên ngoài của một thanh niên đằng sau Bức màn sắt. Điều này đã canh cánh trong lòng tôi cho đến tận khi vào Nhà Trắng.
Oleg không phải là người Nga thân thiện duy nhất tôi gặp. Chính sách giảm căng thẳng giữa các quốc gia của Tổng thống Nixon đã có nhiều kết quả đáng chú ý. Vài tháng trước, tivi Nga đã chiếu người Mỹ đi bộ trên mặt trăng. Người ta vẫn còn háo hức về chuyện này và có vẻ bị hấp dẫn trước tất cả thứ gì liên quan đến nước Mỹ. Họ ghen tỵ với tự do của chúng tôi và nghĩ chúng tôi ai cũng giàu có. Tôi đoán, nếu so với hầu hết trong số họ thì đúng là chúng tôi giàu có thật. Bất cứ khi nào tôi đi tàu điện ngầm cũng có người đến gần và tự hào nói: "Tôi nói được tiếng Anh! Chào mừng anh đã đến Moscow". Một đêm tôi cùng ăn tối với một vài nhân viên khách sạn, một tài xế taxi và em gái anh ta. Cô gái đã uống khá nhiều và quyết định sẽ ở lại với tôi. Anh trai cô ta phải kéo em mình ra ngoài trời tuyết và tống vào taxi. Tôi không bao giờ biết được anh ta sợ nếu em gái mình đi với tôi thì sẽ bị KGB sờ gáy hay vì anh ta nghĩ tôi không xứng với cô em gái.
Cuộc phiêu lưu thú vị nhất của tôi ở Moscow bắt đầu bằng một cuộc gặp gỡ tình cờ trong thang máy khách sạn. Khi tôi bước vào đã có bốn người. Một người đeo huy hiệu Câu lạc bộ Virginia Lions. Rõ ràng anh ta nghĩ tôi là người ngoại quốc vì tóc và râu tôi khá dài, lại đi giày ống và mặc áo khoác hải quân Anh. Anh ta gầm gừ: "Anh quê ở đâu?". Tôi mỉm cười và trả lời: "Arkansas", anh ta đáp lại: "Ơ, thế mà tôi nghĩ anh ở Đan Mạch hay đại loại thế". Người đàn ông đó tên Charlie Daniels, ở Norton, Virginia, quê hương của Francis Gary Powers, viên phi công U-2 bị bắn hạ và bị bắt ở Nga năm 1960. Anh ta đang đi cùng Carl McAfee, luật sư ở Norton lo thủ tục để thả Powers, và một chủ trang trại nuôi gà ở bang Washington tên Henry Fors có con trai bị bắn rơi ở Việt Nam. Họ đi suốt quãng đường dài đến Moscow chỉ để hỏi xem những người Bắc Việt Nam đang ở đó có thể trả lời con của ông chủ trại còn sống hay đã chết. Người thứ tư từ Paris tới, và cũng giống như mấy người Virginia, là thành viên của câu lạc bộ Lions. Ông này đi theo đoàn vì phái đoàn Bắc Việt nói tiếng Pháp. Họ đến Moscow mà không có gì bảo đảm rằng người Nga sẽ cho phép họ nói chuyện với những người Việt Nam, hoặc nếu có nói chuyện được thì liệu có hỏi được thông tin nào hay không. Không ai trong số họ nói tiếng Nga. Họ hỏi tôi có biết ai có thể giúp họ không. Bạn cũ Nikki Alexis của tôi học tiếng Anh, Pháp và Nga tại Đại học Patrice Lumumba. Tôi giới thiệu cô cho họ, và họ cùng nhau chạy vạy, tìm kiếm trong vài ngày, hỏi đại sứ quán Mỹ, nhờ người Nga giúp đỡ, và cuối cùng đã gặp được phái đoàn Bắc Việt Nam - những người rõ ràng rất ấn tượng vì ông Fors và các bạn đã hết sức cô gắng để được biết về số phận của con trai mình và một vài người nữa mất tích trong khi chiến đấu. Họ nói họ sẽ kiểm tra và liên lạc lại. Vài tuần sau, Henry Fors được tin con trai ông đã chết khi máy bay của anh bị bắn hạ. ít ra ông còn cảm thấy thanh thản đôi chút. Tôi nhớ đến Henry Fors» khi tôi làm việc để giải quyết về các trường hợp POW/MIA (tù binh và binh sĩ mất tích - ND) lúc làm Tổng thống và giúp Việt Nam tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với hơn 300.000 người con của họ vẫn đang mất tích.
Ngày 6 tháng 1, Nikki và cồ bạn người Haiti Helene tiễn tôi lên tàu đi Prague, một trong những thành phố cổ đẹp nhất châu Âu, vân đang rên xiết trong sự đàn áp của Liên Xô đối với phong trào cải cách Mùa xuân Prague của Alexander Dubcek hồi tháng 8 năm 1968. Tôi được mời ở lại nhà của cha mẹ của Jan Kopold, một người bạn cùng chơi bóng rổ với tôi ở Oxford. Gia đình Kopold rất thú vị, lịch sử gia đình họ gắn bó với lịch sử của nước Tiệp Khắc hiện đại. Cha của bà Kopold là tổng biên tập tờ báo cộng sản Rude Pravo, ông đã chết khi chiến đấu với bọn phát xít trong Thế chiến hai, và tên ông được đặt cho một cây cầu ở Prague. Cả hai ông bà Kopold đều là trí thức và từng ủng hộ nhiệt tình cho Dubcek. Mẹ của bà Kopold cùng sống với họ. Ban ngày khi hai ông bà Kopold đi làm, bà đưa tôi đi chơi. Họ sống trong một căn hộ dễ thương trong một tòa nhà cao tầng với tầm nhìn toàn cảnh thành phố rất đẹp. Tôi ngủ lại trong phòng của Jan và háo hức đến mức trong đêm tôi thức dậy ba bốn lần để ra ngắm cảnh.
Gia đình nhà Kopold, cũng như những người Tiệp khác mà tôi gặp, đều tin tưởng rồi họ sẽ có cơ hội tự do. Họ là những người xứng đáng được hưởng điều đó như bất cứ ai trên trái đất này. Họ thông minh, tự hào và quyết tâm. Những người Tiệp trẻ tuổi tôi gặp đều rất ủng hộ Mỹ. Họ ủng hộ chính phủ tôi về vấn đề Việt Nam bởi vì họ tin chúng tôi ủng hộ tự do và người Nga Xô thì không. Một lần, ông Kopold đã nói với tôi: "Kể cả người Nga cũng không thể nào muôn đời bất chấp quy luật phát triển của lịch sử". Rõ ràng họ không thể làm như vậy. Hai mươi năm sau, cuộc Cách mạng Nhung hòa bình của Václav Havel đã thực hiện lời hứa của Mùa xuân Prague.
Mười tháng sau khi chia tay gia đình Kopold về lại Oxford, tôi nhận được thông báo của họ, viết trên tờ giấy trắng viền đen: "Chúng tôi rất đau buồn thông báo cho các bạn của con trai chúng tôi rằng vào ngày 29 tháng 1 tại bệnh viện trường đại học ở Smyrna, Thổ Nhĩ Kỳ, Jan Kopold đã qua đời ở tuổi 23... Đã từ lâu ước mơ cháy bỏng của Jan là được thăm viếng di tích văn hóa Hy Lạp. Jan đã ngã xuống từ trên cao cách Troy không xa và đã không qua khỏi do chấn thương quá nặng". Tôi rất thích Jan với nụ cười lúc nào cũng trên môi và một trí óc thông tuệ. Khi tôi biết anh là lúc anh đang bị giày vò giữa tình yêu đất nước Tiệp Khắc với tình yêu tự do. Tôi ước sao anh ấy còn sống để được vui hưởng cả hai.
Sau sáu ngày ở Prague, tôi dừng ở Munich để dự Faschingsfest (lễ hội tống tiễn mùa Đông ở Đức và các nước lân cận - ND) với Rudy Lowe, rồi về lại Anh, trong lòng có niềm tin mới vào nước Mỹ và nền dân chủ. Với tất cả những khiếm khuyết của nó, tôi phát hiện đất nước tôi vẫn là ngọn đèn dẫn đường cho nhiều người dang sốt ruột sống trong chế độ cộng sản. Thật trớ trêu là khi tôi tranh cử tổng thống năm 1992, đảng Cộng hòa cố gắng dùng chuyến đi này làm bằng chứng chống lại tôi, họ nói tôi giao du với những người cộng sản ở Moscow.
Sang học kỳ mới, tôi quay lại những buổi học nhóm về chính trị, bao gồm các nghiên cứu về sự liên quan giữa lý thuyết khoa học với việc lập kế hoạch chiến lược; vấn đề biến một quân đội động viên thành một đạo quân ái quốc, từ thời Napoleon cho đến Việt Nam; và các khó khăn mà Trung Quốc và Nga gây ra cho chính sách của Mỹ. Tôi đọc Herman Kahn về khả năng chiến tranh hạt nhân, các mức độ hủy diệt khác nhau, và các hành vi sau cuộc tấn công. Cuốn sách đó có vẻ viễn tưởng và không thuyết phục chút nào. Tôi ghi vào nhật ký rằng "những gì xảy ra sau khi bắt đầu khai pháo có thể sẽ không theo bất cứ hình mẫu của hệ thống khoa học hay của các nhà phân tích nào".
Trong khi tôi phải chịu đựng thêm một mùa đông âm u ở Anh thì thư từ lẫn thiệp từ nhà tràn đến. Bạn bè tôi đi làm, kết hôn, tiếp tục cuộc sống thường nhật. Việc họ trở về trạng thái bình thường có vẻ thật tốt đẹp sau tất cả những day dứt mà tôi cảm thấy về Việt Nam.
Tháng 3 và mùa xuân đến làm cho mọi việc sáng sủa đôi chút. Tôi đọc Hemingway, dự các buổi học nhóm và nói chuyện với bạn bè, trong đó có một người bạn mới rất thú vị. Mandy Merck đến học ở Oxford từ trường Reed ở Oregon. Cô là người cực kỳ năng động và rất thông minh, phụ nữ Mỹ duy nhất tôi gặp ở Oxford có phần lấn lướt hơn các nữ sinh viên Anh ở Oxford về khoản nói chuyện nhanh và trôi chảy. Cô cũng là người phụ nữ đầu tiên không giấu mình là đồng tính mà tôi biết. Tháng 3 đó là tháng mở mắt cho những hiểu biết của tôi về đồng tính. Paul Parish cũng kết bạn với tôi, và lúc nào cũng sợ bị gắn mác là kẻ hạ đẳng. Anh phải chịu đựng trong một thời gian dài. Bây giờ anh ấy đang ở San Francisco, và theo lời anh thì đang rất "yên ổn và hợp pháp". Mandy Merck ở lại Anh và trở thành phóng viên và người đấu tranh cho quyền của giới đồng tính. Vào thời đó, những lời chọc ghẹo của cô đã làm rạng rỡ những ngày mùa xuân của tôi.
Một đêm, Rick Stearns đã làm tôi choáng váng khi nói tôi không thích hợp với chính trị. Anh nói cả tôi và Huey Long đều có phong cách chính trị miền Nam rất tuyệt, nhưng Long là thiên tài về chính trị, anh ấy hiểu cách giành được và sử dụng quyền lực. Rick nói khả năng của tôi thiên về văn chương hơn, rằng tôi nên làm nhà văn bởi vì tôi viết tốt hơn nói, và bên cạnh đó, tôi không cứng rắn đủ để làm chính trị. Suốt nhiều năm sau này nhiều người cũng nghĩ như vậy. Dù sao Rick cũng gần đúng. Tôi chưa bao giờ say mê quyền lực chỉ vì quyền lực, nhưng bất cứ khi nào bị đối phương tấn công, tôi đều thường tập trung cứng rắn đủ để sống sót. Ngoài ra, tôi không nghĩ mình có thể làm được việc gì khác tốt như vậy.
Đầu năm 1970, sau khi nhận được cuộn băng của Jeff Dwire ghi âm lại cuộc nói chuyện của ông với đại tá Holmes và số bốc thăm quân dịch khá cao, tôi biết tôi đã thoát khỏi ROTC và không phải đi quân dịch ít nhất là đến cuối năm. Nếu không được gọi, tôi lại bị giằng xé giữa việc quay lại Oxford học tiếp năm thứ ba do học bổng Rhodes tài trợ, hoặc về trường Luật Yale nếu tôi được chấp nhận.
Tôi rất thích Oxford, có thể còn quá thích là đằng khác. Tôi lo sợ nếu quay lại học tiếp năm thứ ba, tôi có thể rơi vào cuộc sống hàn lâm thoải mái nhưng không mục đích mà cuối cùng có thể làm cho tôi thất vọng. Xét đến những cảm xúc của tôi về chiến tranh, tôi không chắc mình có thể thành công trong nghiệp chính trị hay không, nhưng tôi thích về nhà, về Mỹ và thử thời vận xem sao.
Tháng 4, trong kỳ nghỉ giữa học kỳ ba và tư, tôi thực hiện chuyến du hành cuối - đến Tây Ban Nha, cùng với Rick Stearns. Tôi đã đọc về Tây Ban Nha rất nhiều và hoàn toàn bị mê hoặc, nhờ cuốn Man's Hope - Hy vọng của con ngứời của André Malraux, Homage to Catalonia - Tiêng nhớ Catalonia của George Orwell, và siêu phẩm The Spanish Civil War - Cuộc Nội chiến Tây Ban Nha của Hugh Thomas. Malraux tìm hiểu vấn nạn mà chiến tranh đã đặt ra cho giới trí thức, nhiều người trong số này bị cuốn vào cuộc chiến chống Franco. Ông nói các trí thức muốn tách bạch rõ ràng, muốn biết chính xác anh ta chiến đấu cho cái gì và phải chiến đấu như thế nào, một thái độ tự thân nó là phản Manichean (thuyết giáo tách bạch trắng đen, phải trái - ND), nhưng đã là chiến binh tự thân, anh ta là Manichean. Để giết chóc và sống sót, anh ta phải nhìn mọi vật rõ ràng trắng đen, tốt xấu. Nhiều năm sau, tôi nhận ra điều tương tự trong chính trị khi nhóm cực hữu chiếm lĩnh đảng Cộng hòa và quốc hội. Chính trị đối với họ chỉ là một cuộc chiến tranh với hình thức khác. Họ cần có kẻ thù và tôi chính là quỷ dữ theo niềm tin Manichean của họ.
Tôi không bao giờ chế ngự được sức cuốn hút lãng mạn của Tây Ban Nha, mạch đập thô ráp của xứ ấy, tinh thần thô mộc của người dân, những ký ức ám ảnh về cuộc Nội chiến thất bại, bảo tàng Prado, vẻ đẹp của Alhambra. Khi làm tổng thống, tôi cùng Hillary trở thành bạn của vua Juan Carlos và nữ hoàng Sofia. Trong chuyến công du cuối cùng đến Tây Ban Nha, Juan Carlos vẫn nhớ tôi đã từng nói với ông về niềm hoài cổ của tôi đối với Granada, ông đã đưa tôi cùng Hillary đến đó. Sau 30 năm, tôi lại dạo bước qua Alhambra, trong một nước,Tây Ban Nha dân chủ và thoát khỏi chế độ Franco mà công của ông ấy không nhỏ.
Cuối tháng 4, tôi quay lại Oxford, mẹ gọi và báo tin mẹ của David Leopoulos là Evelyn đã bị giết, bị đâm bốn nhát vào tim trong tiệm bán đồ cổ của bà. Vụ án ấy không bao giờ được giải quyết. Lúc đó tôi đang đọc Leviathan của Thomas Hobbes và tôi nhớ mình đã nghĩ ông ta có thể đã nói đúng rằng cuộc đời "thật tội nghiệp, kinh tởm, man rợ và ngắn ngủi". Vài tuần sau, David đến thăm tôi khi đang trên đường quay lại quân ngũ ở Ý, và tôi đã cố gắng an ủi anh. Mất mát của anh cuối cùng đã khích lệ tôi kết thúc truyện ngắn viết về một năm rưỡi cuối cùng và cái chết của bố dượng tôi. Truyện ấy được bạn bè nhận xét là hay, khiến tôi viết vào nhật ký: "Có thể tôi sẽ viết văn thay vì làm phải người gác cửa khi sự nghiệp chính trị của tôi gặp trắc trở". Thỉnh thoảng tôi vẫn tưởng tượng mình là người gác cửa khách sạn Plaza ở New York, phía nam của Công viên Central. Người gác cửa ở Plaza mặc đồng phục đẹp và gặp nhiều người thú vị từ khắp nơi trên thế giới. Tôi còn tưởng tượng minh sẽ gom được những khoản tiền boa hậu hĩnh của khách nghĩ răng, bất chấp giọng miền Nam của tôi hơi khác thường, tôi nói chuyên có duyên.
Cuối tháng 5, tôi được trường Yale nhận và tôi quyết định đến đó. Tôi nhanh chóng kết thúc các buổi học nhóm về khái niệm đối lập, thủ tướng Anh, và lý thuyết chính trị thích Locke hơn Hobbes. Ngày 5 tháng 6, tôi diễn thuyết lần cuối cùng trước sinh viên tốt nghiệp trung học quân sự Mỹ. Tôi ngồi trên khán đài với các ông tướng tá,.và trong bài phát biểu của mình tôi nói tại sao tôi yêu nước Mỹ, kính trọng quân đội và chống lại cuộc chiến ở Việt Nam. Học sinh rất thích thú, và tôi nghĩ các quân nhân cũng đánh giá cao cách tôi thể hiện.
Ngày 26 tháng 6, tôi đáp máy bay đi New York, sau những cuộc chia tay đầy xúc động, đặc biệt là với Frank Aller, Paul Parish và David Edwards, lần này là chia tay thật. Thế là kết thúc hai năm đặc biệt nhất trong cuộc đời tôi. Quãng thời gian bắt đầu từ đêm trước cuộc bầu cử của Nixon và kết thúc khi ban nhạc Beatles tuyên bố tan vỡ và phát hành bộ phim cuối cùng của họ cho các fan yêu mến và đang rầu rĩ. Tôi đã đi du lịch rất nhiều và tôi rất thích. Tôi cũng phiêu lưu đến những góc xa xôi của tâm hồn và trái tim mình, vật lộn với tình cảnh đi quân dịch, sự mơ hồ nước đôi của hoài bão, và khả năng kém cỏi đến mức không có gì ngoài những mối quan hệ ngắn ngủi với phụ nữ. Tôi chưa có bằng cấp, nhưng tôi đã học được rất nhiều. "Con đường dài và ngoằn ngoèo" (tên một bài hát của Beatles - ND) của tôi đã dẫn tôi về nhà, và tôi hy vọng, như Beatles hát trong bài "Hey Jude", ít ra tôi có thể "đem một bài hát buồn và làm cho nó hay hơn".