← Quay lại trang sách

Chương 18 (tt)

Có rất ít người da đen, phần lớn tập trung ở Fort Smith; Hot Springs, thành phố lớn thứ hai của quận; và ở các thị trấn thung lũng của sông là Russellville và Dardanelle ở phần đông nam của quận. Giới lao động có tổ chức hiện diện khá mạnh mẽ ở Fayetteville, Fort Smith và Hot Springs nhưng ở những nơi khác thì không nhiều. Do đường núi xấu và vì quá nhiều xe hơi và xe tải nhỏ cũ kỹ, quận này có mức độ tiêu thụ xăng trên đầu xe có đăng ký cao nhất nước Mỹ, một yếu tố không hề nhỏ nếu xét đến giá cả càng tăng và sự thiếu hụt xăng. Quận cũng có tỷ lệ phần trăm cựu chiến binh tàn tật cao nhất trong các quận nghị viện. Dân biểu Hammerschmidt là cựu chiến binh Thế chiến hai rất ưu ái các cựu chiến binh. Trong kỳ bầu cử trước, các lực lượng xã hội và bảo thủ tài chính đã tràn ngập những người cốt cán phe Dân chủ cũng như những người theo chủ nghĩa dân túy kinh tế khi Nixon đánh bại McGovern 76% so với 26 %. Hammerschmidt được 77%. Hèn gì chẳng ai khác muốn tham gia đua tranh.

Vài ngày sau khi Hillary đi, Carl Whillock dẫn tôi đi vận động tranh cử lần đầu tiên cho mình, một chuyến vòng qua các hạt phía bac quận. Đầu tiên chúng tôi dừng ở hạt Carroll. Ở Berryville, một thị trấn khoảng 1.300 dân, tôi đến thăm cửa hàng của Si Bigham, một người Dân chủ nổi trội ở địa phương, ông tiếp tôi cùng với đứa cháu bốn tuổi của ông. Hơn 20 năm sau, chú nhóc đó, tên Kris Engskov, sẽ trở thành trợ lý riêng của tôi trong Nhà Trắng. Tôi cũng gặp mục sư Giám lý địa phương là Vic Nixon và vợ ông, bà Freddie. Họ là những người Dân chủ cấp tiến phản đối chiến trạnh Việt Nam, và họ đồng ý ủng hộ tôi. Hóa ra họ đã làm nhiều hơn thế. Freddie trở thành điều phối viên trong hạt cho tôi, lay chuyển mọi thủ lĩnh ở các khu vực bỏ phiếu, và sau này làm việc cho tôi trong văn phòng thống đốc, nơi bà không ngừng thuyết phục tôi rằng án tử hình là một điều sai lầm. Khi Hillary và tôi cưới nhau, Vic điều hành buổi lễ.

Chúng tôi lái xe qua phía tây tới hạt Boone rồi lái tiếp tới Mountain Home, thủ phủ của hạt Baxter, hạt cực đông bắc của quận. Carl muốn tôi gặp doanh nhân Hugh Hackler, người lập tức bảo tôi là ông ấy đã cam kết ủng hộ một ứng viên khác trong kỳ bầu cử sơ bộ. Dù vậy, chúng tôi vẫn nói chuyện. Khi ông ấy biết tôi quê ở Hot Springs, ông bảo tôi Gabe Crawford là bạn tốt của ông ấy. Khi tôi đáp Gabe từng là bạn tốt nhất của bố dượng tôi, Hugh thôi cam kết ủng hộ người kia và chuyển qua tôi. Tôi còn gặp Vada Sheid, chủ một tiệm đồ gỗ và là thủ quỹ của hạt. Bà ấy để ý thấy một nút áo tôi bị rớt và đính lại cho tôi khi chúng tôi đến thăm. Ngày hôm đó bà cũng trở thành ủng hộ viên của tôi. Bà ấy sau này không bao giờ đính nút áo cho tôi nữa, nhưng sau khi tôi làm thống đốc và bà vào thượng viện của tiểu bang, các lá phiếu của bà thường cứu nguy cho tôi bằng nhiều cách.

Sau khi rời Mountain Home, chúng tôi lái xuống phía nam tới hạt Searcy. Chúng tôi dừng ở St. Joe, chỉ có khoảng 150 dân, để gặp chủ tịch đảng Dân chủ địa phương là Will Goggins. Will đã hơn 80 tuổi, nhưng vẫn sắc bén như dao, cơ thể khỏe mạnh, và vẫn nồng nhiệt với chính trị. Khi ông ấy nói là sẽ ủng hộ tôi, tôi biết điều này sẽ mang lại nhiều phiếu, như các bạn sẽ thấy. Ở thủ phủ hạt là Marshall, tôi gặp George Daniel, điều hành tiệm máy móc và kim khí địa phương. Em trai George tên James, sinh viên trường luật và là người cho tôi một trong những khoản đóng góp một ngàn đôla đầu tiên; anh trai của George - Charles là bác sĩ của hạt. Tôi tha hồ mà cười vì thói khôi hài thôn dã của George và học được một bài học nhớ đời. Một hôm có một cựu binh Việt Nam từng xa quê nhiều năm đến cửa hàng của anh ấy và mua một khẩu súng lục. Người này nói anh ta muốn đi tập bắn mục tiêu. Ngày hôm sau anh ta giết chết sáu người. Hóa ra người này vừa mới ra khỏi Fort Roots, nơi chữa các vấn đề tâm thần cho cựu chiến binh của liên bang ở bắc Little Rock; người này đã điều trị ở đây nhiều năm, rõ ràng là vì những trầm uất sau khi tham gia chiến tranh. Phải mất một thời gian dài George mới vượt qua được sự cố ấy. Và đó là lập luận thuyết phục nhất tôi có được để ủng hộ việc phải kiểm tra lai lịch người mua súng theo đòi hỏi của dự luật Brady mà tôi ký thông qua thành luật năm 1993. Tính từ khi ấy đã phải có thêm 19 năm của những giết chóc có thể tránh được bởi những kẻ có tiền án, bọn bị ám ảnh hoang tưởng và những người bị tâm thần.

Khi Carl và tôi quay về Fayetteville, tinh thần tôi còn cao hơn diều gặp gió. Tôi vốn thích kiểu chính trị "bán lẻ" khi tôi còn làm việc cho các ứng viên khác. Giờ đây tôi thực sự thích thú đi vào những thị trấn nhỏ, hoặc dừng chân ở các cửa hàng trong hạt, các quán cà phê, và các trạm xăng dọc đường. Tôi thực ra chưa bao giờ giỏi xin tiền, nhưng tôi thích ghé vào nhà hoặc cơ sở kinh doanh của mọi người và đề nghị họ bỏ phiếu cho tôi. Ngoài ra, biết đâu đấy lại có thể gặp một nhân vật đầy màu sắc nào đó, nghe được một câu chuyện thú vị, học được điều gì đó đáng biết, hay kết được bạn mới.

Ngày đầu tiên trong chiến dịch vận mở đầu cho nhiều ngày khác giống như thế. Cứ sáng ra là tôi lên đường từ Fayetteville, đi càng nhiều thị trấn và hạt càng tốt cho đến tận đêm khuya, rồi quay vê nhà nếu ngày hôm sau tôi có giờ dạy, hoặc nếu không có giờ dạy thì tôi ở lại nhà một người phe Dân chủ hiếu khách nào ấy để có thể đi qua hạt tiếp theo vào sáng hôm sau.

Ngày chủ nhật kế tiếp tôi đi qua phía đông để hoàn tất nốt các hạt trên núi. Suýt nữa thì tôi không tới được. Tôi quên đổ xăng chiếc American Motors Gremlin đời 1970 của tôi trước kỳ nghỉ cuối tuần. Vì nạn thiếu hụt xăng, luật liên bang đòi hỏi các trạm xăng phải đóng cửa ngày chủ nhật. Nhưng tôi phải lên miền núi. Tuyệt vọng, tôi gọi điện cho chủ tịch của công ty khí đốt tự nhiên địa phương của chúng tôi là Charles Scharlau và hỏi xin ông một bình xăng ở trạm bơm trong sân để thiết bị của ông ấy. Ông ấy bảo tôi ghé xuống đó ông ấy sẽ lo liệu. Thật kinh ngạc là đích thân ông ấy ra đổ đầy bình cho tôi. Chính Charles Scharlau đã đơn thương độc mã giúp chiến dịch vận động đang lung lay của tôi được tiếp tục.

Đầu tiên tôi lái xe đến Alpena để gặp chủ tịch đảng Dân chủ của hạt là Bo Ểorney, người tôi không kịp gặp trong lần đầu tôi ghé lại đây. Tôi dễ dàng tìm thấy căn nhà nhỏ của ông ấy. Ở sân trước có đậu một chiếc xe pick-up (xe tải nhỏ, không mui, thành thấp - ND) với giá gắn súng, một dụng cụ tiêu chuẩn của đàn ông vùng núi. Bo đón tôi ở cửa trước, mặc quần jean và một áo thun trắng choàng ra bên ngoài vòng bụng dư thừa của ông ấy. Ông ấy đang xem tivi và không nói gì nhiều khi tôi thuyết phục ông ấy ủng hộ tôi. Tôi nói xong, ông ấy nói rằng cần phải hạ Hammerschidt, và rằng mặc dù ông ta sẽ thắng vượt trội ở thị trấn quê nhà Harrison, ông ấy nghĩ chúng tôi có thể đạt kết quả khá ở các vùng quê của hạt Boone. Rồi ông ấy cho tôi tên những người cần gặp, và tiếp tục xem tivi. Tôi không biết phải nghĩ thế nào về Bo cho đến khi tôi nhìn kỹ hơn chiếc xe pick-up của ông ấy lúc trở ra xe. Trên cản xe có một khẩu hiệu viết "Đừng có trách tôi chứ, tôi bỏ phiếu cho McGovern mà". Sau này, khi tôi hỏi Bo về cái khẩu hiệu trên cản xe đó, ông ấy bảo ông ấy không cần biết các nhà phê bình nói gì về McGovern, những người Dân chủ ủng hộ dân thường còn phe Cộng hòa thì không, và mọi chuyện chỉ đơn giản thế thôi. Khi tôi làm tổng thống thì Bo đã già và bệnh, người bạn chung của chúng tôi và là một người Dân chủ đến cực đoan Levi Phillips đưa ông ấy tới nghỉ đêm với chúng tôi ở Nhà Trắng. Bo vui vẻ, nhưng không chịu ngủ trong Phòng ngủ Lincoln. Ông ấy không thể tự tha thứ về những chi xài vung vít của phe Cộng hòa trong Thời kỳ Tái thiết sau Nội chiến, hoặc cho sự tận tụy của phe Cộng hòa đối với người giàu và có quyền trong suốt thế kỷ 20. Bây giờ thì cả Bo và ông Lincoln đều đã lên thiên đàng, tồi thích nghĩ rằng họ đã cùng với nhau giải quyết những bất đồng rồi.

Sau Alpena, tôi đi Flippin, một thị trân khoảng 1.000 dân ở hạt Marion, nơi có nhiều đường chưa được trải nhựa hơn bát cứ hạt nào trong tiểu bang của chúng tôi. Tôi đến gặp hai thanh niên mà tôi muốn nhờ họ điều hành chiến dịch vận động của tôi ở đó - Jim Red Milligan và Kearney Carlton. Họ để tôi ngồi giữa họ trên xe pick-up của Red và phóng ra một con đường đất lên Everton, một nơi bé tẹo trong khu vực hẻo lánh nhất của hạt, để gặp Leon Swofford, người sở hữu cửa hiệu duy nhất ở đó và nếu ủng hộ tôi thì tôi có thể kiếm được vài trăm phiếu. Ra khỏi thị trân khoảng 10 dặm, Red dừng xe giữa đồng không mông quạnh. Chúng tôi bị bụi bao phủ. Anh ta lôi ra một gói thuốc lá nhai Red Man, bỏ một miếng vào mồm, rồi đưa cho Kearney để anh này lấy một miếng. Sau đó Kearney đưa cho tôi và nói, "Chúng tôi muốn thử chất của anh. Nếu anh đủ ngon để nhai thuốc lá này, chúng tôi sẽ ủng hộ anh. Nếu không, chúng tôi sẽ bỏ anh lại đây để tự đi bộ về thị trấn". Tôi suy nghĩ và nói, "Thế thì mở cửa xe ra". Họ nhìn chằm chằm vào tôi khoảng năm giây, rồi phá lên cười và tiếp tục lái xe đến cửa hiệu của Swofford. Chúng tôi đạt được cam kết bỏ phiếu ở đây, và trong nhiều năm sau còn đạt được nhiều thứ hơn nữa. Nếu họ đánh giá tôi theo khẩu vị của tôi với thuốc lá Red Man thì giờ này tôi chắc vẫn còn loanh quanh trên mấy con đường ở hạt Marion.

Vài tuần sau, tôi lại bị thử kiểu như thế nữa. Tôi đang ở Clarksville trong thung lũng sông Arkansas cùng với lãnh đạo hạt 20 tuổi là Ron Taylor, xuất thân dòng dõi gia đình chính trị và thông thạo chính trị trước tuổi. Anh này đưa tôi đến hội chợ để gặp cảnh sát trưởng của hạt, người mà Ron bảo chúng tôi phải chiếm được sự ủng hộ nếu muốn thắng ở hạt này. Chúng tôi tìm thây ông ta ở chỗ đua ngựa chứng, đang ghì cương một con ngựa. Kỳ biểu diễn cưỡi ngựa chứng chuẩn bị bắt đầu bằng một cuộc diễu hành ngựa quanh vũ đài. Ông cảnh sát trưởng trao cương ngựa cho tôi và bảo tôi tham gia diễu hành và sẽ được giới thiệu với đám đông. Ong ta hứa là con ngựa này ngoan ngoãn. Lúc ấy tôi đang mặc bộ vest sẫm, đeo cà vạt và mang giày mũi nhọn. Từ hồi lên năm đến giờ tôi đâu có cưỡi ngựa, mà hồi ấy cũng chỉ để chụp ảnh khi mặc quần áo cao bồi. Tôi đã từ chối nhai thuốc lá, nhưng tôi cầm lấy cương và leo lên ngựa. Tôi nghĩ, xem phim cao bồi cả đời rồi, có khó gì đâu? Khi lễ khai mạc bắt đầu, tôi đường hoàng cưỡi ngựa ra vũ dài. Khoảng 1/4 đường quanh vũ đài, ngay sau khi tôi được giới thiệu, con ngựa dừng lại, nhổng hai chân trước lên và lùi lại. Thật thần kỳ là tôi không bị ngã. Đám đông vỗ tay. Tôi đoán là họ nghĩ tôi cố tình làm thế. Ồng cảnh sát trưởng thì biết chuyện hơn, nhưng dù sao ông ta cũng ủng hộ tôi.

Tôi hoàn tất chuyến đi vận động trong rặng Ozarks tại hạt Newton, một trong những nơi đẹp nhât ở Mỹ, nơi có dòng sông Buffalo mà gần đây được chỉ định là dòng sông đầu tiên được quốc hội bảo vệ theo Đạo luật Những dòng sông hoang dã và đẹp. Đầu tiên tôi dừng chân ở Pruitt, một khu định cư nhỏ trên bờ sông Buffalo, để gặp Hilary Jones. Dù sông trong một căn nhà khiêm tốn, ông ấy làm nghề thầu xây đường và có lẽ là người giàu có nhất trong hạt. Di sản Dân chủ trong gia đình ông ấy có từ thời Nội chiến và trước nữa, và ông ấy có đủ sách gia phả để chứng tỏ điều này. Ông ấy gắn bó cội rễ với đất đai dọc dòng sông. Trong thời kỳ Đại khủng hoảng, gia đình ông ấy đã mất rất nhiều đất, và khi ông ấy trở về sau Thế chiến hai, ông ấy đã làm lụng nhiều năm để mua lại được hết. Việc sông Buffalo được chọn là sông được bảo vệ đối với ông ấy là một cơn ác mộng khủng khiếp. Phần lớn các điền chủ dọc sông được trao quyền chủ đất suốt đời; trong đời họ, họ không thể bán đất cho ai khác ngoài chính quyền; và khi họ chết thì chỉ có chính quyền mới được mua đất của họ. Vì khu đất nhà Hilary ở ngay trên xa lộ chính nên chính quyền sẽ lấy lại đất này bằng quyền tịch thu không bồi thường trong tương lai gần và biến nó thành một phần của khu vực hành chính. Ông ấy và vợ, bà Margaret, có tám người con. Họ muốn con họ được hưởng đất. Trong khu đất của họ có một nghĩa trang cổ, nơi chôn cả những người từ thế kỷ 18. Mỗi khi có ai chết cô độc hoặc trong cảnh cùng cực, Hilary bỏ tiền ra để họ được chôn cất trong nghĩa địa này. Tôi ủng hộ việc bảo vệ sông, nhưng tôi nghĩ lẽ ra chính quyền nên để cho những người chủ đất giữ lấy đất của họ theo chế độ bảo tồn phong cảnh, điều khoản này sẽ không cho phép xây cất gì thêm hoặc làm xuống cấp môi trường nhưng cho phép các gia đình được để lại đất đai từ thế hệ này cho thê hệ khác. Khi tôi làm tổng thống, những gì tôi biết về người dân ở Buffalo làm tôi hiểu hơn bất cứ một người Dân chủ nào khác về những khó chịu của các chủ trại miền tây khi những cân nhắc về môi trường xung đột với điều mà họ coi là đặc quyền của họ.

Hilary Jones cuối cùng cũng thua cuộc với chính quyền. Điều ấy làm ông ta xính vinh, nhưng không thể giết được niềm đam mê chính trị của ông; ông chuyển đến nhà mới và lại tiếp tục. Ông ấy đến thăm tôi và Hillary trong Nhà Trắng, một đêm đáng nhớ. Ông ấy suýt khóc khi Hillary dẫn ông ấy vào phòng bản đồ để cho ông ấy xem tấm bản đồ mà F. Roosevelt dùng khi ông ấy mất ở Warm Springs, Georgia, năm 1945. Ông ấy sùng bái F. Roosevelt. Không giống như Bo Forney, ông ấy ngủ lại tại Phòng ngủ Lincoln. Khi ông ấy đến thăm chúng tôi ở Nhà Trắng, tôi đùa ông về chuyện ngủ trong phòng Lincoln mà Bo từng từ chối. Hilary bảo ít nhất thì ông cũng "ngủ ở phía giường dưới ảnh của Andrew Jackson".

Từ ngày tôi gặp ông đến ngày tôi từ Nhà Trắng bay về để phát biểu tại tang lễ ông ấy, Hilary Jones là người của tôi ở hạt Newton. Ông ấy mang trong mình một tinh thần hoang dại, đẹp đẽ của một nơi đặc biệt mà tôi đã yêu mến ngay từ lần đầu nhìn thây nó năm 16 tuổi.

Thủ phủ của hạt là thị trấn Jasper chỉ có chưa tới 400 dân. Có hai tiệm ăn, một thì phe Cộng hòa hay tới, một thì phe Dân chủ hay tới. Người tôi muốn gặp tên là Walter Brasel, sống ngay dưới tiệm của phe Dân chủ; vợ ông ấy điều hành tiệm ăn này. Tôi đến đó vào sáng chủ nhật, ông ấy vẫn còn đang ngủ. Khi tôi ngồi trong phòng khách nhỏ, ông ấy dậy và bắt đầu mặc quần trong khi cửa thông phòng ngủ với phòng khách vẫn còn để mở. Ông vẫn chưa tỉnh ngủ han, trượt chân, và phốp pháp đến mức lăn vài vòng đến vài mét ra ngoài phòng khách. Tôi cần sự ủng hộ của ông ấy nên tôi không thể cười. Nhưng ông ấy thì có. Ông bảo ông từng trẻ trung, gầy và nhanh nhẹn một thời, từng là hậu vệ ngăn chặn của đội bóng rổ trường Trung học Coal Hill mà ông dẫn dắt đoạt chức vô địch tiểu bang từ tay trường Trung học Central Little Rock vào thập niên 30; ông ấy lên ký trong những năm làm tay bán rượu lậu của hạt và giảm được nữa. Một lúc sau ông ấy bảo ông sẽ ủng hộ tôi, có chỉ để cho xong và có thể quay về giường ngủ lại.

Tiếp đó, tôi lái xe ra miền quê để gặp Bill Fowler, ông này có trang trại ở Boxley. Bill từng làm đại diện của Arkansas trong Sở Đất đai nông nghiệp và Bảo tồn dưới thời Johnson. Khi chúng tôi đứng ở triền đồi với một quang cảnh núi tuyệt đẹp, ông ấy nói sẽ ủng hộ tôi, nhưng ông không cho rằng Hammerschmidt "sẽ bị dính phân của Nixon đến mức thối inh lên trong ngày bầu cử". Rồi ông cho biết đánh giá của mình về tổng thống: "Tôi không thích thú gì khi nói điều này về một người Cộng hòa, nhưng Nixon lẽ ra có thể trở thành một tổng thống tuyệt vời. Ông ta thông minh và đầy gan góc. Nhưng ông ta thật đáng thương, và ông ta không thể thoát ra khỏi cảnh ấy". Suốt dọc đường về Fayetteville, tôi cứ nghĩ về điều ông ấy nói.

Trong những tuần đầu của chiến dịch, ngoài thứ chính trị bán lẻ, tôi còn cố lo liệu chuyện hậu cần bộ máy. Như tôi đã đề cập, bác Raymond và Gabe Crawford cùng ký một ngân phiếu 10 ngàn đôla để giúp tôi khởi sự, và tôi bắt đầu quyên tiền, đầu tiên chủ yếu là ở khu vực Fayetteville rồi tiếp theo ở các nơi khác trong quận và trong bang. Nhiều bạn tôi từ hồi Georgetown, Oxford và Yale cũng như trong các chiến dịch cho McGovern và Duffey gửi đến những ngân phiếu nho nhỏ. Người đóng góp lớn nhất cho tôi là bạn tôi Anne Bartley, con gái riêng của vợ Thông đốc Winthrop Rockerfeller, cô này về sau điều hành văn phòng của tiểu bang Arkansas tại thủ đô Washington khi tôi làm thống đốc. Tựu chung lại có hàng ngàn người cho tiền, thường là bằng các đồng một, năm hay 10 đôla bỏ vào giỏ mà chúng tôi truyền đi trong các cuộc tập hợp.

Ngày 25 tháng 2, tôi chính thức tuyên bố ra tranh cử với gia đình tôi và một ít bạn bè ở lữ quán Avanelle, nơi mỗi sáng mẹ hay uống cà phê trước khi đi làm.

Bác Raymond cho tôi một căn nhà nhỏ tại một vị trí thuận lợi để làm tổng hành dinh ở Hot Springs. Mẹ, người hàng xóm của tôi ở đại lộ Park là Rose Crane, và Bobby Hargraves - một luật sư trẻ có chị cùng làm việc với tôi ở Washington, đã tạo ra một hệ thống hoạt động hạng nhất. Rose sau này chuyển đến Little Rock và phục vụ dưới chính quyền của tôi khi tôi làm thống đốc, nhưng mẹ thì tiếp tục phát triển tổ chức và vận hành nó trong các cuộc vận động tiếp theo. Tổng hành dinh chính nằm ở Fayetteville, nơi bạn làm ngân hàng của tôi là George Shelton nhận làm chủ tịch chiến dịch và F. H. Martin, một luật sư trẻ cùng chơi bóng rổ với tôi, đứng ra làm thủ quỹ. Tôi mướn một căn nhà cũ ở đại lộ College, phần lớn do sinh viên điều hành trong tuần và do một mình cô con gái 15 tuổi Marie Clinton của em họ tôi là Roy điều hành vào dịp cuối tuần. Chúng tôi sơn những tấm biển lớn mang dòng chữ CLINTON TRANH CỬ VÀO QUỐC HỘI và dán ở hai bên hông nhà. Mấy tấm biển này bây giờ vẫn còn, bị sơn chồng lên nhiều thứ mỗi lần chủ mới đến. Hiện nay trên tấm biển ấy chỉ còn vài chữ: Ở ĐÂY NHẬN XĂM MÌNH. Sau này, người bạn thời thơ ấu của tôi là Patty Howe mở một tổng hành dinh ở Fort Smith, và các tổng hành dinh khác cũng mọc lên trong quận khi chúng tôi tiến gần đến ngày bầu cử.

Khi tôi tới Little Rock vào ngày 22 tháng 3, tôi đã có ba đối thủ: Thượng nghị sĩ tiểu bang Gene Rainwater, một người Dân chủ bảo thủ để đầu đinh quê Greenwood, ngay phía nam của Fort Smith; David Stewart, một luật sư trẻ đẹp trai quê ở Danville của hạt Yell; và Jim Scanlon, viên thị trưởng cao ráo, quảng giao của Greenland, cách Fayetteville vài dặm về phía nam. Tôi ngại nhất là Stewart vì anh này hấp dẫn, biết ăn nói và lại đến từ hạt quê gốc của dòng họ Clinton, nơi tôi hy vọng sẽ ủng hộ tôi.

Sự kiện chính trị lớn đầu tiên của chiến dịch là vào ngày 6 tháng 4: Cuộc tập hợp Thung lũng sông ở Russellville, một thành phố đại học ở rìa phía đông của quận. Đó là một sự kiện bắt buộc, và tất cả các ứng viên cho các chức vụ tiểu bang, liên bang và địa phương đều có mặt, trong đó có Thượng nghị sĩ Fulbright và Thống đốc Bumpers. Thượng nghị sĩ Robert Byrd của bang Tầy Virginia là diễn giả chính. Ông phát biểu một bài giảng đạo kiểu xưa và giải trí cho đám đông bằng cách chơi vĩ cầm. Sau đó đến lượt các ứng viên phát biểu, các ứng viên quốc hội được lên lịch nói cuối cùng. Khi mỗi ứng viên đều đã nói xong ba đến năm phút thì đã quá 10 giờ. Tôi biêt đến lượt chúng tôi lên nói, đám đông sẽ mệt và chán, nhưng tôi quyết định liều và chọn nói cuối cùng. Tôi nghĩ đó là cơ hội duy nhất của mình để tạo ấn tượng.

Tôi đã chuẩn bị kỹ bài nói và ép nó xuống còn hai phút. Đó là một lời kêu gọi đầy tâm huyết cho một quốc hội mạnh mẽ hơn, đại diện cho người dân thường chống lại việc tập trung quyền lực trong tay chính quyền Cộng hòa và những quyền lợi kinh tế của đồng minh của nó. Dù tôi đã viết bài nói ra, lúc lên nói tôi chỉ dựa theo trí nhớ và để hết tâm lực vào. Một cách nào đấy bài nói hợp với khán giả, những người đã mệt vì một buổi tối kéo dài lại tìm thấy được sức lực để đứng lên và hoan hô cổ vũ. Khi đám đông ra về, những tình nguyện viên của tôi phát cho họ bản sao bài diễn văn. Vậy là tôi khởi đầu thuận lợi.

Khi sự kiện kết thúc, Thống đốc Bumpers đến chỗ tôi. Sau khi khen ngợi bài nói của tôi, ông ta bảo ông biết tôi từng làm cho Thượng nghị sĩ Fulbright và nghĩ rằng thượng nghị sĩ không nên tìm cách hạ bệ ông ấy. Rồi ông ta làm tôi choáng váng khi nói, "Khoảng 12 năm nữa, cậu có thể sẽ đối mặt với quyết định tương tự về việc có tranh đua với tôi hay không. Nếu cậu nghĩ đó là việc đúng phải làm, thì cứ tranh cử, nhưng nhớ là chính tôi khuyên cậu làm như vậy đấy nhé". Dale Bumpers là một tay thật tinh khôn. Ông ấy cũng có thể kiếm sống thoải mái bằng nghề chuyên gia tâm lý lắm chứ.

Những tuần kế tiếp là một loạt những cuộc tập hợp, những kỳ mở đợt bán hàng giảm giá, các bữa ăn nhẹ, các hoạt động quyên tiền, và chính trị bán lẻ. Tôi được củng cố mạnh về tài chính và tổ chức khi tổ chức AFL-CIO (liên đoàn các tổ chức công đoàn Hoa Kỳ - ND) quyết định ủng hộ tôi trong cuộc họp của tổ chức này ở Hot Springs. Hiệp hội Giáo dục Arkansas cũng ủng hộ tôi vì tôi ủng hộ các khoản trợ giúp liên bang cho giáo dục.

Tôi dành nhiều thời gian ở các hạt mà người ta ít biết đến tôi và những hạt khó nắm bắt hơn vùng Ozark: hạt Benton ở cực tây bắc, các hạt nằm dọc hai bờ sông Arkansas, và các hạt ở phía tây nam trong rặng Ouachita. Ở hạt Yell, chiến dịch của tôi được điều hành bởi anh họ tôi Mike Cornwell, chủ nhà đòn địa phương. Vì anh ấy chôn cất phần lớn cư dân ở đây, anh ấy biết tất cả mọi người, và có một tính cách lạc quan giúp anh ấy tồn tại trong cuộc tranh đua khó nhọc chống lại người láng giềng của David Stewart của anh ở thị trấn Danville. Số người đóng vai trò tích cực trong chiến dịch vận động thật đáng ngạc nhiên: từ những thanh niên và doanh nhân trẻ đầy lý tưởng, các lãnh tụ lao động tài năng ở địa phương, đến các ủng hộ viên cốt cán của đảng Dân chủ, từ học sinh trung học cho đến những người già 70, 80 tuổi.

Đến trước ngày bầu cử sơ bộ, chúng tôi đã tổ chức tài tình hơn và làm việc cật lực hơn đối thủ. Tôi được 44% phiếu, Thượng nghị sĩ Rainwater chỉ vừa nhỉnh hơn David Stewart để lọt vào vòng hai với 26% so với 25%. Thị trưởng Scanlon, người không có tiền nhưng vẫn tham gia tranh đua, lấy nốt số phiếu còn lại.

Tôi nghĩ chúng tôi sẽ chiến thắng thoải mải trong vòng hai bầu cử loại trực tiếp ngày 11 tháng 6 trừ phi số người đi bầu quá ít, trong trường hợp ấy thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Tôi không muốn các ủng hộ viên của mình coi nhẹ lá phiếu và cảm thấy lo ngại khi chủ tịch đảng Dân chủ ở hạt Searcy là Will Goggins tuyên bố rằng tất cả việc bỏ phiếu ở hạt đó sẽ được tiến hành tại tòa án trên quảng trường ở Marshall. Như thế thì những người sống trên vùng quê cách chỗ bỏ phiếu 30, 40 dặm đường núi ngoằn ngoèo sẽ chẳng lái xe xuống để bỏ phiếu. Khi tôi gọi điện thuyết phục ông ấy mở thêm các điểm bỏ phiếu, Will cười và nói, "Này Bill, bình tĩnh nào. Nếu cậu không thắng nổi Rainwater, nếu không có đông người đi bỏ phiếu ở đây thì cậu không có cơ nào thắng nổi Hammerschmidt đâu. Tôi không đủ tiền để mở các điểm bỏ phiếu ở nông thôn khi chỉ 2,3 người đến bỏ phiếu đâu. Chúng ta sẽ cần đến số tiền đó vào tháng 11. Chúng tôi bỏ bao nhiêu phiếu thì cậu cũng phải chịu thôi".

Ngày 11 tháng 6, tôi thắng với tỷ lệ 69% so với 31%, ở hạt Searcy dù số cử tri đi bầu ít tôi vẫn thắng với tỷ lệ 177 trên 10 phiếu. Sau kỳ bầu cử tháng 11, khi tôi gọi Will để cám ơn ông ấy vì đã giúp đỡ, ông ấy bảo ông muốn nói để tôi khỏi băn khoăn một điều: "Tôi biết cậu cho rằng tôi gian lận trong cuộc bầu cử loại trực tiếp cho cậu, nhưng thực ra không hề. Trên thực tế, cậu thắng với tỷ lệ 177 trên chín phiếu. Tôi cho Rainwater thêm một phiếu vì tôi không chịu nổi khi thấy ai chưa được nổi đến 10 phiếu".

Chiến dịch tranh cử sơ bộ thật quá sức hạnh phúc đối với tôi. Tôi đã ném mình vào những môi trường không quen thuộc và học được nhiều khủng khiếp về mọi người - tác động của chính quyền lên cuộc sống của họ, quan điểm chính trị của họ được hình thành từ quyền lợi và giá trị của họ ra sao. Tôi cũng phải theo kịp lịch giảng dạy của mình. Thật khó khăn, nhưng tôi thích thú và tin rằng mình hoàn tất nó khá tốt ngoại trừ một lỗi lầm không thể tha thứ được. Sau khi cho thi vào mùa xuân, tôi phải chấm điểm trong khi chiến dịch tranh cử đang vào hồi quyết liệt nhất. Tôi đem các bài thi môn Luật hàng hải theo trên xe, vừa đi vừa chấm bài hoặc chấm vào ban đêm khi công việc vận động chấm dứt. Không biết vì sao trong khi di chuyển, tôi làm mất năm bài thi. Thật chết dở. Tôi cho mấy sinh viên này lựa chọn hoặc thi lại hoặc được qua tín chỉ không có điểm thi cụ thể. Họ đều chọn lấy tín chỉ, nhưng một trong số họ đặc biệt bực tức về chuyện này, vì cô ta là sinh viên giỏi và có lẽ đã được điểm A, và cũng vì cô ta là một người phe Cộng hòa trung thành từng làm việc cho Dân biểu Hammerschmidt. Tôi không nghĩ cô ta tha thứ cho tôi về chuyện làm mất bài thi của cô ấy hoặc chuyện tôi ra tranh cử với sếp của cô ấy. Chắc chắn tôi nghĩ về chuyện này khi hơn 20 năm sau, người sinh viên đó - thẩm phán liên bang Susan Webber Wright, trở thành quan tòa trong vụ kiện Paula Jones. Susan Webber Wright rất thông minh, và có lẽ tôi đã nên cho cô ấy điểm A. Dù gì đi nữa, đến kỳ tổng tuyển cử thì tôi xin nghỉ không lương ở trường luật.

Trong mùa hè tôi vẫn giữ nhịp độ bề bộn, chỉ nghỉ đến dự lễ tốt nghiệp trung học của em trai, dự họp lớp 10 trung học của tôi và một chuyến đi Washington thăm Hillary và gặp một số đồng nghiệp của cô ấy trong số nhân viên điều tra miễn chức. Hillary và tất cả đồng nghiệp của cô ấy làm việc đến kiệt quệ dưới các đòi hỏi khắc nghiệt của John rằng phải triệt để, công bằng và tuyệt đối kín miệng- Tôi lo cô ấy kiệt sức - cô ấy ốm chưa từng thấy, ốm đến mức cái đầu đáng yêu của cô ấy có vẻ như quá to so với thân người.

Vào kỳ nghỉ cuối tuần tôi đưa cô ấy đi nghỉ xả hơi ở Outer Banks ở Bắc Carolina. Chúng tôi có một kỳ nghỉ tuyệt vời bên nhau và tôi thực sự bắt đầu nghĩ rằng Hillary sẽ cùng tham gia chính trị với tổi ở Arkansas khi cuộc điều tra kết thúc. Hồi đầu năm trong chuyến đi tới Fayetteville, cô ấy được Hiệu trưởng Davis mời dự phỏng vấn cho một vị trí trong ban giảng huấn luật. Vài tuần sau cô ấy quay lại gây ấn tượng cho ủy ban tuyển dụng, và được đề nghị một công viêc nên bây giờ cô ấy có thể vừa dạy vừa hành nghề luật ở Arkansas. Vấn đề là liệu cô ấy có làm thế không. Vào thời điểm đó tôi lo chuyện cô ấy mệt mỏi và gầy ốm nhiều hơn.

Tôi trở về nhà với chiến dịch tranh cử và gặp phải vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng hơn nhiều trong gia đình tôi. Ngày 4 tháng 7, tôi nói chuyện ở tiệm Mount Nebo Chicken Fry lần đầu tiên kể từ khi tôi đại diện cho Frank Holt tại đây vào năm 1966. Jeff, mẹ và Rose Crane đi xe tới nghe tôi nói và giúp tôi vận động đám đông. Có thể thấy ngay Jeff không được khỏe, và tôi được biết ông ấy gần đây không làm việc gì nhiều lắm. Ông bảo đứng suốt ngày mệt quá. Tôi đề nghị ông lên Fayetteville ở vài tuần với tôi, làm việc qua điện thoại và góp tiếng nói người lớn trong việc điều hành tổng hành dinh. Ông đồng ý và có vẻ thích thú, nhưng vào buổi tối khi tôi đi vận động về nhà, tôi thấy ngay là ông ấy bệnh. Một tối tôi bị sốc khi thấy ông quỳ bên giường và nằm trải ra. Ông bảo nếu nằm ông không thở được và đang tìm cách để ngủ. Khi ông không thể làm việc cả ngày ở tổng hành dinh được nữa, ông quay về nhà. Mẹ bảo tôi rắc rối ông gặp phải chắc là hậu quả của bệnh tiểu đường hoặc là tác dụng phụ của thuốc mà ông dùng để chữa bệnh này trong nhiều năm. Tại bệnh viện VA ở Little Rock, người ta phát hiện ông bị bệnh to tim, thường làm suy kiệt và sưng phồng cơ tim. Rõ ràng là không có thuốc chữa khỏi chứng này. Jeff về nhà và cố tận hưởng phần đời còn lại. Vài ngày sau, khi về vận động ở Hot Springs, tôi gặp ông một lúc để uống cà phê. Ông chuẩn bị đến West Memphis đê coi đua chó, vẫn bảnh bao như mọi khi, mặc quần, áo và đi giày trăng. Đó là lần cuối tôi gặp ông.

Ngày 8 tháng 8, với vị thế của mình bị các đoạn băng chính mình ghi lại các cuộc nói chuyện với phụ tá làm lung lay, Tổng thống Nixon công bố ý định từ chức vào ngày hôm sau. Tôi nghĩ quyết dịnh của tổng thống là tốt đối với đất nước chúng tôi nhưng không lợi đối với chiến dịch tranh cử của tôi. Chỉ vài ngày trước thông báo này, Dân biểu Hammerschmidt đã bảo vệ Nixon và chỉ trích cuộc điều tra vụ Watergate trong một cuộc phỏng vấn đăng trên trang nhât của tờ Arkansas Gazette. Chiến dịch vận động của tôi đang có đà, nhưng một khi gánh nặng Nixon được cất khỏi vai Hammerschmidt, ta có thể thấy chiến dịch bắt đầu bị xì hơi.

Tôi lên tinh thần được một chút khi vài hôm sau Hillary gọi và báo cô ấy sẽ tới Arkansas. Bạn cô ấy là Sara Ehrman sẽ lái xe chở cô ấy về. Sara lớn hơn Hillary hơn 20 tuổi và đã nhìn thấy ở cô ấy triển vọng của các cơ hội đối với phụ nữ. Bà ấy cho rằng Hillary thật khùng khi đến Arkansas sau bao nhiêu việc đã làm được và có biết bao bạn bè ở Washington, nên bà ấy bỏ thời gian để đích thân lái xe đưa Hillary đi, cứ vài dặm lại cố làm cô ấy thay đổi quyết định. Khi họ đến Fayetteville đã là tối thứ bảy. Tôi đang ở một cuộc tập hợp tại Bentonville, cách đó không xa về phía bắc, nên họ lái xe đến gặp tôi. Tôi cố phát biểu cho hay, vừa cho đám đông vừa cho Hillary và Sara nghe. Tôi xuống bắt tay mọi người rồi chúng tôi quay về Fayetteville và trở về với tương lai của chúng tôi.

Hai ngày sau, mẹ gọi điện bảo tôi rằng Jeff đã chết trong khi ngủ. Ông ấy mới 48 tuổi. Mẹ suy sụp, và Roger cũng vậy. Đến lúc đó bà đã mất ba người chồng và em Roger đã mất hai người cha. Tôi lái xe về nhà và lo chuyện đám tang. Jeff muốn được thiêu nên chúng tôi phải gửi xác ông ấy đi Texas vì Arkansas lúc bấy giờ không có lò thiêu. Khi tro cốt của Jeff được gửi về, theo ý nguyện của ông nó được rải xuống hồ Hamilton gần nơi câu cá mà ông ưa thích nhất trong khi mẹ và Marge Mitchell - bạn bà đứng chứng kiến.

Tôi đọc bài điếu văn tại đám tang. Tôi cố mô tả bằng những từ ngữ ít ỏi tình yêu mà ông ấy dành cho mẹ; sự chỉ bảo ông ấy dành cho Roger; tình bạn và lời khuyên bảo thông thái ông dành cho tôi; lòng tốt bụng ông ấy dành cho trẻ em và những người gặp vận rủi; phẩm giá trong việc ông chịu đựng nỗi đau đớn của quá khứ cũng như căn bệnh cuối cùng trong đời ông. Đúng như Roger hay nói trong những ngày sau khi ông ấy mất, "Ông ấy cố gắng mãnh liệt biết nhường nào". Dù trước khi bước vào đời chúng tôi ông ấy có là gì đi nữa, trong sáu năm ngắn ngủi của mình với chúng tôi, ông ấy là một người rất tốt. Tất cả chúng tôi thấy thiếu vắng ông trong một thời gian dài.

Trước khi Jeff bệnh, tôi hầu như chẳng biết gì về bệnh tiểu đường. Căn bệnh đó đã giết chết chủ tịch chiến dịch vận động năm 1974 của tôi là George Shelton. Nó hành hạ hai người con của bạn tôi và cũng là cựu chánh văn phòng Erskine Bowles, cũng như hàng triệu người Mỹ khác, trong đó tỷ lệ người thiểu số bị bệnh không cân xứng với tỷ lệ người Mỹ bình thường. Khi tôi trở thành tổng thống, tôi biết tiểu đường và các biến chứng của nó chiếm đến 25% chi phí của chương trình Medicaid. Đó là lý do lớn tại sao khi làm tổng thống tôi ủng hộ việc nghiên cứu tế bào gốc và một chương trình tự chăm sóc cho bệnh nhân tiểu đường mà Hiệp hội Tiểu đường Hoa Kỳ gọi là bước tiến quan trọng nhất trong việc chữa trị chăm sóc bệnh nhân tiểu đường kể từ khi người ta chế được insulin. Tôi làm thế cho những đứa con của Erskine, cho George Shelton, và cho Jeff, người mà tôi chắc là không mong gì hơn là tránh cho những người khác nỗi đau đớn và kết cục quá sớm như ông ấy.

Vài ngày sau đám tang, mẹ giục tôi - theo cách "đứng dậy và tiếp tục lên đường" của bà ấy - quay trở lại với chiến dịch tranh cử. Chính trị tạm dừng khi có việc tang chế, nhưng không dừng lâu. Thế là tôi quay lại làm việc, tuy nhiên tôi chắc chắn gọi điện thoại và thăm mẹ thường xuyên hơn, nhất là sau khi Roger đi Conway để học trường Hendrix vào mùa thu. Nó lo cho mẹ quá đến mức suýt không đi nữa. Mẹ và tôi cuôì cùng thuyết phục được nó.

Khi tháng 9 đến, tôi vẫn bị dẫn điểm trong cuộc trứng cầu dân ý 59% so với 23% sau tám tháng hoạt động cực nhọc. Thế rồi tôi gặp may. Ngày 8 tháng 9, năm ngày trước kỳ đại hội đảng Dân chủ tiểu bang ở Hot Springs, Tổng thống Ford ban lệnh ân xá vô điều kiện cho Richard Nixon đối với tất cả các tội mà ông này "phạm hoặc không phạm" khi còn làm tổng thống. Cả nước quyết liệt không tán đồng. Thế là chúng tôi lại tiếp tục có chuyện làm.

Tại đại hội tiểu bang, tất cả sự chú ý dồn yào cuộc tranh đua của tôi. Thống đốc Bumpers đã đánh bại Thượng nghị sĩ Fulbright với dẫn điểm xa trong cuộc bầu cử sơ bộ, và chẳng còn thách thức nghiêm túc nào trong các cuộc bỏ phiếu. Tôi không thích thấy Fulbright bị thua, nhưng điều đó không thể tránh được. Các đại biểu tại đại hội đều sẵn sàng và chúng tôi đổ thêm dầu vào lửa bằng cách đưa ban bè quê nhà và thêm nhiều ủng hộ viên từ khắp quận đến đầy Trung tâm hội nghị Hot Springs.

Tôi nói một bài bốc lửa, hùng hồn thể hiện niềm tin của mình theo cách thức mà tôi hy vọng là sẽ đoàn kết được các phần tử bảo thủ và dân túy cấp tiến trong quận lại. Tôi mở đầu bằng cách tấn công việc Tổng thống Ford ân xá cho cựu tổng thống Nixon. Một trong những câu nói khá trong bài của tôi là: "Nếu Tổng thống Ford muốn ân xá ai đó, ông ta nên ân xá cho các cố vấn kinh tế của chính quyền".

Nhiều năm sau, tôi đổi ý về việc ân xá cho Nixon. Tôi đã hiểu rằng đất nước cần phải tiếp tục đi tới, và tôi tin Tổng thống Ford đã làm điều đúng, dù không được dân chúng ủng hộ lắm; và tôi cũng nói như vậy khi chúng tôi tụ họp lại vào năm 2000 để kỷ niệm 200 năm Nhà Trắng. Nhưng tôi vẫn không đổi ý về các chính sách kinh tế của phe Cộng hòa. Tôi vẫn tin F. D. Roosevelt đúng khi nói, "Chúng ta vẫn biết chỉ vì quyền lợi cá nhân không thôi là vô đạo đức. Bây giờ chúng ta biết thêm rằng điều ấy là chính sách kinh tế tồi". Câu nói ấy ngày nay có thể áp dụng còn đúng hơn là hồi năm 1974.

Chúng tôi rời Hot Springs trong thắng lợi. Chỉ còn bảy tuần nữa để chúng tôi có cơ hội, nhưng quá nhiều việc phải làm. Hoạt động ở tổng hành dinh của chúng tôi ngày càng tốt hơn. Những tình nguyện viên giỏi nhất của tôi đang trở thành những tay chuyên nghiệp có kinh nghiệm.

Họ nhận được vài gợi ý hay từ người mà đảng Dân chủ cử xuống giúp chúng tôi. Tên ông ấy là Jody Powell, và sếp của ông ấy là Thống đốc Jimmy Carter của bang Georgia, từng đóng vai trò dẫn đầu trong việc giúp phe Dân chủ thắng lợi vào năm 1974. Vài năm sau, khi Jimmy Carter tranh cử tổng thống, nhiều người trong chúng tôi nhớ đến và biết ơn ông. Khi Hillary đến với tôi, cô ấy cũng giúp đỡ, cả cha và em trai cô ấy là Tony cũng vậy. Tony trương các bảng hiệu vận động khắp Arkansas và bảo những nhân vật Cộng hòa vê hưu ở vùng Trung Tây rằng gia đình nhà Rodham cũng là dân Cộng hòa Trung Tây, nhưng tôi là người chơi được đấy.

Nhiều sinh viên luật của tôi tỏ ra là những tài xế đáng tin cậy- Khi nào cần thiết trong chiến dịch tranh cử vào quốc hội của mình, có vài chiếc máy bay tôi có thể dùng để di chuyển. Một trong các phi công của tôi, ông Jay Smith 67 tuổi, bịt một mắt và không được đào tạo bài bản nhưng đã bay trong rặng Ozark 40 năm qua. Thường thì mỗi lần gặp thời tiết xấu, ông ấy lượn xuống dưới mây và bay theo thung lũng của sông xuyên qua rặng núi, trong khi đó vẫn kể chuyện cho tôi nghe hoặc ba hoa về chuyện Thượng nghị sĩ Fulbright biết trước tất cả những người khác rằng dính líu vào Việt Nam là sai lầm.

Steve Smith thì xuất sắc khi nghiên cứu các vấn đề và lịch sử bỏ phiếu ủng hộ hay chống các vấn đề ấy của Hammerschmidt. Anh ấy đề ra một loạt các truyền đơn độc đáo so sánh quan điểm của tôi về các quan điểm với các lá phiếu ông ta bỏ về các vấn đề ấy, và cứ một tuần một lần chúng tôi lại tung ra một truyền đơn như vậy trong sáu tuần cuối của chiến dịch. Các truyền đơn này được báo chí địa phương chú ý, và Steve biến truyền đơn thành các quảng cáo báo chí hiệu quả. Thí dụ như khu vực thung lũng sông Arkansas từ Clarksville đến biên giới với Oklahoma ở phía nam Fort Smith đầy thợ mỏ than từng làm việc hàng chục năm ở các mỏ than lộ thiên làm lở lói khung cảnh cho đến khi luật liên bang buộc phải khôi phục lại vùng đất này. Nhiều thợ mỏ bị chứng phổi đen sau bao nhiêu năm hít bụi than và được quyền hưởng các ưu đãi từ phía chính quyền liên bang, nhưng khi chính quyền Nixon muốn cắt giảm chương trình trợ cấp này thì Hammerschmidt lại bỏ phiếu ủng hộ cắt giảm. Dân trong thung lũng sông không biết điều đó cho đến khi Steve Smith và tôi bảo cho họ biết.

Tôi cũng có một số đề nghị tích cực khác, một số trong các đề nghị này tôi ủng hộ trong 20 năm, bao gồm một hệ thống thuế công băng hơn, chương trình bảo hiểm y tế toàn quốc, dùng tiền quyên góp công khai cho các cuộc bầu cử tổng thống, bộ máy liên bang gọn nhẹ và hiệu quả hơn, tăng chi ngân sách giáo dục liên bang và lập ra Bộ Giáo dục liên bang (lúc đó nó vẫn chỉ là một văn phòng trong Bộ Y tế, Giáo dục và An sinh), và các sáng kiến khuếch trương dự trữ năng lượng cũng như sử dụng năng lượng mặt trời.

Chủ yếu nhờ vào sự ủng hộ tài chính của các nghiệp đoàn lao dộng toàn quôc mà bạn tôi và cũng là lãnh đạo khu vực của tổ chức AFL-CIO Dan Powell thúc đẩy, chúng tôi có đủ tiền để thực hiện vài mẩu quảng cáo trên truyền hình. Ông bạn già Dan Powell đã nói đến việc tôi thành tổng thống khi tôi vẫn còn thiếu 25 điểm để vào quốc hội. Tất cả những gì tôi làm là đứng trước máy quay phim và nói. Điều này buộc tôi phải suy nghĩ theo các đoạn kéo dài 28 giây. Sau một thời gian, tôi không cần đồng hồ bấm giờ để nhắc tôi thừa hay thiếu vài giây nữa. Chi phí sản xuất cho các mẩu quảng cáo này là thấp.

Các quảng cáo truyền hình có thể mới ở dạng sơ khai, nhưng các quảng cáo trên radio của chúng tôi thì tuyệt. Một mẩu đáng nhớ được dựng ở Nashville đưa ra giọng hát một ca sĩ đồng quê có giọng giống hệt ca sĩ Johnny Cash vốn sinh ra ở Arkansas. Nó mở đầu thế này, "Nếu bạn đã ngán ăn đậu và rau xanh và đã quên mất vị thịt bò và thịt heo là thế nào, bạn cần lắng nghe một người". Mẩu quảng cáo tiếp tục và đả phá chính quyền Nixon đã chi tiền cho các thương vụ khổng lồ bán ngũ cốc cho Liên Xô, làm tăng giá thực phẩm và thức ăn gia súc, làm hại việc nuôi gia cầm và gia súc. Bài hát viết, "Đã đến lúc tống khứ Earl Butz [bộ trưởng nông nghiệp của Nixon] ra xa khỏi máng ăn". Giữa hai lời là điệp khúc: "Bill Clinton đã sẵn sàng, anh ấy cũng ngán. Anh ấy cũng như tôi, anh ấy cũng như bạn. Bill Clinton sẽ làm được việc ấy, và chúng ta sẽ gửi anh ấy đến Washington". Tôi khoái chỗ ấy. Don Tyson, với chi phí sản xuất cho trang trại gia cầm của mình tăng vọt sau mấy vụ bán ngũ cốc này, và có em trai làm việc chăm chỉ cho tôi, đã đảm bảo rằng tôi có đủ tiền để mở bài hát này cho đến hết đời trên radio ở nông thôn.

Càng gần đến ngày bầu cử thì sự ủng hộ ngày càng mạnh và phe đối thủ cũng mạnh lên. Tôi được sự ủng hộ của tờ Arkansas Gazette, tờ báo lớn nhất tiểu bang, cộng thêm vài báo khác trong quận. Tôi bắt đầu vận động quyết liệt ở Fort Smith nơi cộng đồng da đen ủng hộ tôi mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi tôi gia nhập nhóm NAACP địa phương. Tôi tìm được sự ủng hộ khá ở cả hạt Benton vốn chủ yếu theo phe Cộng hòa. Bên Kia sông khỏi Fort Smith, bốn hoặc năm người thực sự đã làm việc đến kiệt lực để cố thu phục hạt Crawford cho tôi. Tôi được tiếp đón nồng hậu ở hạt Scott, phía nam Fort Smith, tại đêm hội săn thử thường niên của thợ săn cáo và sói. Đó là một sự kiện kéo dài suốt đêm ở nông thôn, nơi mà đàn ông cưng chó như con cái (và cũng chăm sóc chúng cẩn thận như vậy) thả chó ra đuổi theo bọn cáo và sủa trăng trong khi phụ nữ mang đến hàng núi thức ăn để trên bàn suốt đêm. Tôi thậm chí còn được một số ủng hộ tại Harrison, quê nhà của ông dân biểu, từ vài người dũng cảm không sợ phải đối mặt với kiểu định kiến của thị trấn nhỏ.

Một trong những cuộc tập hợp thú vị nhất của mùa bầu cử diễn ra vào một buổi chiều thu trên sông White, không xa khu đất Whitewater tai tiếng mà sau này tôi đầu tư vào nhưng chưa bao giờ nhìn thấy nó. Phe Dân chủ trong vùng đều cảm thấy xáo trộn vì Bộ Tư pháp dưới thời Nixon đang cố bỏ tù cảnh sát trưởng hạt Searcy phe Dân chủ Billy Joe Holder vì tội trốn thuế thu nhập. Theo Hiến pháp 1876, lương của các viên chức địa phương và tiểu bang phải được dân chúng bỏ phiếu thông qua; lần tăng lương cuối cùng là vào năm 1910. Các viên chức của hạt chỉ kiếm được khoảng 5 ngàn đô/năm. Thống đốc được 10 ngàn, nhưng ít ra ông ta còn có dinh thự riêng, chi phí ăn uống và đi lại được trả. Nhiều viên chức địa phương buộc phải dùng đến các tài khoản dành cho chi phí khác, mà tôi nhớ là khoảng 7 ngàn đô/năm chỉ để sống được. Bộ Tư pháp muốn Holder đi tù vì không trả thuế thu nhập cho các khoản chi cá nhân từ tài khoản kia. Tôi tin rằng trường hợp của Holder là trường hợp truy tố nhỏ nhất mà chính phủ liên bang từng thực hiện, và người dân vùng núi tin rằng việc này là do động cơ chính trị. Nếu đúng như vậy thì việc ấy đã phản tác dụng. Sau một tiếng rưỡi cân nhắc, bồi thẩm đoàn tuyên bố vô tội. Hóa ra họ bỏ phiếu vô tội ngay lập tức, và nán lại trong phòng bồi thẩm hơn một tiếng nữa để làm cho có vẻ đích đáng. Billy Joe bước ra khỏi tòa án và lái xe thẳng đến cuộc tập hợp của chúng tôi, nơi ông ta được chào đón như một anh hùng vừa từ mặt trận trở về.

Trên đường về lại Fayetteville, tôi dừng ở Harrison nơi phiên xử diễn ra để bàn chuyện ấy với cô Ruth Wilson, nhân viên kế toán công cộng chuyên tính thuế cho nhiều người. Tôi nói với Ruth rằng tôi hỉểu cô ấy đã giúp đỡ luật sư của Holder, bạn tôi F. H. Martin, trong việc chọn thành phần bồi thẩm. Cô ấy bảo đúng vậy. Tôi nửa đùa nửa thật hỏi có phải cô ấy nhét người của phe Dân chủ vào bồi thẩm đoàn không. Tôi sẽ không bao giờ quên câu trả lời của cô ấy: "Không, Bill à, tôi không làm vậy. Thực ra, trong bồi thẩm đoàn đó có khá nhiều người phe Cộng hòa. Cậu biết đấy, mấy tay trẻ tuổi từ Washington xuống để truy tố ông cảnh sát trưởng là những tay khôn ngoan, và trông họ cũng bảnh chọe ghê trong mấy bộ đồ đắt tiền. Nhưng họ đâu có hiểu dân ở đây. Lạ lắm nghe. Chín trong số 12 bồi thẩm viên đó vừa bị Sở Thu nhập Nội địa (IRS, cơ quan tính và thu I thuế thu nhập của người dân Mỹ - ND) thanh tra trong hai năm vừa qua". Tôi mừng là Ruth Wilson và cộng sự của cô ấy đứng về phía tôi. Sau khi cô ấy hạ nhóm luật sư Washington, Bộ Tư pháp bắt đầu hỏi những người sắp được chọn làm bồi thẩm viên về việc họ bị IRS đối xử ra sao.

Khi chỉ còn hai tuần nữa là tới ngày thì ông dân biểu cuối cùng cũng tăng tốc chiến dịch vận động. Ông ta biết kết quả trưng cầu cho thấy nếu ông ta không tăng tốc thì đà tiến của tôi có thể giúp tôi chiến thắng sít sao. Người của ông ấy bắt đầu giở mọi mánh lới. Bạn bè kinh doanh và người phe Cộng hòa cũng bắt tay vào việc. Có ai đó bắt đầu gọi cho tất cả các báo để hỏi xin tấm ảnh chưa hề chụp tôi biểu tình chống Tổng thống Nixon tại trận cầu giữa hai đội Arkansas và Texas năm 1969, làm nảy sinh ra câu chuyện "leo cây" mà tôi kể trước đây. Ở Hot Springs, phòng thương mại tổ chức một tiệc lớn để cám ơn ông ta vì tất cả những gì ông đã làm. Vài trăm người đến dự, và báo địa phương đưa tin đầy đủ. Trong toàn quận, phe Cộng hòa dọa giới doanh nhân bằng cách cáo buộc tôi là được các nghiệp đoàn ủng hộ nhiều như vậy thì thế nào tôi cũng thành con rối trong quốc hội của các nhóm lao động có tổ chức. Tại Fort Smith, sáu ngàn tấm thiệp bưu điện chúng tôi gửi các ủng hộ viên chính trị trong danh sách chiến dịch vận động bằng điện thoại đã không được chuyển đi. Vài ngày sau cuộc bầu cử người ta tìm thấy đống thiệp trong thùng rác bên ngoài bưu điện chính. Chi nhánh tiểu bang của Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ ủng hộ Hammerschmidt mạnhí mẽ, đả kích tôi vì tôi đã cố thuyết phục các bác sĩ ở vùng Springdale chứa trị cho người nghèo trong chương trình Medicaid. Hammerschmidt thậm chí còn dùng các quỹ chia sẻ thu nhập của liên bang để lát đường ở Gilbert, một thị trân nhỏ trong hạt Searcy vài ngày trước khi bầu cử. Ông ta thắng với tỷ lệ 38-34, nhưng đó là thị trấn duy nhất trong hạt ông ta kiếm được.

Tôi cũng hiểu ra rằng ông ta vận động giỏi đến thế nào vào kỳ nghỉ cuối tuần trước ngày bầu cử khi tôi đến một cuộc tập hợp cuối ở trung tâm hội nghị Hot Springs. Chúng tôi không mời được nhiều người đến dự như tại tiệc của ông ta cách đó vài ngày. Người của chúng tôi đã làm việc tận tình, nhưng họ đã mệt mỏi.

Dù vậy, vào ngày bầu cử tôi vẫn nghĩ chúng tôi sẽ thắng. Khi tập trung trong phòng ở tổng hành dinh để theo dõi kết quả, chúng tôi hồi hộp nhưng đầy hy vọng. Chúng tôi dẫn trước cho đến gần nửa đêm, vì hạt lớn nhất và nhiều phe Cộng hòa nhất là Sebastian báo kết quả về muộn. Tôi thắng được 12 trong số 15 hạt với dưới tám ngàn phiếu tổng cộng, bao gồm mọi hộp bỏ phiếu dọc sông Buffalo ở hạt Newton và Searcy. Nhưng tôi thua năm trong sáu hạt lớn nhất, tại mỗi nơi chỉ thua có vài trăm phiếu ở hạt Garland, nơi tôi lớn lên, và hạt Washington, nơi tôi sống, thua luôn hạt Crawford với cách biệt vài trăm phiếu và bị thua tơi tả ở các hạt Benton và Sebastian, nơi phần thua tổng cộng của tôi nhiều gấp đôi số cách biệt giữa tôi và người thắng cuộc. Tỷ lệ thắng cuộc của mỗi người chúng tôi là 2/1 ở mỗi bang. Ông ấy thắng hạt Sebastian, hạt lớn nhất, còn tôi thắng hạt Perry, hạt nhỏ nhất. Bây giờ, khi mà dân Mỹ miền quê chủ yếu bỏ phiếu cho phe Cộng hòa trong các cuộc bầu cử toàn quốc, thật trớ trêu rằng tôi bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình với căn cứ chủ yếu là miền quê, nhờ vào các tiếp xúc cá nhân thường xuyên cũng như khả năng đáp ứng với những bực bội hay các vấn đề có thật của họ. Tôi đứng về phía họ, và họ biết điều ấy. Kết quả kiểm phiếu cuối cùng cho thấy tỷ lệ là 89.324 phiếu so với 83.030 phiếu, tức khoảng 52 so với 48%.

Xét trên toàn quốc thì phe Dân chủ có một đêm tốt lành, chiếm được 49 ghế hạ viện và bôn ghế thượng viện, nhưng chúng tôi đơn Slan là không thể vượt qua nổi sự mến chuộng của dân chúng đối với Hammerschmidt cũng như cú tấn công vào phút chót của ông ấy. Khi chiến dịch vận động bắt đầu, tỷ lệ dân chúng ủng hộ ông là 85%. Tôi kéo nó xuống còn 69%, trong khi tỷ lệ ủng hộ tôi từ 0 lên được 66%, rất tốt nhưng vẫn không đủ tốt. Ai cũng nói tôi làm ăn cũng khá và có một tương lai tươi sáng. Nghe như vậy thật dễ chịu, nhưng tôi muốn thắng mà. Tôi tự hào về chiến dịch tranh cử và cảm thấy không biết vì sao tôi đã để chiến dịch hụt hơi trong vài ngày cuối cùng, và đã làm thất vọng bao nhiêu người từng làm việc tận tụy cho tôi và những đổi thay chúng tôi muốn tạo ra. Có thể nếu tôi có nhiều tiền hơn và bén nhạy hơn để tiến hành các mẩu quảng cáo trên truyền hình về lai lịch bỏ phiếu của ông dân biểu thì có lẽ sự thể sẽ khác. Mà cũng có thể không. Dù sao đi nữa, vào năm 1974 tôi đã chính mắt chứng kiến trong hàng ngàn cuộc gặp gỡ rằng cử tri trung lưu sẽ ủng hộ hành động của chính quyền để giải quyết các vấn đề của họ, và của cả người nghèo nữa, nhưng chỉ khi nỗ lực đó được thực hiện với sự lưu tâm đúng mức tới đồng tiền họ đóng thuế, và khi các nỗ lực tăng các cơ hội đi cùng với cam kết trách nhiệm.

Sau khi dành vài ngày đi và gọi điện cám ơn mọi người, tôi rút vào trạng thái trốn tránh một cách lo lắng. Phần lớn trong sáu tuần kế tiếp tôi ở nhà của Hillary, một nơi dễ chịu gần trường. Chủ yếu tôi chỉ nằm dài trên sàn nhà, điểm lại những nuối tiếc và cố tìm ra cách làm sao có thể trả hơn 40 ngàn đôla tiền nợ từ chiến dịch tranh cử. Lương mới của tôi là 16.450 đôla quá đủ để sống và trả nợ tiền học trường luật, nhưng không thấm tháp gì so với số nợ từ chiến dịch vận động. Vào tháng 12, ở trường có tổ chức một buổi khiêu vũ có ban nhạc và Hillary bắt tôi đưa cô ấy đi. Sau khi chúng tôi nhảy vài tiếng, tôi bắt đầu cảm thấy đỡ hơn. Dù vậy, vẫn còn phải thêm một thời gian lâu trước khi tôi hiểu ra rằng ông dân biểu đã ra ơn cho tôi bằng cách đánh bại tôi. Nếu tôi thắng và đi Washington, tôi chắc là tôi đã không bao giờ được bầu làm tổng thống. Và như thế tôi sẽ để vuột mất 18 năm tuyệt vời sống ở Arkansas kế tiếp.