Chương 19
Tháng 1 năm 1975, tôi quay lại với việc giảng dạy, năm học duy nhất của tôi không bị chính trị làm cho gián đoạn. Trong học kỳ mùa xuân, tôi dạy môn Chống tổ hợp độc quyền và tổ chức một buổi hội thảo về Tội phạm cổ cồn trắng, ở khóa mùa hè, Tranh chấp hàng hải và Quyền Liên bang; mùa thu, lại Tội phạm Cổ cồn trắng và Luật Hiến pháp. Trong Luật Hiếp pháp, tôi dành hẳn hai tuần cho vụ kiện Roe đối đầu với Wade, quyết định của Tòa án tối cao dành cho phụ nữ quyền phá thai trong 6 tháng đầu thai kỳ, quãng thời gian mà bào thai cần có trước khi thành thai nhi "sống" - nghĩa là có thể sống được ngoài tử cung người mẹ. Tòa quy định, sau thời gian này, nhà nước bảo vệ cho đứa trẻ được ra đời bất kể quyết định bỏ thai của người mẹ, trừ trường hợp tính mạng hoặc sức khỏe của người mẹ bị đe dọa nếu tiếp tục mang thai hay sinh nở. Một vài sinh viên coi Luật Hiến pháp chỉ là một khóa học như những khóa khác mà họ phải ghi nhớ về luật pháp nên không thể hiểu được vì sao tôi lại dành nhiều thời gian cho Roe đến thế. Kể cũng dễ dàng nhớ được quy định thời gian của thai kỳ và những lý đằng sau.
Tôi bắt buộc họ đào sâu về đề tài này, bởi vì lúc đó tôi nghĩ, và bây giờ tôi vẫn tin rằng, Roe đối đầu với Wade là quyết định tư pháp khó khăn nhất. Dù họ quyết định như thế nào đi nữa thì Tòa tối cao phải đóng vai Chúa Trời. Không ai biết khi nào sinh vật biến thành con người, hoặc đối với người theo tôn giáo, khi nào linh hồn nhập vào thể xác. Hầu hết các cuộc phá thai không liên quan đến sức khỏe hay tính mạng của người mẹ đều là lựa chọn của các cô gái hoặc phụ nữ đang hoảng sợ không biết phải làm gì khác. Hầu hết những ai ủng hộ đều hiểu phá thai là kết thúc một cuộc sống và tin rằng việc này nên được luật pháp công nhận, nên được thực hiện một cách hợp pháp, an toàn và ít lần, và rằng chúng ta nên ủng hộ những bà mẹ trẻ nào vẫn quyết định giữ thai, như hầu hết họ vẫn làm. Phần lớn những người chống phá thai thì ủng hộ việc truy tố các bác sĩ nhưng lại không quả quyết lắm trước lập luận rằng phá thai là tội ác và trước kết luận hợp lý phải kết tội sát nhân đối với người mẹ. Ngay cả những người cuồng tín từng đánh bom các cơ sở phá thai cũng không nhắm vào những phụ nữ là khách hàng của các cơ sở này. Và cũng như những bài học mà chúng ta rút ra đầu tiên là với lệnh cấm rượu và sau này là chuyện sử dụng ma túy, vốn được sự ủng hộ còn nhiều hơn lệnh cấm phá thai, rằng rất khó áp dụng luật hình sự đối với các hành động mà phần lớn dân chúng không coi là tội ác.
Lúc đó tôi nghĩ và bây giờ vẫn tin rằng Tòa án đã đưa ra quyết định sáng suốt, dù rằng, như thường thấy trong hoạt động chính trị ở Mỹ, hành động của tòa làm bùng lên phản ứng dữ dội, làm gia tăng các phong trào chống phá thai khiến việc có thể phá thai ở nhiều nơi giảm đáng kể, và đẩy một phần lớn cử tri vào tay của nhóm tân cánh hữu Cộng hòa. Bất kể cuộc trưng cầu dân ý cho thấy thái độ của cử tri đối với việc phá thai như thế nào, thì bất đồng mang tính toàn quốc của chúng tôi về vấn đề này vẫn có nghĩa là tác động của chuyện phá thai đến các kỳ bầu cử phụ thuộc vào việc bên nào cảm thấy bị đe dọa nhiều hơn. Ví dụ, trong phần lớn thời gian 30 năm qua, khi quyền được chọn phá hay giữ thai của phụ nữ đã được bảo đảm, thì những cử tri ủng hộ quyền lựa chọn cảm thấy tự do được bỏ phiếu ủng hộ hoặc chống các ứng cử viên tùy theo thái độ của họ về những vấn đề khác nữa, trong khi đối với các cử tri chống phá thai thì các vấn đề khác không quan trọng. Năm 1992 là một ngoại lệ. Quyết định của tòa phúc thẩm được công bố rộng rãi trong vụ Webster giảm quyền được lựa chọn, kết hợp với viễn cảnh Tòa tối cao sẽ trống chỗ trong tương lai đã đe dọa và kích động những cử tri ủng hộ, vì thế tôi và những ứng cử viên ủng hộ quyền lựa chọn khác không hề hấn gì trong năm đó. Sau khi tôi được bầu, với quyền được lựa chọn lại được bảo đảm, một lần nữa, dân ngoại ô ủng hộ quyền lựa chọn cảm thấy thoải mái bỏ phiếu ủng hộ các ứng cử viên Cộng hòa có quan điểm chống phá thai dựa trên những lý do khác. Trong khi đó, những người phe Dân chủ và những người thuộc khối độc lập vốn đồng tình với tôi trong các vấn đề kinh tế và xã hội khác thì lại thường cảm thấy phải ủng hộ các ứng cử viên chống phá thai, thường luôn là những người bảo thủ phe Cộng hòa.
Năm 1975, tôi không biết nhiều và cũng không quan tâm đến khía cạnh chính trị của chuyện phá thai. Tôi quan tâm đến những nỗ lực phi thường của Tòa án tối cao nhằm hòa giải những quan niệm trái ngược nhau về luật pháp, đạo đức, và mạng sống. Theo tôi, họ đã làm hết sức mình trong điều kiện không biết Chúa Trời nghĩ gì. Dù cho sinh viên của tôi có đồng ý với tôi hay không, tôi vẫn muốn họ suy nghĩ thấu đáo về vấn đề đó.
Mùa thu, tôi có nhiệm vụ giảng dạy mới: tôi được yêu cầu đến cơ sở ở Little Rock của trường mỗi tuần một lần để dạy một khóa ban đêm về Luật và Xã hội cho các sinh viên ban ngày làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tôi háo hức được làm việc này và rất thích thú khi được tiếp xúc với những người dường như quan tâm thực sự xem công việc của họ ở sở cảnh sát và văn phòng cảnh sát trưởng phù hợp như thế nào với nền tảng hiến pháp cũng như cuộc sống dần sự thường nhật.
Ngoài dạy học, tôi vẫn tham gia chính trị và làm vài việc liên quan đến luật khá là thú vị. Tôi được cử làm lãnh đạo ủy ban cấp tiểu bang của đảng Dân chủ về hành động tích cực. ủy ban này được thiết lập nhằm bảo đảm nữ giới và các nhóm thiểu số tham gia nhiều hơn vào hoạt động của đảng, tránh chuyện rơi vào tình thế do các quy định của McGovern đưa ra là thành phần đoàn đại biểu đến dự đại hội đảng phải có tỷ lệ đại diện tương ứng với tỷ lệ các nhóm dân chúng nhưng những người này lại thường chưa bao giờ làm việc cho đảng và không thể có được bất cứ phiếu bầu nào. Công việc cho tôi cơ hội đi khắp bang để gặp gỡ các đảng viên Dân chủ, cả da trăng lẫn da đen, có quan tâm đến vấn đề này.
Một vấn đề khác bắt buộc tôi phải tiếp tục hoạt động chính trị là nhu cầu phải trả nợ tranh cử. Cuối cùng tôi cũng trả được theo cách tương tự như tôi đã làm lúc kiếm tiền tranh cử, thông qua nhiều dịp gây quỹ nhỏ và với sự giúp đỡ của một vài mạnh thường quân hào phóng. Tôi nhận được 250 đôla đầu tiên từ tay Jack Yates, một luật sư giỏi ở Ozarks đã ủng hộ tôi rất tích cực trong cuộc bầu cử cùng với đồng sự là Lonnie Turner. Jack trao tấm séc cho tôi trong vòng hai tuần sau bầu cử. Lúc bấy giờ tôi vẫn chưa biết sẽ kiếm những đồng đôla tiếp theo ở đâu và tôi không bao giờ quên chuyện đó. Thật buồn là vài tháng sau khi giúp tôi, Jack đã mất vì bị bệnh tim. Sau đám tang, Lonnie Turner hỏi tôi có thể tiếp quản những vụ người bị bệnh đen phổi mà Jack đang lo được hay không. Chính quyền Nixon đã ban hành những qui định mới siết chặt trợ cấp và yêu cầu kiểm tra lại hồ sơ của những người đã nhận trợ cấp. Trong nhiều trường hợp, người ta rút lại trợ cấp. Tôi bắt đầu lái xe đến Ozarks tuần một hoặc hai lần để kiểm tra lại hồ sơ và phỏng vấn những người thợ mỏ già, tôi hiểu rằng mỗi đồng được trả đều trích từ chi phí của các vụ mà tôi thắng được.
Lonnie biết tôi rất quan tâm đến chuyện này và quen thuộc với chương trình này. Đúng là lúc bắt đầu chương trình trợ cấp cho người bị đen phổi thì việc đánh giá rất lỏng lẻo và có một sô người thực sự không cần trợ cấp mà vẫn được nhận, nhưng cũng như với các chương trình khác của chính phủ, nỗ lực sửa chữa sai lầm lại đi quá xa theo chiều ngược lại.
Ngay từ trước khi tiếp nhận các vụ kiện của Jack Yates, tôi đã đồng ý giúp một người đấu tranh để được nhận trợ cấp chữa bệnh đen phổi. Jack Burns Sr. sống ở một thị trấn nhỏ ở phía nam Fort Smith - cha của người quản trị bệnh viện Ouachita ở Hot Springs, nơi mẹ tôi làm việc. Ông cao khoảng 1,6m và nặng khoảng 46kg- Jack là người kiểu cũ, trầm tĩnh, đang bị nám phổi nặng. Ông đủ điều kiện để lĩnh trợ cấp, và hai vợ chồng ông rất cần đến khoản tiền này để thanh toán các khoản chi tiêu hàng tháng. Trong nhiều tháng cùng làm việc, càng lúc tôi càng thêm khâm phục lòng kiên nhẫn cũng như quyết tâm của ông. Khi thắng kiện, tôi cũng vui mừng như ông vậy.
Tôi nghĩ có khoảng hơn một trăm vụ như của Jack Burn trong đống hồ sơ mà Lonnie Turner đưa cho tôi. Tôi thích lái xe từ Fayetteville đến Ozarks trên con đường ngoằn ngoèo được mọi người gọi là "Đường heo đi" để làm việc với họ. Các vụ kiện sẽ được trình bày trước tiên với thẩm phán hành chính Jerry Thomasson, một đảng viên Cộng hòa công minh. Sau đó các vụ kiện sẽ được kháng nghị lên thẩm phán liên bang ở Fort Smith là Paul X. Williams, một người phe Dân chủ biết thông cảm. Cả thư ký lâu năm của ông cũng thế, Elsijane Trimble Roy đã giúp tôi rất nhiều. Tôi rất phấn khởi khi Tổng thống Carter bổ nhiệm bà làm nữ thẩm phán liên bang đầu tiên của Arkansas.
Trong khi tôi vẫn tiếp tục dạy, hoạt động chính trị và làm luật sư thì Hillary cũng đang ổn định cuộc sống ở Fayetteville. Tôi có thể thấy cô ấy thực sự thích nơi này, thích đến mức có thể ở lại. Cô dạy Luật Hình sự và Diễn án, và giám sát cả trung tâm hỗ trợ pháp lý và lẫn các sinh viên làm công tác hỗ trợ cho tù nhân. Một số luật sư và thẩm phán lớn tuổi hay nóng giận và một số sinh viên lúc đầu không hiếu Hillary là người thế nào, nhưng dần dần cô ấy đã thuyết phục được họ. Vì Hiến pháp quy định bị can trong các vụ án hình sự có quyền có luật sư, các thẩm phán thường chỉ định luật sư tại địa phương đại diện cho các bị can nghèọ, và vì bị cáo hình sự nghèo hầu như không bao giờ trả tiền, nên tòa án muôn trung tâm của Hillary lãnh các vụ kiện. Trong năm đầu tiên, trung tâm đã phục vụ hơn 300 thân chủ và trở thành một bộ phận có tiếng trong trường luật. Trong suốt quá trình đó, Hillary đã được cộng đồng luật chúng tôi rất kính trọng, cô ấy đã giúp đỡ nhiều người và tạo ra được uy tín mà vài năm sau đó khiến Tổng thống Carter chỉ định cô ấy vào ban lãnh đạo của Tập đoàn Dịch vụ pháp lý quốc gia.
Jimmy Carter là diễn giả chính trong Ngày Luật pháp vào cuối học kỳ mùa xuân. Lúc này đã rõ là ông ấy sẽ tranh cử tổng thống. Tôi và Hillary trao đổi ngắn gọn với ông, và ông mời chúng tôi tiếp tục trò chuyện ở Little Rock, nơi ông đã có lịch làm việc. Cuộc trò chuyện khẳng định cảm giác của tôi rằng ông ta có cơ hội thắng cử. Sau vụ Watergate và những rắc rối của nền kinh tế đất nước, một thống đốc người miền Nam thành đạt không dính líu đến chính trị ở Washington và có thể thuyết phục những người mà đảng Dân chủ đã để mất năm 1968 và 1972 có vẻ như một luồng gió mới trong lành. Sáu tháng trước, tôi đã đến gặp Dale Bumpers và thúc giục ông tranh cử, và nói rằng: "Trong năm 1976, người nào giống ông sẽ thắng cử. Người đó có thể là ông lắm chứ". Ông ta có vẻ quan tâm nhưng lại nói không thể được; ông ta vừa được bầu vào thượng viện, và các cử tri Arkansas sẽ không ủng hộ nếu ông ra tranh cử tổng thống ngay lập tức. Có thể ông nói đúng, nhưng ông lẽ ra đã có thể là một ứng viên tuyệt vời và là một tổng thống rất tốt.
Bên cạnh công việc và cuộc sống xã hội bình thường với bạn bè, tôi và Hillary có vài lần chu du quanh và ngoài Fayetteville. Một đêm chúng tôi lái xe theo xa lộ 71 xuống phía nam đến Alma để nghe Dolly Parton hát. Tôi là người hâm mộ Dolly Parton cuồng nhiệt, và có thể nói là đêm đó bà ấy thật tuyệt vời. Nhưng tác động dai dẳng nhất của đêm đó là cuộc chạm trán đầu tiên của tôi với những người đã đưa cô ấy đến Alma, đó là Tony và Susan Alamo. Lúc đó, hai người này đang bán trang phục biểu diễn Nashville điệu đà cho nhiều ngôi sao ca nhạc đồng quê lớn nhất nước Mỹ. Họ không chỉ làm những việc này. Tony, trông về ngoài giống như Roy Orbison đang "phê thuốc", từng là người quảng bá các buổi biểu diễn rock-and-roll ở California lúc anh gặp Susan, người lớn lên gần Alma nhưng đã chuyển đến miền tây và trở thành người truyền giáo trên truyền hình. Họ nhóm lại và anh đã lăng xê cô như đã làm với các ngôi sao rock and roll. Susan có mái tóc vàng sáng và thường xuyên mặc áo dài quét đất khi truyền đạo trên tivi. Cô ấy làm việc ấy rất giỏi, và anh ấy lăng xê cô cũng rất tốt. Họ tạo ra một triều đại nhỏ, có cả một trang trại do những người hâm mộ trẻ nhiệt tình điều hành, những người này tôn thờ Tony và Susan cũng như các tín đồ trẻ theo mục sư Sun Myung Moon tôn thờ lãnh tụ của họ vậy. Khi Susan bị ung thư, cô muốn về nhà ở Arkansas. Họ mua một căn nhà lớn ở Dyer, quê nhà của Susan, khai trương một sân khấu ở Allma nơi Dolly Parton hát, và mở một phiên bản nhỏ hơn của cửa hàng bán trang phục biểu diễn nhạc đồng quê Nashville ngay đối diện và có một chiếc xe tải lớn mỗi tuần chuyên chở thực phẩm từ trang trại ở California về cho họ và đạo quân lao động trẻ ở Arkansas của họ. Susan vấn xuất hiện trên tivi và vẫn thành công cho đến khi cô thực sự suy sụp vì bệnh tật. Khi cô chết, Tony tuyên bố Chúa Trời đã sai anh ta một ngày nào đó phải nuôi cô sống lại, và anh ta đặt thi thể của Susan vào một hộp bằng kính đặt trong nhà để chờ ngày đó. Anh ta cố gắng duy trì triều đại của mình bằng lời hứa Susan sẽ quay lại, nhưng một người chuyên lăng xê không còn là gì nữa nếu không còn người mà anh ta lăng xê. Mọi việc ngày càng xuống dốc. Khi tôi làm thống đốc, Tony vướng vào một tranh chấp dữ dội với chính phủ về thuế và tổ chức một cuộc phản đối bất bạo lực xung quanh nhà mình. Vài năm sau, anh ta quan hệ với một phụ nữ trẻ. Có lẽ, Chúa Trời đã nói chuyên lại với anh ta và bảo rằng Susan sẽ không bao giờ quay lại, thế là anh ta đem xác cô ấy ra khỏi hộp kính và đem đi chôn cất.
Mùa hè, tôi dạy cả hai học kỳ của khóa mùa hè để kiếm thêm tiền và tôi rong chơi cùng bạn bè và Hillary ở Fayetteville. Một hôm tôi lái xe đưa Hillary ra sân bay để quay về miền đông. Khi đang lái xe trên đường California Drive, chúng tôi đi qua một căn nhà bằng gạch thô rất đẹp dựa lưng vào ngọn đồi nhỏ có tường đá bao quanh sân trước. Ở sân có tấm bảng đề NHÀ BÁN. Hillary nhận xét nhà rất đẹp. Sau khi thả cô ấy xuống sân bay, tôi quay lại xem ngôi nhà. Đó là ngôi nhà một lầu, rộng khoảng 102m2, có phòng ngủ, phòng tắm, bếp gắn liền với khu vực ăn sáng, phòng ăn nhỏ và một phòng khách lộng lẫy, trần nhà sáng, cao bằng nửa chiều cao trần nhà của những ngôi nhà khác, một lò sưởi được xây nhô ra trông đẹp mắt và cửa sổ gắn kính ba mặt. Lại còn thêm một hàng hiên rộng có tường bao có thể dùng làm phòng khách quanh năm. Trong nhà không có máy điều hòa không khí nhưng có một quạt lớn trên trần cũng đỡ rất nhiều. Giá bán 20.500 đôla. Tôi mua căn nhà bằng cách trả ngay tiên mặt 3.000 đôla, đủ để giảm khoản trả góp thế chấp hàng tháng xuống 174 đôla.
Tôi chuyển đến nhà mới một ít đồ đạc mà tôi có và mua thêm một ít đồ dùng đủ để trông ngôi nhà không thênh thang quá. Khi Hillary trở về, tôi nói: "Em có nhớ căn nhà nhỏ mà em rất thích không? Anh mua rồi. Bây giờ em phải cưới anh, bởi vì anh không thể sống ở đó một mình được". Tôi lái xe đưa cô đến thăm nhà. Cần phải sửa sang thêm nữa, nhưng mánh của tôi đã hiệu quả. Mặc dù Hillary chưa bao giờ nói với tôi rằng sẽ sẵn sàng ở lại Arkansas nhưng cuối cùng cô ấy cũng đồng ý.
Ngày 11 tháng 10 năm 1976, chúng tôi làm lễ cưới trong phòng khách lớn của căn nhà nhỏ số 930 California Drive, sau khi căn nhà được sửa sang lại trước con mắt giám sát của Marynm Bassett một người chuyên trang trí nội thất biết rõ kinh phí của chúng tôi khá là eo hẹp. Ví dụ, cô đã giúp chúng tôi chọn giấy dán tường màu vàng nhạt trong khu vực ăn sáng nhưng chúrig tôi tự dán lấy, một dịp để tái xác nhận khả năng lao động chân tay của tôi là hạn chế. Hillary mặc bộ váy áo thời Victoria cổ điển mà tôi rất thích, và mục sư Vic Nixon tác hợp cho chúng tôi trước sự chứng kiến của cha mẹ và các anh của Hillary, mẹ tôi, Roger (làm rể phụ), và một số bạn thân của chúng tôi: bạn thân nhất của Hillary ở Park Ridge là Bestv Johnson Ebeling, và Tom - chồng của cô; bạn học ở Wellesley - Johanna Branson; người em họ của tôi Marie Clinton; thủ quỹ cho cuộc vận động là F.H. Martin và vợ Myrna; bạn tốt nhất ở khoa luật, Dick Atkinson và Elizabeth Osenbaugh; và bạn ấu thơ của tôi, cũng là một nhân viên vận động không mệt mỏi Patty Howe. Hugh Rodham không bao giờ nghĩ rằng ông sẽ trao cô con gái theo Giám lý của mình cho một kẻ theo Baptist phương Nam ở vùng núi Ozarks ở Arkansas. Lúc đó tôi đã cố gắng lấy lòng ông và các thành viên khác của gia đình Rodham được bốn năm. Tôi hy vọng đã giành được cảm tình của họ. Còn họ chắc chắn đã chiếm được cảm tình của tôi.
Sau buổi lễ, vài trăm người bạn của chúng tôi tụ tập ở nhà của Morriss và Ann Henry để ăn tiệc, và chúng tôi nhảy nhót suốt đêm ở nhà của Billie Schneider ở Downtown Motor Inn. Bốn giờ sáng, tôi và Hillary đã đi ngủ, tôi nhận được điện thoại của em rể Tony lúc này đang ở trong nhà giam của quận Washington. Trong khi lái xe đưa một người khách của chúng tôi về nhà, Tony đã bị một binh sĩ tiểu bang chặn lại, không phải vì lái xe quá tốc độ hay chạy loạng choạng mà vì người khách ngật ngưỡng trên xe đã thò hai chân ra ngoài cửa xe sau. Sau khi thổi Tony, viên cảnh sát có thể dễ dàng thấy Tony có uống rượu, thế là lôi cậu ấy về đồn. Khi tôi đến đồn cảnh sát để bảo lãnh Tony thì cậu ấy đang run bần bật. Người phụ trách trại giam nói rằng cảnh sát trưởng Herb Marshall, một đảng viên Cộng hòa mà tôi có cảm tình đã ra lệnh để nhà giam thật lạnh cho những người say rượu không ói mửa ra. Khi ra về, Tony hỏi tôi có thể giúp một người khác ra khỏi nhà giam được không, người này đến thị trấn để đóng phim cùng với Peter Fonda. Tôi đồng ý. Anh ta còn run rẩy hơn cả Tony, đến mức lúc lái xe ra anh ta đã đâm sầm vào chiếc Fiat nhỏ màu vàng của Hillary. Mặc dù tôi đóng tiền bảo lãnh cho anh ta ra ngoài, nhưng anh ta đã không bao giờ trả tôi tiền sửa xe. Mặt khác, ít ra anh ta đã không ói hết bữa tối ra sàn nhà giam của quận. Đêm đầu tiên với tư cách đàn ông có vợ của tôi kết thúc như vậy đấy.
Từ lâu lắm tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ lập gia đình. Bây giờ tôi đã cưới vợ, và cảm thấy ổn, nhưng chưa chắc chắn liệu rồi cuộc hôn nhân sẽ dẫn chúng tôi tới đâu.
Có thể cuộc hôn nhân của chúng tôi được viết và nói đến nhiều hơn bất cứ cuộc hôn nhân nào ở nước Mỹ. Tôi luôn ngạc nhiên trước những người thoải mái phân tích, chỉ trích và lên mặt dạy đời về chuyện này. Sau thời gian lập gia đình gần 30 năm và qua quan sát bạn bè, những người trải qua ly thân, hòa giải, và ly dị, tôi nhận thây hôn nhân với tất cả điều kì diệu cũng như đau khổ, niềm hạnh phúc mãn nguyện hoặc thất vọng, vẫn luôn là bí ẩn, người trong cuộc thây khó mà hiểu nổi, lại càng không thể tiếp cận được đối với người ngoài. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1975, tôi chưa biết tí gì về tất cả những chuyên như vậy. Lúc đó tôi chỉ biết tôi yêu Hillary, yêu cuộc sống, yêu công việc, yêu bạn bè vì có nhiều điểm chung, và những hứa hẹn mà chúng tôi cùng nhau có thể làm được. Tôi cũng tự hào về Hillary, và hào hứng trước một mối quan hệ có thể sẽ không hoàn hảo nhưng chắc chắn sẽ không tẻ nhạt.
Sau đêm tân hôn không ngủ, chúng tôi quay lại công việc. Chúng tôi đang ở giữa học kỳ, và tôi phải đến dự những buổi điều trần về cac vụ đen phổi. Hai tháng sau, cuối cùng chúng tôi cũng đi nghỉ tràng mật ở Acapulco, một kỳ nghỉ khác thường, với toàn thể gia đình Hillary và bạn gái của một trong các anh em trai của cô ấy. Tất cả chúng tôi cùng ở một căn hộ sang trọng đẹp đẽ, đi dạo trên bờ biển, ăn nhà hàng. Tôi thấy như vậy quả là khác thường, nhưng tất cả chúng tôi đều rất vui vẻ. Tôi ngưỡng mộ mẹ của Hillary - Dorothy và vui vẻ cùng cha vợ và các anh em vợ đánh bài 48 lá và tán dóc. Cũng như tôi, họ là những người kể chuyên rất tài và ai cũng có thể bịa chuyện thành thần.
Ở Acapulco, tôi đọc một cuốn sách của Ernest Becker có tên The Denial of Death - Sự từ chối cái chết, đi trăng mật mà đọc như vậy kể hơi nặng nề, nhưng tôi chỉ lớn hơn cha tôi một tuổi lúc ông mất, và tôi vừa có bước đi hết sức quan trọng. Dường như lúc này chính là thời điểm thích hợp để tiếp tục khám phá ý nghĩa của cuộc sống.
Theo Becker, khi trưởng thành, đến một thời điểm nào ấy, chúng ta bắt đầu có ý thức về cái chết, rồi về việc những người mà ta biết và yêu thương có thể chết đi, sau đó đến lúc chính ta, một ngày nào đấy cũng sẽ chết. Hầu hết chúng ta đều làm tất cả những gì có thể để trốn tránh cái chết. Trong khi đó, hầu như vô thức, chúng ta đều đón nhận bản ngã và ảo tưởng tự tại. Chúng ta theo đuổi các hoạt động, cả tích cực lẫn tiêu cực, mà chúng ta hy vọng có thể giúp chúng ta thoát khỏi xiềng xích của sự sinh tồn thông thường và có thể sẽ kéo dài sau khi chúng ta đã chết. Chúng ta làm tất cả những điều này với những nỗ lực vớt vát trước sự thực chắc chắn rằng cái chết là định mệnh cuối cùng của chúng ta. Một số trong chúng ta tìm đến quyền lực và tiền bạc, sô khác tìm đến tình ái lãng mạn, tình dục hay những kiểu buông thả khác. Một số người muốn làm vĩ nhân, sô khác muốn làm việc tốt hoặc thành người tốt. Dù thành công hay thất bại, chúng ta cũng vẫn sẽ phải chết. Tất nhiên, điều an ủi duy nhất là tin rằng vì chúng ta được tạo ra nên ắt hẳn phải có Đấng Sáng tạo, và chúng ta có ý nghĩa nào đó với Người nên cuối cùng theo cách nào đó sẽ trở về với Người.
Những phân tích của Becker đưa chúng ta đến đâu? Ông kết luận: "Ai biết được sức mạnh đẩy cuộc sống tiến về phía trước sẽ xuất hiện dưới dạng nào trong tương lai... Mỗi người trong chúng ta có thể làm được nhiều nhất là tạo ra một cái gì - một vật thể hoặc chính chúng ta - thả nó vào trong sự hỗn mang rồi dâng hiến nó, có thể nói vậy, cho cuộc sống". Ernest Becker chết không lâu trước khi cuốn sách này được xuất bản, nhưng dường như ông đã giải được bài toán cuộc sống của Immanuel Kant: "Làm thế nào để có thể chiếm chỗ dành cho con người một cách tử tế trong tạo hóa, và phải học được rằng muốn trở thành con người thì cần phải làm những gì". Tôi đã dành trọn đời cố gắng làm như vậy. Cuốn sách của Becker giúp thuyết phục tôi rằng cố gắng làm được điều ấy là không uổng công.
Tháng 12, tôi phải có một quyết định chính trị nữa. Nhiều ủng hộ viên của tôi muốn tôi tái tranh cử vào quốc hội. Món nợ của tôi đã trả xong, và họ muốn một trận tái đấu. Tôi nghĩ lần này sẽ khó đánh bại Dân biểu Hammerschmidt, ngay cả khi Jimmy Carter thắng vòng bầu cử sơ bộ. Quan trọng hơn, tôi không còn ước muốn đến Washington nữa; tôi muốn ở lại Arkansas. Và tôi quan tâm hơn đến chính quyền tiểu bang, một phần là do thẩm phán Jim Guy Tucker đã cho tôi cơ hội được viết báo cáo lên Tòa án tối cao Hoa Kỳ thay mặt cho bang trong một vụ kiện chống tổ hợp độc quyền liên quan đến mức lãi suất đối với thẻ tín dụng. Jim Guy đang tranh cử vào quốc hội, nhắm đến chiếc ghế của Wilbur Mills đã về hưu, và do đó ghế Bộ trưởng tư pháp sẽ bỏ trống và đầy hấp dẫn đôì với tôi.
Trong khi tôi đang nghiền ngẫm các cơ hội thì bạn tôi - David Edwards làm việc ở Citibank gọi điện và mời chúng tôi đi Haiti với anh ấy. Anh nói anh có điểm tích lũy dành cho hành khách thường xuyên đủ để trả tiền vé máy bay cho chúng tôi và anh muốn chuyến đi này thay cho quà cưới anh dành tặng chúng tôi. Chưa đầy một tuần sau khi đi Mexico về, chúng tôi lại lên đường.
Tới cuối năm 1975, Bố già Bác sĩ Duvalier đã lui khỏi chính trường, người kế tục là con trai ông, một chàng thanh niên đẫy đà mà ai cũng gọi là Bác sĩ con. Một hôm chúng tôi nhìn thấy anh ta lái Xe băng qua quảng trường trước dinh thự của anh ta ở Port-au-Prince để đặt vòng hoa tưởng niệm ở tượng đài độc lập của Haiti, một bức tượng người nô lệ mạnh mẽ được tự do đang thổi kèn vỏ sò. Đám vệ sĩ của anh này, nhóm Tontons Macoutes khét tiếng, đứng khắp nơi với vẻ đe dọa, đeo kính đen và súng máy trong tay.
Gia đình nhà Duvalier đã chiếm cứ, cướp bóc và điều hành đất nước Haiti kém cỏi đến mức biến nó thành quốc gia nghèo nhất bán cầu của chúng ta. Port-au-Prince vẫn còn nhiều chỗ đẹp đẽ nhưng vẫn nhuốm màu vinh quang tàn phai. Tôi nhớ nhất là những tấm thảm đã sờn tưa và những chiếc ghế dài bị gãy trong Thánh đường Quốc gia. Bất chấp nghèo đói và chuyên chính trị, tôi thấy người Haiti vẫn rất thú vị. Họ có vẻ đầy sức sống và thông minh, và họ tạo ra những tác phẩm nghệ thuật dân gian rất đẹp và nền âm nhạc quyến rũ. Tôi ngưỡng mộ cái cung cách họ dường như không chỉ sống còn mà còn biết vui hưởng cuộc sống.
Tôi đặc biệt bị mê hoặc bởi tôn giáo và văn hóa bùa chú (voodoo) mà ở New Orleans tôi đã tiếp xúc ít nhiều. Tôn giáo này tồn tại song song với Công giáo ở Haiti.
Tên gọi của tôn giáo truyền thống ở Haiti bắt nguồn từ ngôn ngữ Fon của Benin ở Tây Phi, nơi khởi phát bùa chú (voodoo), có nghĩa là "Chúa Trời" hay "linh hồn", không bao hàm ý nghĩa ma thuật đen và phù thủy như trong rất nhiều bộ phim. Nghi lễ chính của voodoo là một điệu nhảy, trong đó các linh hồn nhập vào các tín đồ. Ngày thú vị nhất của chuyến đi là lần tôi được chứng kiến nghi lễ voodoo. Đối tác Citibank của David ở Port-au-Prince đề nghị đưa David, Hillary và tôi đến ngôi làng gần ấy để gặp một giáo sĩ voodoo đặc biệt. Max Beauvoir đã trải qua 15 năm sông ở ngoài Haiti, học tại Đại học Sorbonne ở Paris và làm việc ở New York. Ông ta có bà vợ người Pháp tóc vàng rất đẹp và hai cô con gái sáng láng. Max từng là kỹ sư hóa cho đến khi người ông giáo sĩ voodoo của ông lúc lâm chung đã chọn Max làm người kế tục. Max là một tín đồ voodoo, và đã kế nghiệp ông mình, mặc dù như vậy là một thách thức đối với người vợ Tây và những đứa con đã bị Tây hóa.
Chúng tôi đến làng lúc chiều muộn, khoảng một giờ trước khi bắt đầu buổi lễ nhảy múa mà Max cho khách du lịch trả tiền đến xem nhằm trang trải chi phí cho hoạt động của ông. Ông giải thích, trong voodoo, Chúa Trời hiện thân đôi với con người thông qua các linh hồn đại diện cho lực lượng của ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, thường là ở thế tương đối cân bằng. Sau khi Hillary, David và tôi kết thúc khóa học ngắn gọn về thần học voodoo, chúng tôi được dẫn đến một khoảng đất trông và ngồi cùng những người khách khác cũng đến để chứng kiến buổi lễ, khi các linh hồn được mời về và nhập vào xác của các tín đồ. Sau vài phút nhảy múa theo nhịp trống vang vang, các linh hồn hiện về, nhập vào một người phụ nữ và một người đàn ông. Người đàn ông bắt đầu xoa khúc củi đang cháy khắp toàn thân và bước đi trên than hồng mà không bị bỏng. Người phụ nữ, trong không khí cuồng nhiệt, hét lên từng đợt rồi chộp lấy một con gà sống và cắn đứt đầu nó. Sau đó các linh hồn bỏ đi và những người bị hồn nhập ngã vật xuống đất.
Vài năm sau khi tôi chứng kiến sự kiện phi thường này, một nhà khoa học của trường Đại học Harvard tên Wade Davis đến Haiti tìm kiếm lời giải thích cho hiện tượng người chết sống lại cũng đến gặp Max Beauvoir. Theo cuốn sách The Serpent and the Rainbow - Kẻ quỷ quyệt và cầu vồng, với sự giúp đỡ của Max và con gái, Davis đã cố gắng vén bức màn bí ẩn về hiện tượng zombie, những người rõ ràng đã chết và lại sống dậy. Họ bị các hội kín ép phải uổng một loại thuốc độc để trừng phạt vì một tội gì đó. Thuốc độc tetrodotoxin được chích xuất từ cá puffer (một loài cá thuộc dòng Tetraodontidae có thể phồng lên, có lẽ giống cá nóc - ND). Với lượng vừa đủ, thuốc có thể làm cơ thể tê liệt và giảm hô hấp đến mức bác sĩ cũng tin rằng người đó đã chết. Khi chất độc tan thì người đó thức dậy. Vài trường hợp tương tự đã xảv ra ở Nhật Bản, cá puffer có thể trở thành món ăn rất ngon nếu chế biến hợp lý, hoặc có thể gây chết người nếu làm không đúng cách.
Tôi mô tả chuyến phiêu lưu ngắn ngủi vào thế giới voodoo vì tôi luôn bị mê hoặc bởi cách các nền văn hóa khác nhau cố giải thích ý nghĩa sự sống, thiên nhiên, và niềm tin có tính toàn cầu rằng trên thế giới này trước khi loài người xuất hiện đã có thế lực linh hồn tồn tại, và sẽ vẫn còn tồn tại sau khi chúng ta đã chết. Cách hiểu của người Haiti về hiện thân của Chúa Trời trong cuộc sống của chúng ta rất khác so với cách hiểu của người theo đạo Thiên chúa, Do Thái giáo, đạo Hồi, nhưng những kinh nghiệm được ghi lại của họ đã chứng minh một câu ngạn ngữ cũ rằng Chúa Trời hành động rất bí ẩn.
Từ Haiti trở về, tôi quyết định sẽ ra tranh cử chức Bộ trưởng tư pháp. Tôi nghỉ thêm một kỳ phép ở trường luật và bắt tay vào việc. Tôi có hai đối thủ ở vòng bầu cử sơ bộ của đảng dân chủ: Gẻoge Jernigan, Bộ trưởng Ngoại giao; và Clarence Cash, người đứng đầu bộ phận bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong văn phòng của Jim Guy Tucker. Cả hai đều ăn nói lưu loát và không lớn tuổi hơn tôi bao nhiêu. Jernigan có vẻ ấn tượng hơn, có nhiều bạn bè trong tổ chức của Thống đốc Pryor, ở một số tòa án quận, và trong số những người bảo thủ khắp tiểu bang. Kể cũng lạ, không có ứng viên đảng Cộng hòa, đây là lần duy nhất tôi tranh cử mà không có phe đối lập trong cuộc tổng tuyển cử.
Tôi biết tôi phải vận động từ Little Rock. Ngoài việc là thủ phủ bang, nơi đây là trung tâm của bang và có tiềm năng cử tri và gây quỹ lớn nhất. Tôi lập tổng hành dinh trong một căn nhà cũ cách tòa nhà quốc hội tiểu bang vài dãy nhà. YVally DeRoeck, một chủ nhà băng trẻ ở Jonesboro, đồng ý làm chủ nhiệm cuộc vận động của tôi. Steve Smith, người từng làm việc rất tốt trong cuộc đua vào quốc hội của tôi, cũng đồng ý làm quản lý cuộc vận động. Văn phòng do Linda McGee phụ trách, cô là người biết cách làm việc hiệu quả với ngân sách eo hẹp: suốt toàn bộ chiến dịch vận động chúng tôi chỉ xài hết có 100.000 đôla. Bằng cách nào đó, Linda vẫn giữ được văn phòng mở cửa, chi trả các khoản và quản lý được các tình nguyện viên. Tôi được mời nghỉ ở nhà của Paul Berry, người trước đây tôi gặp và rất có cảm tình khi anh điều hành văn phòng Arkansas của Thượng nghị sĩ McClellan và lúc đấy đang làm phó chủ tịch ngân hàng Union Bank. Ngoài mọi thứ khác ra, anh cũng luôn luôn buộc tôi phải nghỉ trên cái giường duy nhất trong nhà, cho dù tôi về nhà lúc hai hay ba giờ sáng. Đêm nào về đến nhà tôi cũng thấy anh đang ngủ trên ghế dài trong phòng khách, đèn bếp vẫn sáng và để sẵn món ăn vặt tôi ưa thích là bơ đậu phộng và cà rốt.
Bạn bè lâu năm như Mack McLarty và Vince Foster giúp tôi đặt chân vào giới kinh doanh và. những cộng đồng chuyên nghiệp của Little Rock. Tôi vẫn được các lãnh đạo nghiệp đoàn ủng hộ nhiệt tình, mặc dù một số họ đã quay lưng lại khi tôi từ chối ký đơn kiến nghị ủng hộ nghiệp đoàn nhằm bãi bỏ các đạo luật về quyền làm việc Arkansas bằng cách đưa vấn đề ra trong cuộc bỏ phiếu tháng 11. Các luật về quyền làm việc cho phép người ta làm việc trong các cơ sở có nghiệp đoàn phải trá tiền phí nghiệp đoàn. Vào thời điểm đó, luật này đang kêu gọi những người ủng hộ tôi. Về sau tôi được biết Thượng nghị sĩ McClellan ấn tượng trước quan điểm của tôi đến mức đã yêu cầu Paul Berry gọi cho những người ủng hộ quan trọng của ông để thông báo rằng ông ủng hộ tôi. Vài năm sau, tôi thay đổi quan điểm về quyền làm việc. Tôi nghĩ thật không đúng khi người ta vẫn cứ hưởng lương, chế độ chăm sóc sức khỏe và lương hưu cao thường thấy trong các cơ sở có nghiệp đoàn mà lại không phải đóng góp gì cho các nghiệp đoàn vốn đã giúp họ có được những thứ ấy.
Cơ sở của tôi ở quận thứ Ba có vẻ rất vững chắc. Những người từng làm việc cho tôi năm 1974 nay cũng rất muốn tiếp tục. Tôi còn được giúp thêm bởi hai em trai của Hillary, cả hai đã chuyển đến Fayetteville và ghi danh học đại học. Họ cũng làm cho cuộc sống của chúng tôi vui hơn. Một đêm, tôi và Hillary đến chỗ họ ăn tối và bỏ cả buổi tối nghe Hugh giúp vui bằng những câu chuyên phiêu lưu ở Colombia với Tổ chức thiện nguyện Hòa bình - những câu chuyện nghe như lấy từ cuốn Trăm năm cô đơn ra nhưng Hugh thề rằng tất cả đều là thật. Anh cũng làm cả thức uống pinã coladas, một loại thức uống có vị như nước trái cây nhưng khá nặng. Sau hai hay ba ly, tôi thấy buồn ngủ đến mức ra ngoài và leo lên băng sau chiếc xe pick-up Chevy E1 Camino mà tôi thừa hưởng từ Jeff Dwire. Phía sau được bọc bằng Astroturf, thế là tôi ngủ say như chết. Hillary lái xe đưa tôi về nhà, và hôm sau tôi đi làm lại. Tôi rất thích cái xe pick-up và lái nó cho đến khi cũ mèm.
Trong tiểu bang, tôi được ủng hộ mạnh mẽ ở Hope và các vùng xung quanh nơi tôi sinh ra, và ở năm hay sáu hạt ngoài quận thứ Ba nơi tôi có họ hàng. Tôi khởi đầu khá thuận lợi với người da đen ở trung, đông và nam Arkansas nhờ các cựu sinh viên đang hành nghề luật ở đó. Tôi còn được sự ủng hộ của các nhà hoạt động Dân chủ từng cổ vũ tôi tranh đua với Hammerschmidt hoặc tham gia vào công việc ở ủy ban nâng đỡ những người bị thiệt thòi vì chủng tộc. Tuy thế, vẫn còn những lỗ hổng lớn trong tổ chức. Phần lớn cuộc vận động là nhằm lấp đầy những khoảng trống này.
Khi đi khắp bang để vận động, tôi phải đối phó với nhiều thế lực chính trị mới, phong trào Moral Majority (Đa số đạo đức) do mục sư Jerry Falwell sáng lập. Ông này là một mục sư Baptist bảo thủ ở Virginia có nhiều người ủng hộ qua truyền hình và đang dùng lợi thế đó để tạo ra một tổ chức quốc gia trung thành với tư tưởng Thiên chúa chính thống và chính trị cánh hữu. Ở nhiều nơi trong bang, khi bắt tay mọi người đôi khi người ta hỏi xem tôi có phải tín hữu Cơ đốc không. Khi trả lời phải, người ta có thể hỏi thêm rằng tôi có phải là tín đồ Cơ đốc cuồng nhiệt hay không. Khi tôi trả lời có thì sẽ có thêm vài câu hỏi nữa rõ ràng là do các tổ chức của Falwell mớm cho. Một lần khi đang vận động ở Conway, cách Little Rock khoảng 30 dặm về hướng đông, tôi đang ở trong phòng làm việc của thư ký hạt, nơi đặt hòm phiếu cử tri vắng mặt. Một người trong số những phụ nữ làm việc ở đó hỏi tôi những câu hỏi như vậy. Rõ ràng tôi đã trả lời không đúng với một trong sô họ, và trước khi tôi rời khỏi tòa án, bà ta đã làm tôi mất bốn phiếu. Tôi không biết phải làm sao. Tôi không muốn trả lời thiếu trung thực về niềm tin tôn giáo, nhưng cũng không muốn mất phiếu. Tôi gọi cho Thượng nghị sĩ Bumpers, một tín đồ Giám lý cấp tiến, để xin lời khuyên. Ông nói: "Ôi, tôi gặp chuyên đó hoài. Nhưng tôi không bao giờ cho họ vượt qua cầu hỏi đầu tiên. Khi họ hỏi có phải tôi là tín hữu Cơ đốc không, tôi bảo: "Tôi rất hy vọng như vậy, và tôi luôn luôn cố gắng như vậy. Nhưng tôi thực sự nghĩ chỉ có Chúa Trời mới phán xét được chuyện đó. Nói thế luôn làm cho họ ngậm miệng ngay". Khi Bumpers nói xong, tôi cười phá lên và nói rằng bây giờ tôi đã biết vì sao ông làm thượng nghị sĩ còn tôi chỉ là ứng viên cho chức Bộ trưởng tư pháp. Và từ đó đến cuốì cuộc vận động, tôi dùng câu trả lời của ông.
Sự kiện buồn cười nhất trong cuộc đua xảy ra ở hạt Mississippi, phía tây bắc xa xôi của Arkansas. Hạt này có hai thành phố, Blytheville và Osceola, và nhiều thị trấn nhỏ chủ yếu là dân chủ trang trại có nhiều đất đai. Thường thì những người làm việc ở nông trại và các tiểu thương có thu nhập từ nguồn này hay bỏ phiếu theo lựa chọn của giới chủ trại, thường là cho ứng viên bảo thủ nhất - trong trường hợp này là bộ trưởng ngoại giao Jernigan. Hạt Mississippi cũng có một tổ chức tại chỗ hùng mạnh cho thẩm phán hạt đứng đầu tên "Shug" Banks, người cũng ủng hộ Jernigan.
Có vẻ như chẳng còn hy vọng, nhưng hạt này rất lớn nên không thể bỏ qua, vì thế tôi dành ra một ngày thứ bảy đến vận động ở Blytheville và Osceola. Tôi đi một mình, và nói một cách nhẹ nhàng nhất thì đó đúng là một ngày đáng thất vọng. Ở cả hai nơi, mặc dù tôi cũng có một vài người ủng hộ nhờ các bạn cũ cùng học luật, hầu hết những người tôi gặp hoặc là chống lại tôi hoặc không hề biết và cũng chẳng cần biết tôi là ai. Tuy vậy, tôi vẫn nắm lấy bất kỳ bàn tay nào chìa ra, kết thúc công việc ở Osceola lúc 11 giờ đêm. Tôi chỉ chịu bỏ cuộc khi nhận ra rằng còn phải lái xe ba tiếng về Little Rock và không muốn ngủ gục trên vô lăng.
Đang lái xe dọc theo một loạt các khu nhà nhỏ, tôi nhận ra cả ngày mình đã không ăn uống gì và thấy đói. Khi đến một nơi gọi là Joiner, tôi thấy đèn vẫn sáng ở quầy bia. Tôi tấp xe vào hy vọng người ta có bán đồ ăn. Ở đó chỉ có một người đàn ông đứng sau quầy bar và bốn người khác đang chơi domino. Sau khi gọi một cái hamburger, tôi ra ngoài đến chỗ điện thoại công cộng để gọi cho Hillary. Lúc quay lại, tôi quyết định đến tự giới thiệu với mấy người đang chơi domino. Cũng như nhiều người khác tôi gặp hôm đó, ba người chẳng biết tôi là ai và cũng không quan tâm. Người thứ tư nhìn lên và mỉm cười. Tôi không bao giờ quên những lời đầu tiên của ông: "Này nhóc, ở đây bọn này sẽ giết chết tươi cậu đấy. Cậu có biết thế không?". Tôi trả lời rằng tôi có cảm tưởng như vậy sau một ngày đi vận đồng, nhưng tôi rất buồn khi phải nghe thấy điều ấy được khẳng định. "À, bọn này sẽ hạ cậu ", ông ta nói tiếp. "Cậu là tay giáo sư đại học hippie tóc dài. Đối với bọn này thì cậu coi như một tay cộng sản. Nhưng tôi nói cho cậu hay nhé. Người nào sẵn sàng vận động trong quầy bia ở Joiner lúc nửa đêm thứ bảy thì xứng đáng thắng được một hòm phiếu. Cậu cứ chờ đấy. Cậu sẽ thắng ở đây. Nhưng đây sẽ là nơi duy nhất trong cả hạt này cậu thắng nổi thôi đấy".
Người đàn ông đó tên R. L. Cox và ông tốt bụng như lời nói của ông vậy. Trong đêm bầu cử, ở những khu vực bầu cử khác do những ông chủ trang trại đại gia kiểm soát, tôi bị đè bẹp, nhưng tôi được 76 phiếu ờ Joiner và hai đối thủ của tôi được 49 phiếu. Đó là nơi duy nhât ở hạt Mississippi tôi thắng, ngoài hai khu vực bầu cử của người da đen ở Blytheville đã đổi thái độ vào dịp cuối tuần ngay trước ngày bầu cử nhờ công của một nhà thầu tang lễ người da đen là LaVester McDonald và một chủ bút tờ báo địa phương là Hank Haines.
Thật may là ở những nơi khác tôi đã làm rất tốt, và thắng hơn 55% tổng số phiếu và được sự ủng hộ ở 69 trên 75 quận nhờ phần lớn số phiếu bầu ở nam Arkansas nơi tôi có rất nhiều họ hàng và bạn bè tốt, và gần 74% ở Quận nghị viện thứ Ba. Tất cả những người đã làm việc cật lực cho tôi năm 1974 cuôi cùng đã được tưởng thưởng xứng đáng bằng một chiến thắng.
Mùa hè sau ngày bầu cử là thời gian hạnh phúc cho tôi và Hillary. Hai tháng đầu tiên chúng tôi dành chỉ để vui chơi ở Fayetteville với bạn bè. Sau đó, vào giữa tháng 7, chúng tôi đi châu Âu, dừng ở New York một đêm để dự đại hội đảng Dân chủ, chúng tôi bay đi Paris gặp David Edwards đang làm việc ở Paris. Sau vài ngày chúng tôi đi Tây Ban Nha. Ngay khi chúng tôi đi qua rặng Pyrenees, tôi nhận được lời nhắn gọi điện cho chiến dịch tranh cử của Carter. Đến làng Castro Urdiales tôi gọi lại và được yêu cầu làm chủ tịch chiến dịch ở Arkansas và tôi đồng ý ngay. Tôi rất ủng hộ Jimmy Carter, và mặc dù tôi đã được lên lịch dạy vào mùa thu ở Fayetteville, tôi biết mình vẫn sẽ làm được. Carter cực kỳ được ưa chuộng ở Arkansas nhờ thành tích hoạt động tiến bộ, kinh nghiệm nhà nông, sự gắn bó thực sự của ông với tín ngưỡng Baptist phương Nam và những mối liên hệ cá nhân, trong đó có nhiều người
Arkansas nổi bật đã từng cùng học với ông ở Học viện Hải quân, vấn đề ở Arkansas không phải ở chỗ bang này có ủng hộ ông hay không mà là bao nhiêu người sẽ ủng hộ- Sau nhiều kỳ bầu cử thất bại, viễn cảnh thắng lợi hai kỳ trong một năm quả là hấp dẫn không thể bỏ qua.
Chúng tôi kết thúc kỳ nghỉ ở Tây Ban Nha bằng chặng dừng ở Guernica, thành phố được tưởng nhớ qua bức tranh nổi tiếng của Picasso về trận bom thả xuống đây trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Chúng tôi đến nơi, lễ hội xứ Basque đang diễn ra. Chúng tôi rất thích nhạc và các điệu múa nhưng gặp rắc rối với một món đặc sản địa phương - món cá lạnh ngâm sữa. Chúng tôi khám phá các hang động có nhiều bức họa tiền sử và trải qua một ngày tuyệt vời dưới bóng rặng Pyrenees phủ tuyết trên một bờ biển nóng nực có một nhà hàng nhỏ nhưng bán đồ ăn ngon rẻ và bia với giá năm xu một ly. Ở biên giới trên đường quay về lại Pháp - lúc đó đã là đầu tháng 8, mùa đi nghỉ ở châu Âu - xe hơi xếp hàng dài trước mặt chúng tôi ngút tầm mắt, bằng chứng cho thái độ có lý của người châu Âu rằng cuộc sống không chỉ là công việc. Đối với tôi, càng ngày càng khó sống theo câu châm ngôn ấy.
Khi chúng tôi về nhà, tôi đến Little Rock để thiết lập điều hành cuộc vận động với Craig Campbell, cựu nhân viên điều hành cấp tiểu bang của đảng Dân chủ đang làm việc cho Stephens, Inc. ở Little Rock, lúc bấy giờ là ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ hoạt động ngoài phố Wall. Chủ ngân hàng này là Witt và Jack Stephens. Witt Stephens là một thế lực lâu năm trong sân khấu chính trị tiểu bang. Jack trẻ hơn Witt 10 tuổi, cùng học với Jimmy Carter ở Học viện Hải quân. Craig là một người to lớn, ưa nhìn, thích vui đùa và nhạy cảm trong cá tính cũng như khi hoạt động chính trị, nhờ thế anh làm việc rất hiệu quả.
Tôi đi khắp bang để bảo đảm sao cho tổ chức của chúng tôi hoạt động được ở tất cả các hạt. Một tối chủ nhật nọ, tôi đến một nhà thờ nhỏ dành cho người da đen ngay ngoài Little Rock. Vị mục sư ở đây là Cato Brooks. Khi chúng tôi đến nơi, nhà thờ đang tràn ngập tiếng nhạc của dàn đồng ca nhà thờ. Đến bài thứ hai hoặc thứ ba thì cánh cửa bật mở và một phụ nữ trẻ trông giống Diana Ross chân đi ủng cao ngang đầu gối màu đen, bộ áo bó sát người, bước dọc lối đi giữa hai hàng ghế, vẫy tay với dàn đồng ca và ngồi xuống bên cây đại phong cầm. Tôi chưa bao giờ được nghe nhạc đại phong cầm như thế bao giờ. Tiếng nhạc mạnh mẽ đến mức tôi sẽ không ngạc nhiên nếu cây đàn bỗng bay lên và bay khỏi nhà thờ bằng chính năng lượng của nó. Khi Cato đứng dậy để giảng, bốn hoặc năm người đàn ông đến ngồi quanh ông trên những chiếc ghê gấp. Mục sư ngân nga và gân như hát cả bài giảng bằng giọng bổng trầm nhịp nhàng, được đệm nhịp bằng âm thanh của vài chiếc muỗng mà những người đàn ỏng kia đập gõ vào đầu gối họ. Sau bài giảng, mục sư Brooks giới thiệu tôi nói chuyện thay mặt Carter. Tôi cũng hùng hồn lắm, nhưng không thể bằng Cato được. Khi tôi ngồi xuống, ông nói với tôi rằng nhà thờ sẽ ủng hộ cho Carter và đề nghị tôi ra về bởi vì họ sẽ còn ở đó thêm một vài giờ đồng hồ nữa. Tôi vừa ra khỏi nhà thờ vài bước, một giọng nói đuổi theo tôi: "Này, anh da trắng, có muốn giúp gì cho cuộc vận động không?". Đó là người chơi đại phong cầm, Paula Cotton. Cô trở thành một trong số những tình nguyện viên tốt nhất của chúng tôi. Cato Brooks chuyển đến Chicago không lâu sau cuộc vận động. Ông ấy quá giỏi, không thể cứ quanh quẩn ở khu nông trại đó mãi được.
Khi tôi làm việc ở Arkansas, Hillary cũng tham gia cuộc vận động của Jimmy Carter và nhận nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều. Cô ấy trở thành điều phối viên tại chỗ ở Indiana, một bang theo truyền thống thường bỏ phiếu cho phái Cộng hòa trong cuộc bầu cử tổng thống nhưng nhóm cộng sự của Carter hy vọng rằng cội nguồn nông thôn của ông có thể đem lại cơ hội chiến thắng. Cô ấy làm việc căng thẳng và có vài cuộc phiêu lưu thú vị mà cô rất hào hứng kể lại cho tôi qua điện thoại hàng ngày và trong chuyến đi duy nhất của tôi đến Indianapolis.
Chiến dịch mùa thu y như một đường trượt cảm giác mạnh. Sau đại hội ở New York, Carter dẫn trước Tổng thống Ford 30 điểm, nhưng trên cả nước thì sự ủng hộ của hai bên chia đều hơn. Tổng thống Ford đã nỗ lực bám sát một cách rất ngoạn mục, chủ yếu bằng cách đặt câu hỏi rằng liệu một thống đốc miền Nam, với hứa hẹn cơ bản nhất là đem lại cho chúng ta một chính phủ trong sạch như người Mỹ, có đủ kinh nghiệm để làm Tổng thống hay không. Cuối cùng Carter đánh bại Ford nhờ 2% số phiếu phổ thông và 297 phiếu đại cử tri so với 240. Ở Indiana thì tình hình quá căng thẳng đối với chúng tôi, nhưng ở Arkansas chúng tôi được ủng hộ với 65%, chỉ thua khoảng cách hai điểm so với mức 67% mà Tổng thống Carter có được ở Georgia - quê hương ông, và hơn bảy điểm so với Tây Virginia, bang mà chúng tôi thắng với số phiếu cách biệt lớn chỉ sau bang chúng tôi.
Sau cuộc vận động, tôi và Hillary về nhà vài tháng và tôi hoàn thành nhiệm vụ dạy học cuôi cùng của mình, môn Tranh chấp hàng hải và Luật Hiến pháp. Trong ba năm và ba tháng tôi đã dạy tám khóa học trong năm học kỳ và một khóa mùa hè, dạy hai khóa phụ đạo về luật cho các nhân viên bảo vệ pháp luật ở Little Rock, tranh cử hai lần, và điều hành cuộc vận động tranh cử của Carter. Và tôi yêu thích từng phút một của tất cả mọi công việc, chỉ thấy nuối tiếc thời gian không thể dành cho bạn bè và cuộc sống ở Fayetteville, và ở căn nhà nhỏ ở số 930 đường California Drive, nơi đã đem lại cho tôi và Hillary biết bao niềm vui sướng.