Chương 24
Sau nhiệm kỳ bốn năm, sự tận tuỵ và khả năng của nhân viên cũng như nội các của tôi, nhờ mối quan hệ làm việc tốt với quốc hội tiểu bang, sức mạnh của tổ chức chính trị của tôi, tôi có được không gian để tiến vào vũ đài chính trị quốc gia.
Nhờ sự khá nổi tiếng mà tôi có được từ các nỗ lực về giáo dục, kinh tế, và cải cách an sinh, cũng như việc tôi làm chủ tịch của Hiệp hội Thống đốc Quốc gia và ủy ban Giáo dục của các tiểu bang, tôi nhận được nhiều lời mời đi diễn thuyết ở các bang khác năm 1987. Tôi nhận lời đi diễn thuyết ở 15 tiểu bang. Chỉ có bốn buổi diễn thuyết trong các sự kiện của đảng Dân chủ, những buổi này đều giúp mở rộng các mối quan hệ của tôi cũng như làm tăng thêm lời đồn đại rằng tôi có thể tham gia vào cuộc đua tranh cử tổng thống.
Tôi mới 40 tuổi vào mùa xuân năm 1987, tôi quan tâm đến việc tham dự cuộc đua này, vì ba lí do. Thứ nhất, xét về mặt lịch sử những người phe Dân chủ có cơ hội tuyệt vời để chiếm lại Nhà Trắng. Có vẻ như rõ ràng rằng Phó tổng thống Bush sẽ là ứng cử viên của đảng Cộng hòa và cho đến thời điểm đó thì Phó tổng thống thứ nhất được bầu làm Tổng thống trực tiếp là Martin Van Buren, vào năm 1836, người đã kế tục Andrew Jackson trong kỳ bầu cử cuối cùng trong đó không có sự thách thức thực sự nào từ phía đảng Dân chủ. Thứ hai, tôi cảm thấy rất mạnh mẽ rằng đất nước cần phải đổi hướng. Sự tăng trưởng của chúng tôi chủ yếu nhờ vào việc tăng chi phí quốc phòng, giảm thuế một cách không đồng đều có lợi cho những ngựời Mỹ giàu nhất và đẩy mức thâm thủng lên cao. Mức thâm thủng lớn dẫn tới lãi suất cao, khi chính quyền phải cạnh tranh với những người vay tiền tư nhân, và điều đó đến lượt nó lại làm tăng giá trị đồng đôla, làm cho các sản phẩm nhập khẩu rẻ hơn và các sản phẩm xuất khẩu của Mỹ đắt tiền hơn. Vào thời điểm Mỹ bắt đầu cải thiện năng suất và tính cạnh tranh của mình, chúng tôi vẫn phải chịu mất đi nhiều việc làm trong lĩnh vực sản xuất hàng loạt và nông trại. Hơn nữa, vì thâm thủng ngân sách, chúng tôi cũng không đầu tư đầy đủ vào giáo dục, đào tạo, và các công tác nghiên cứu cần có để duy trì mức lương cao và tỷ lệ thất nghiệp thấp trong nền kinh tế toàn cầu. Vì thế 40% người Mỹ phải chịu giảm thu nhập thực tế từ giữa thập niên 70.
Lý do thứ ba tôi nghiêm túc xem xét việc tham gia cuộc chạy đua vì tôi cho rằng tôi hiểu điều gì đã xảy ra và có thể giải thích nó cho người dân Mỹ. Hơn nữa, vì tôi có thành tích hoạt động tốt trong các lĩnh vực chống tội ác, cải cách an sinh, có uy tín trong giáo dục, và trách nhiệm về mặt tài chính. Tôi không nghĩ rằng phe Cộng hòa có thể đưa ra hình ảnh tôi như một người phe Dân chủ cấp tiến cực đoan không coi trọng các giá trị chính thống và nghĩ rằng đối với bất kỳ vấn đề nào cũng đều có thể có một chương trình của chính phủ. Tôi tin rằng nếu chúng tôi có thể thoát khỏi hình ảnh "người ngoài hành tinh" mà đảng Cộng hòa đã gán cho chúng tôi từ năm 1988, ngoại trừ có sự thành công của Tổng thống Carter năm 1976, chúng tôi có thể giành lại được Nhà Trắng.
Đây là một việc khá phức tạp, vì làm cho mọi người thay đổi thái độ chính trị của mình thật không dễ, nhưng tôi nghĩ tôi có thể làm được điều đó. Vài người bạn trong lớp tôi cũng nghĩ như vậy. Khi tôi đi thăm cuộc đua 500 Indiana Police vào mùa xuân, tôi tình cờ gặp thống đốc Bob Kerrey của bang Nebraska. Tôi rất thích Bob và nghĩ rằng anh ấy cũng sẽ có thể là một ứng viên tổng thống tốt- Anh ấy đã từng được huân chương danh dự ở Việt Nam, và cũng giống như tôi, là người có quan điểm bảo thủ về mặt tài chính và tiến bộ về mặt xã hội, từng được bầu vào chức vụ một ở tiểu bang thiên về đảng Cộng hòa hơn nhiều so với Arkansas. Thật là ngạc nhiên, Bob khuyến khích tôi tranh cử và nói rằng anh ấy sẽ làm Chủ tịch ủy ban Vận động ở cấc tiểu bang miền trung tây.
Trong nội bộ có một cản trở đối với việc tôi tranh cử tổng thống: Dale Bumpers cũng nghiêm túc xem xét việc tranh cử. Trước đây tôi từng khuyến khích ông ấy ra tranh cử từ cuối năm 1974. Năm 1984 suýt nữa ông ấy cũng làm như vậy, và ông ấy có cơ hội tốt để có thể thắng cử lần này. Ông ấy từng phục vụ thủy quân lục chiến trong Thế chiến hai, là một thống đốc tuyệt vời, và là chủ tịch tốt nhất trong thượng viện. Tôi biết Dale có thể là một tổng thống tốt và ông ấy sẽ có cơ hội tốt hơn để chiến thắng hơn tôi. Tôi sẵn lòng ủng hộ ông ấy. Tôi muốn phe chúng tôi chiến thắng và thay đổi phương hướng của đất nước.
Ngày 20 tháng 3, khi tôi đang chạy bộ dọc theo Phố Chính ở Little Rock, một nhà báo địa phương chạy theo tôi và nói rằng Thượng nghị sĩ Bumpers vừa ra một tuyên bố nói rằng ông ấy sẽ không ra tranh cử tổng thống. Đơn giản là ông ấy không muốn làm như vậy. Trước đó, Thống đốc Mario Cuomo của bang New York cũng đưa ra một quyết định tương tự. Tôi dạo với Hillary và Betsey rằng tôi muốn xem xét cuộc đua này một cách nghiêm túc.
Chúng tôi gây một ít quỹ để làm các hoạt động thăm dò, và Betsey gửi một số người xuống làm việc ở Iowa, New Hampshire và một số tiểu bang phía nam khác mà sang năm sẽ bỏ phiếu như một khối vào ngày "Siêu Thứ Ba", không lâu sau bầu cử sơ bộ ở New Hamsphire. Vào ngày 7.5, cuộc bầu cử sơ bộ có vẻ càng dễ thắng hơn khi Thượng nghị sĩ Gary Hart, người suýt nữa thắng Phó tổng thống Mondale vàọ năm 1984, rút lui khỏi cuộc đua khi quan hệ của ông với Donna Rice bị phát giác. Tôi cho rằng Gary đã phạm sai lầm khi thách thức giới báo chí bươi móc ông để xem thử họ có thể moi ra được điều gì không, nhưng tội nghiệp ông ấy. Ông ấy là một chính trị gia thông minh và luôn luôn nghĩ về các thách thức lớn của nước Mỹ và giải pháp đối với các thách thức đó. Sau vụ việc của Hart, những người trong nhóm chúng tôi, những người mà đời sông riêng tư không phải là hoàn hảo không thể nào biết được các tiêu chuẩn soi mói của báo chí là như thế nào nữa. Cuôi cùng tôi cũng kết luận rằng bất cứ ai tin anh ta có thể phục vụ thì cứ việc tranh cử đối phó với bất cứ cáo buộc xảy đến và tin vào nhân dân Mỹ. Nếu không có sức chịu đựng tốt, bạn cũng không thể nào trở thành tổng thống thành công.
Tôi đặt ngày 14.7 là hạn chót để đưa quyết định, nhiều người bạn tôi từ các trận chiến chính trị trong quá khứ cũng xuống Little Rock, trong đó có Micky Kantor, Carl Wagner, Steve Cohen, John Holum, Kevin O'Keefe, Jim Lyons, Mike Driver và Sandy Berger. Tất cả bọn họ đều nghĩ tôi nên ra tranh cử; đây là cơ hội quá tốt không nên bỏ qua. Dù vậy tôi vẫn do dự. Tôi biết tôi đã sẵn sàng trở thành ứng cử viên tốt nhưng tôi không chắc chắn rằng tôi đã trải đời đủ lâu để có được sự thông thái và óc phán đoán cần thiết để trở thành một tổng thống tốt. Nếu được bầu, tôi ở tuổi 42, xấp xỉ tuổi của Theodore Roosevelt khi ông ấy tuyên thệ nhậm chức sau khi Tổng thống McKinley bị ám sát và nhỏ hơn Kennedy một tuổi khi ông ấy được bầu. Nhưng cả hai người đó đều xuất thân từ những gia đình giàu có và nổi bật về mặt chính trị, và đã trưởng thành trong một môi trường làm cho họ cảm thây thoải mái với quyền lực. Hai người tổng thống yêu thích nhất của tôi, Lincoln và FDR đều 51 tuổi khi họ nhậm chức, hoàn toàn chín chắn và có thể kiểm soát được bản thân cũng như trách nhiệm của họ. Vào ngày sinh nhật thứ 51 của tôi, AI Gore tặng tôi một vài mô tả quan điểm về lứa tuổi của người Chero¬kee. Người Cherokee tin rằng một người đàn ông chưa thể chm chắn hoàn toàn cho đến khi anh ta 51 tuổi.
Điều thứ hai làm tôi áy náy là những khó khăn của một cuộc vận động tranh cử tổng thống sẽ gây ra cho nhiệm kỳ thống đốc của tôi. Năm 1987 là hạn chót để áp dụng các tiêu chuẩn về trường học. Tôi đã triệu tập một kỳ họp đặc biệt để gây quỹ dành cho các trường học và các nhà tù quá tải. Đúng là một cuộc tranh cãi căng thẳng làm cho mối quan hệ của tôi với nhiều thành viên quốc hội tiểu bang trở nên căng thẳng, và suýt nữa thất bại trước khi chúng tôi thu lượm được đủ số phiếu vào phút chót để làm những điều cần làm. Tôi biết rằng, rất có thể tôi sẽ phải triệu tập thêm một kỳ họp đặc biệt nữa vào đầu năm 1988. Tôi quyết tâm áp dụng hoàn toàn những tiêu chuẩn trường học và phát triển thêm các tiêu chuẩn này. Đó là cơ hội duy nhất mà phần lớn những trẻ em nghèo trong tiểu bang của tôi có được để vươn tới một tương lai tốt hơn. 60% học sinh trong trường tiểu học của Chelsea là học sinh da đen, và hơn một nửa số học sinh đến từ các gia đình có thu nhập thấp. Tôi còn nhớ có một chú nhóc khi được mời đến dự tiệc sinh nhật ở dinh thự thống đốc suýt nữa đã không đến được vì chú nhóc không đủ tiền để mua quà cho Chelsea. Tôi quyết tâm cho bé trai đó một cơ hội tốt hơn mà cha mẹ nó từng có.
Tờ Arkansas Gazette, vẫn luôn ủng hộ tôi trong mọi chiến dịch tranh cử, viết một bài bình luận nói rằng tôi không nên ra tranh cử vì hai lý do mà chính tôi cũng cảm thấy lo lắng. Dù công nhận tiềm năng mạnh mẽ của tôi trong việc có thể lãnh đạo quốc gia, tờ báo này viết "Bill Clinton chưa sẵn sàng để làm tổng thống" và "Arkansas vẫn cần thống đốc Clinton".
Tham vọng là một lực hút rất mạnh và tham vọng trở thành tổng thống đã khiến nhiều ứng cử viên làm ngơ những hạn chê của chính ông ta cũng như trách nhiệm công việc ông ta đang làm. Tôi luôn luôn nghĩ rằng tôi có thể vượt qua bất cứ tình huống nào, chịu đựng được những thử thách khắc nghiệt nhất, và làm hai hoặc ba việc cùng một lúc. Năm 1987 tôi đã có thể đưa ra một quyết định dựa trên sự tự tin và có động lực là lòng tham vọng, nhưng tôi đã không làm như vậy. Điều cuối cùng đưa ra giải pháp cho tôi là một phần của đời tôi mà chính trị không thể chạm tới: đó là Chelsea. Carl Wagner, người cũng có một cô con gái, nói'với tôi rằng tôi phải miễn cưỡng chấp nhận sự vắng mặt của Chelsea trong hầu hết 16 tháng tới. Mickey Kantor đang nói với tôi về chuyện đó thì Chelsea hỏi tôi chúng tôi sẽ đi nghỉ hè ở đâu. Khi tôi nói có thể tôi sẽ không nghỉ hè được nếu tôi ra tranh cử tổng thông thì Chelsea nói "thế thì mẹ và con sẽ đi mà không có ba". Như thế là đã rõ câu trả lời.
Tôi đi vào phòng ăn của dinh thự thống đốc, nơi các bạn tôi đang ăn trưa, và bảo họ rằng tôi sẽ không ra tranh cử, và xin lỗi đã mời họ đến đây. Sau đó tôi tới tòa tiền sảnh để đưa ra thông báo của mình trước vài trăm ủng hộ viên. Tôi cố gắng hết sức để giải thích tại sao tôi đã đến gần quyết định như vậy nhưng lại lùi lại:
Tôi cần thời gian dành cho gia đình, tôi cần thời gian dành cho riêng tôi. Các chính trị gia cũng là con người. Tôi nghĩ đôi khi chúng ta quên mất điều này nhưng thực sự họ cũng là con người. Điều duy nhất mà tôi hay bất kỳ ứng cử viên nào khác đưa ra quyết định ứng cử chức tổng thống là động lực bên trong. Đó chính là điều truyền lửa cho mọi người và đạt được độ tin cậy cũng như các lá phiếu của họ, cho dù họ ở Wisconsin hay Montana hay New York. Trong đó cuộc đời tôi cần phải được làm mới lại. Lý do kia và là lý do quan trọng hơn đối với quyết định của tôi là việc tham dự chiến dịch tranh cử tổng thống chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến con gái của chúng tôi. Cách duy nhất để tôi có thể thắng được khi tham dự cuộc đua vào Nhà Trắng muộn thế này sau khi những người khác đã chuẩn bị từ hai năm trước sẽ là phải đi thực tế toàn thời gian từ lúc này cho đến cuối cuộc vận động, và phải nhờ Hillary cũng làm như vậy... Tôi từng chứng kiến rất nhiều trẻ em phải lớn lên dưới những sức ép như vậy và đã từ rất lâu tôi đã tự hứa với mình rằng nếu tôi may mắn có một đứa con, con tôi sẽ không bao giờ phải lớn lên mà luôn phải tự hỏi cha mình là ai.
Mặc dù cô ấy đã nói cô ấy sẽ ủng hộ tôi cho dù tôi có quyết định như thế nào, Hillary vẫn cảm thấy nhẹ nhõm. Cô ấy nghĩ tôi nên kết thúc phần công việc tôi đã mở đầu ở Arkansas và tiếp tục xây dựng một nền tảng ủng hộ mạnh mẽ trên toàn quốc. Và cô ấy biết rằng đây chưa phải là thời điểm tốt tôi có thể xa gia đình. Mẹ đang gặp rắc rối trong công việc gây mê của bà, Roger mới ra khỏi tù được một vài năm, và cha mẹ của Hillary chuyển đến Little Rock. Vào tháng 1 năm 1983 trong khi tôi đọc bài diễn văn nhậm chức của tôi trước quốc hội tiểu bang, Hugh Rodham đã ngã sụm trên ghế. Ông ấy bị một cơn đau tim nặng và được chở ngay đến Trung tâm Y tế Đại học để phẫu thuật. Khi tỉnh dậý tôi ở bên cạnh ông ấy. Khi biết chắc chắn ông ấy đã tỉnh táo, tôi nói "Bài diễn văn đâu hay đến mức để người ta bị đau tim!". Năm 1987, ông ấy lại bị một cơn đột quỵ nhẹ. Hugh và Dorothy không cần phải sống một mình ở Park Ridge. Chúng tôi muốn họ sống bên cạnh và họ cũng mong được chuyển về gần chúng tôi, chủ yếu là để gần đứa cháu duy nhât của mình, dù vậy, điều đó khiến họ phải thay đổi nhiều thứ.
Cuối cùng, Hillary rất vui khi tôi không ra tranh cử vì cô ấy không đồng ý với suy nghĩ thông thường rằng những người phe Dân chủ có nhiều khả năng thắng cử vào năm 1988. Cô ấy không cho rằng cuộc Cách mạng Reagan đã đi hết và tin rằng dù có vụ Iran- Contra, George Bush vẫn thắng cử với tư cách là một phiên bản ôn hòa hơn của Reagan. Bốn năm sau khi triển vọng chiến thắng tăm tối hơn rất nhiều, khi tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Bush đạt hơn 70%, Hillary lại khuyến khích tôi ra tranh cử. Như thường lệ, cô ấy đều đúng trong cả hai lần.
Sau khi tuyên bố quyết định, tôi cảm thấy gánh nặng của cả thế giới được nhấc khỏi vai tôi. Tôi lại được tự do để làm cha, chồng, và một thống đốc và làm việc cũng như phát biểu về các vấn đề tầm vóc toàn quốc mà không phải bận rộn về những tham vọng.
Vào tháng 7, Hillary, Chelsea và tôi đến Hội nghị mùa hè các thống đốc ở thành phố Traverse, bang Michigan để kết thúc năm chủ tịch của tôi. Người kê nhiệm tôi là John Sununu, thống đốc bang New Hamsphire, người đã hứa sẽ tiếp tục công cuộc cải cách an sinh và có quan hệ tốt với tôi. Sau khi chúng tôi kết thúc kỳ họp, các thống đốc Dân chủ đến đảo Mackinaw, nơi thống đốc Jim Blanchard họp chúng tôi lại để gặp tất cả các ứng viên tổng thống, trong đó có Thượng nghị sĩ AI Gore, Thượng nghị sĩ Paul Simon, Thượng nghị sĩ Joe Biden, dân biểu Dick Gephardt, mục sư Jesse Jackson, cựu thống đốc Burce Babbitt của bang Arizona và thống đốc Mike Dukakis. Tôi nghĩ chúng tôi có một đội ngũ tốt nhưng tôi vẫn thích Dukakis hơn. Ở Massachusetts, ông ấy đã quản lý để có được một nền kinh tế công nghệ cao thành công, ngân sách cân bằng và thúc đẩy cải cách giáo dục lẫn cải cách an sinh. Ông ấy lãnh đạo theo phong cách một "người Dân chủ Mới" và ông ấy biết không ngại gì những lời tân công bôi nhọ và quay trở lại thành công là như thế nào. Một phần lớn người Mỹ cho rằng bang Massachusetts là bang cấp tiến, tôi tin chúng tôi có thể làm cho mọi người ủng hộ ông ấy vì ông ấy là một thống đốc thành công và sẽ tránh được những lỗi lầm nhân chìm đảng của chúng tôi trong cuộc bầu cử lần trước. Ngoài ra, chúng tôi còn là bạn bè. Mike thấy nhẹ nhõm khi tôi không tham gia cuộc đua và tặng tôi một món quà sinh nhật sớm, một chiếc áo pull có ghi dòng chữ "Mừng sinh nhật lần thứ 41 Bill Clinton năm 1996. Anh chỉ mới 49 tuổi thôi!".
Vào cuối buổi gặp, Jim Blanchard sẽ tổ chức một buổi hòa nhạc rock and roll tuyệt vời với các nghệ sĩ của hãng Motown từ thập niên 60, trong đó có nhóm Four Tops, Martha Reeves và nhóm Vandellas, và Jr. Walker, một người chơi kèn saxo huyền thoại có thể khiến cây kèn chơi một quãng tám cao hơn phần lớn người phàm chúng tôi có thể làm. Gần đến cuối buổi hòa nhạc, một phụ nữ trẻ đến gần và mời tôi chơi kèn saxo bài hát quen thuộc của Motown "Khiêu vũ trên đường phố" cùng với tất cả ban nhạc. Đã ba năm tôi chưa đụng đến cây kèn. "Thế có bản nhạc không?". Tôi hỏi. "Không", cô ấy nói. "Thế bài này chơi theo giọng nào?". Cô ấy trả lời: "Tôi cũng chẳng biết". "Cho tôi vài phút để dợt lại được không?". Lại một lần nữa, "không". Thế là tôi đành trả lời "OK, tôi sẽ chơi". Tôi lên sân khấu. Họ đưa kèn cho tôi, nhanh chóng gắn một chiếc micro vào chiếc kèn, và âm nhạc bắt đầu. Tôi thổi khe khẽ cho đến khi tôi bắt đầu hòa nhập được và nhận ra tông và giai điệu. Sau đó, tôi hòa vào và chơi cũng khá hay. Tôi vẫn còn giữ một bức hình Jr. Walker và tôi đang cùng song tấu với nhau.
Tháng 9 là một tháng bận rộn. Năm học mới bắt đầu và tôi xuất hiện trên mục Meet the Press - Gặp gỡ báo chí của truyền hình NBC cùng với Bill Bennett, người đã thành công đưa Terrel Bell làm Bộ trưởng Giáo dục của Tổng thống Reagan. Tôi có quan hệ tốt với Bennett, người đánh giá cao sự ủng hộ của tôi với việc tăng uy tín của ngành giáo dục cũng như dạy cho trẻ em các giá trị cơ bản của trường học, và ông ấy cũng không phản đối khi tôi nói rằng các tiểu bang cần được liên bang giúp đỡ nhiều hơn để có thể chi trả cho các chương trình trẻ em nhỏ. Khi Bennett phê bình Hiệp hội Giáo dục Quốc gia là một cản trở đối với việc tăng uy tín và giáo dục, tôi nói tôi cho rằng Hiệp hội Giáo dục Quốc gia có thể làm nhiều việc khá hơn như thế và nhắc nhở ông ấy rằng AI Shanker, lãnh đạo của nghiệp đoàn giáo viên lớn khác, Liên đoàn giáo viên Mỹ, ủng hộ cả việc tăng uy tín giáo dục lẫn các giá trị giáo dục.
Thật không may, quan hệ của tôi với Bill Bennett không còn tốt đẹp nữa sau khi tôi trở thành tổng thống và ông ấy đi rao giảng đạo đức để kiếm sống. Mặc dù ông ấy viết tặng tôi vào cuốn sách với những dòng chữ "Tặng riêng Clinton, người đảng viên Dân chủ có lý", rõ ràng là ông ấy sau này đã tin rằng hoặc ông ấy nhầm hoặc tôi đã mất đi chân lý mà tôi có khi ông ấy viết những dòng chữ đó.
Cùng khoảng thời gian phỏng vấn của mục Meet the Press, Thượng nghị sĩ Joe Biden, Chủ tịch ủy ban Tư pháp, đề nghị tôi ra làm chứng cho thẩm phán Robert Bork, người được Tổng thống Reagan bổ nhiệm làm thẩm phán của Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Tôi biết Joe muôn tôi ra điều trần vì tôi Ịà một thống đốc da trắng miền Nam, sự thực tôi từng là sinh viên của Bork môn Luật hiến pháp chỉ là một phần phụ thêm. Trước khi tôi đồng ý, tôi đọc phần lớn các bài báo do Bork viết, những quyết định tư pháp quan trọng và những bài diễn văn đã được công bố của ông ấy. Tôi kết luận thẩm phán Bork không nên trở thành một thành viên của Tòa án tối cao. Trong một tuyên bố dài tám trang tôi nói tôi thích và kính trọng Bork với tư cách là một người thầy và nghĩ Tổng thống Reagan được quyền tương đối tự do trong việc bổ nhiệm ông ấy, nhưng tôi vẫn tin thượng viện nên từ chối đề cử này. Tôi lập luận rằng những phát ngôn của Bork cho thấy ông ấy là người phản hành động chứ không phải là người bảo thủ chính thống. Ông ấy lên án phần lớn mọi quyết định của Tòa án tối cao nhằm mở rộng dân quyền ngoại trừ trường hợp Brown V. Board of Education - Brown chống lại ban giáo dục. Trên thực tế, Bork là một trong hai luật sư, cùng với William Rehnquist khuyên Barry Goldwater bỏ phiếu chống lại đạo luật dân quyền năm 1964. Với tư cách là người miền Nam, tôi biết tầm quan trọng của việc không làm tái phát vết thương của chủng tộc, bằng cách đụng chạm đến quyết định đó. Trong số những người từng được đề cử vào Tòa án tối cao trong nhiều thập niên thì Bork là người có quan điểm hạn chế nhất về tầm hoạt động của Tòa án tối cao để bảo vệ quyền cá nhân. Ông ấy cho rằng hàng chục quyết định của tòa án cần phải đảo ngược. Ví dụ như, quyền sử dụng thuốc tránh thai của đôi vợ chồng cũng không đáng được bảo vệ riêng tư khỏi các hành động của chính quyền hơn quyền của một công ty năng lượng làm ô nhiễm không khí. Trên thực tế phán quyết của ông chống lại bang Arkansas, chống lại Grand Gulf, ông ấy cho rằng các công ty năng lượng và các quyền lợi doanh nghiệp khác thậm chí còn cần phải bảo vệ nhiều hơn các công dân khỏi các hành động của chính quyền mà ông ấy không đồng tình. Tuy nhiên, về vấn đề bảo vệ các lợi ích của doanh nghiệp, thì quan điểm hạn chế tư pháp của ông ấy lập tức bị ném qua cửa sổ để ủng hộ cho hành động. Thậm chí ông ấy còn nói rằng các tòa án liên bang không nên chế tài các đạo luật chống tờ rớt vì các đạo luật này dựa trên các lý thuyết kinh tế sai lệch. Tôi đề nghị thượng viện không chấp nhận nguy cơ rằng thẩm phán Bork sẽ hành động theo những suy nghĩ đã có từ lâu chứ không theo những lời bảo đảm rằng ông ấy sẽ trung dung hơn mà ông ấy đưa ra trong quá trình được đề cử vào chức vụ này.
Tôi phải gửi bản điều trần này chứ không xuất hiện để trực tiếp công bố, vì các cuộc điều trần bị hoãn lại và tôi phải theo phái đoàn thương mại đến châu Âu. Vào cuối tháng 10, thượng viện đã từ chối đề cử của Bork với số phiếu 58/42. Tôi cũng không nghĩ việc điều trần của tôi gây tác động gì đến việc bỏ phiếu. Trước đó Tổng thống Reagan đề cử thẩm phán Antonin Scalia, người cũng bảo thủ như Bork nhưng không tuyên bố và không viết lách nhiều để cho thấy điều đó. Ông ấy được chấp nhận. Vào tháng 12 năm 2000, trong vụ Bush v. Gore - tranh châp giữa Bush và Gore, ông ấy đã viết ý kiến của Tòa án tối cao vào thứ bảy cho phép một hành động chưa từng thấy là ngưng đếm phiếu ở Florida. Ba ngày sau, bằng tỷ lệ phiếu 5/4, Tòa án tối cao đã trao cuộc bầu cử cho George Bush, một phần dựa trên cơ sở các lá phiếu còn tranh chấp còn lại không thể được đếm hết trước nửa đêm của ngày hôm đó theo luật Florida đòi hỏi. Tất nhiên là không thể: Tòa án tối cao đã ra lệnh ngưng đếm phiếu hợp lệ trước đó ba ngày. Đó là một hành động tư pháp mà có lẽ đến Bork cũng phải đỏ mặt.
Sau chuyến đi với phái đoàn thương mại, Hillary và tôi cùng với John Sununu và thống đốc Ed DiPretre bang Rhode Island gặp các đồng sự người Ý của chúng tôi ở Florence. Đó là chuyến đi đầu tiên đến Ý đôi với Hillary và tôi, và chúng tôi lập tức yêu ngay Florence, Siena, Pisa, San Gimignano và Venice. Tôi rất ngạc nhiên về thành tựu kinh tế của miền bắc nước Ý, ở đây có thu nhập đầu người còn cao hơn cả nước Đức. Một trong những lý do cho sự thịnh vượng của khu vực này có lẽ là sự hợp tác tuyệt vời của giới doanh nghiệp nhỏ trong việc chia sẻ chi phí hành chính, tiếp thị và những tiện nghi, điều mà các nhà thủ công miền bắc nước Ý đã từng làm trong nhiều thế kỷ từ thời kỳ có phường hội thời trung cổ. Một lần nữa tôi đã tìm ra ý tưởng tôi cho là có thể phù hợp ở Arkansas. Khi tôi về nhà, chúng tôi đã trợ giúp một nhóm công nhân cán thép thất nghiệp thành lập các doanh nghiệp và hợp tác trong việc chia sẻ chi phí về tiếp thị mà tôi đã quan sát được ở các thợ làm da và đồ gỗ của Ý.
Vào tháng 10, nền kinh tế Mỹ rung động mạnh khi thị trường chứng khoán rớt hơn 500 điểm trong một ngày, sự thụt giảm lớn nhất trong một ngày kể từ năm 1929. Thật tình cờ, người giàu nhất ở nước Mỹ là Sam Walton, lại đang ngồi trong văn phòng của tôi khi thị trường đóng cửa. Sam là lãnh đạo của hội đồng doanh nghiệp Arkansas, một nhóm gồm các nhà doanh nghiệp nổi trội được gọi là "Câu lạc bộ quần áo đẹp". Họ cam kết sẽ cải thiện nền kinh tế và giáo dục ở Arkansas. Sam xin phép đứng dậy và đi ra xem tình hình cổ phiếu Wal-Mart. Toàn bộ gia sản của ông ấy gắn liền với công ty đó. Ông ấy vẫn ở mãi trong một căn nhà trong hàng chục năm và vẫn lái mãi một chiếc xe tải pick-up cũ. Khi Sam quay lại, tôi hỏi ông ấy mất bao nhiêu tiền. "Khoảng một tỷ đôla", ông ấy nói. Năm 1987, đó là một khoản tiền rất lớn, ngay cả với Sam Walton. Khi tôi hỏi ông ấy có lo không, ông ấy nói, "Ngày mai tôi sẽ bay tới Tennessee để xem siêu thị Wal-Mart mới nhất. Nếu có nhiều xe trong bãi đậu xe thì tôi không lo lắng. Tôi chỉ tham gia thị trường chứng khoán để gây thêm vốn để mở thêm các cửa hàng mới và cho nhân viên của chúng tôi một cổ phần trong công ty". Phần lớn tất cả nhân viên làm việc cho Wal-Mart đều có cổ phần. Walton là một hình ảnh đối nghịch hoàn toàn với thế hệ điều hành các tập đoàn trẻ hơn, những người lúc nào cũng đòi tăng lương ngay cả khi công ty và nhân viên của họ không làm ăn khá khẩm, và đòi được hạ cánh an toàn khi công ty thất bại. Khi chứng khoán của nhiều công ty sụp đổ vào những năm đầu của thê kỷ mới đã lộ ra một làn sóng mới những sự tham lam và nhũng nhiễu của các cồng ty, tôi đã nghĩ về cái ngày vào năm 1987 khi Sam Walton mất một tỷ đôla. Sam là một người theo đảng Cộng hòa. Tôi nghĩ rằng ông ấy chưa bao giờ bỏ phiếu cho tôi. Tôi không đồng-ý với tất cả mọi thứ Wal-Mart đã làm vào thời điểm đó và hiện nay tôi vẫn không đồng ý với một số chính sách của công ty ngày càng được áp dụng nhiều hơn sau khi ông ấy mất. Như tôi đã nói Wal-Mart không mua hàng của Mỹ nhiều như trước đây. Công ty bị cáo buộc đã sử dụng một lượng lớn những người nhập cư bất hợp pháp. Và tất nhiên, công ty có quan điểm chống nghiệp đoàn, nhưng nước Mỹ sẽ tốt hơn nếu tất cả các công ty của chúng ta được điều hành bởi những con người tận tụy đến mức có thể thấy tài sản của họ lên và xuống cùng với tài sản của nhân viên cũng như các cổ đông.
Tôi chấm dứt năm 1987 với bài diễn văn thứ ba trong thập niên này tại Đại hội Dân chủ Florida, tuyên bô như mọi khi rằng chúng ta phải đối diện thực tế và thuyết phục nhân dân Mỹ cũng nhìn thực tế như chúng ta. Tổng thông Reagan đã hứa sẽ giảm thuế, tăng chi tiêu quốc phòng, và cân bằng ngân sách. Ông ấy đã làm được hai điều nhưng không thể làm được điều thứ ba vì phần cung của nền kinh tế học không giống như tính toán. Kết quả là, chúng ta đã làm bùng nổ nợ quốc gia, không thể đầu tư vào tương lai và để 40% dân Mỹ bị giảm lương. Tôi biết phe Cộng hòa tự hào về thành tích của họ, nhưng tôi nhìn điều đó từ góc nhìn của hai con chó già ngồi xem bọn trẻ nhảy múa vặn vẹo. Một con chó già nói với con kia "cậu biết không, nếu chúng mình nhảy như thế, bọn nó sẽ tẩy giun chúng mình mất".
Tôi nói với những người Dân chủ ở Florida, "chúng ta ít ra cũng phải tạo ra được trật tự kinh tế thê giới mới và tìm được chỗ cho người dân Mỹ trong trật tự đó". Các lập luận chính của tôi là "chúng ta phải trả giá ngày hôm nay để có được ngày mai" và "tất cả chúng ta đều cùng can dự".
Bây giờ nhớ lại, những bài diễn văn của tôi vào cuối thập niên 80 có vẻ rất lý thú đối với tôi vì sự tương đồng của chúng với những điều tôi sẽ nói trong năm 1992 và những điều tôi cô thừa nhận với tư cách là tổng thống.
Năm 1988, tôi đến 13 tiểu bang và quận Columbia để diễn thuyết về các đề tài chính trị và chính sách. Các bài nói về chính sách chủ yếu nói về giáo dục và nhu cầu cần phải có các điều luật cải cằch an sinh làm chúng tôi hy vọng được quốc hội thông qua vào cuối năm. Nhưng bài diễn văn chính trị quan trọng nhất đối với tương lai của tôi là bài "Chủ nghĩa Tư bản Dân chủ" mà tôi nói trước Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ ở Williamsburg, Virginia vào ngày 29 tháng 2. Từ đó trở đi, tôi ngày càng hoạt động tích cực trong Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ, vì tôi cho đó là nhóm duy nhất có cam kết phát triển những ý tưởng mới mà đảng Dân chủ cần để thắng các cuộc bầu cử cũng như phục vụ đất nước. Ở Williamsburg, tôi nói về nhu cầu cần phải đưa ra một cách tiếp cận "dân chủ" vào nền kinh tế toàn cầu - nghĩa là làm cho nó trở thành có thể với tới được đối với tất cả các công dân, cộng đồng. Tôi chuyển qua tin vào lập luận của William Julius Wilson được viết trong cuốn sách của ông ấy, The truly Disadvantaged - Kẻ thất thế thực sự rằng không có giải pháp thuần tuý về chủng tộc nào đối với nghèo đói và thất nghiệp. Câu trả lời duy nhất là các trường học, giáo dục đào tạo cho người lớn và công ăn việc làm. Trong khi đó, tại tiểu bang nhà, tôi vẫn tiếp tục vật lộn với các vấn đề trong ngân sách dành cho trường học và nhà tù, khuếch trương chủ trương làm việc của tôi về "khởi đầu tốt, trường học tốt, việc làm tốt" và thúc đẩy cải cách thuế khoá và luật cải cách vận động hành. lang. Sau này, vì quốc hội tiểu bang không chịu thông qua các đạo luật đó, cả hai vấn đề này được đưa ra trong cuộc bầu cử tiếp theo. Các nhóm lợi ích tuyên truyền rất mạnh mẽ chống lại chúng. Cải cách về vận động hành lang đã được thông qua, còn cải cách về thuế khóa không được thông qua.
Thống đốc Dukakis đang cố gắng tìm kiếm sự đề cử của đảng Dân chủ để tranh cử tổng thống. Một vài tuần trước khi đại hội của chúng tôi khai mạc ở Atlanta, Mike đề nghị tôi đề cử ông ấy. Ông ấy và các lãnh đạo và chiến dịch vận động của ông nói với tôi rằng dù ông ấy vẫn đang dẫn trước phó Tổng thống Bush trong các cuộc thăm dò, người dân Mỹ không biết ông ấy rõ lắm. Họ đã quyết định bài diễn văn đề cử là một cơ hội để giới thiệu ông ấy như một người lãnh đạo có phẩm chất cá nhân, quá trình làm việc, và các ý tưởng làm ông ấy xứng đáng cho chức vụ tổng thống. Vì tôi là đồng nghiệp, là bạn của ông ấy và là người miền nam, họ muốn tôi đọc bài diễn văn đó và sử dụng toàn bộ thời gian cho phép, khoảng 25 phút. Đây rõ ràng không phải là cách làm việc thông thường, vốn thường là ba người đại diện cho ba nhóm khác nhau trong đảng của chúng tôi mỗi người đọc một bài diễn văn đề cử trong năm phút. Không ai để ý nhiều đến các bài diễn văn, nhưng chúng làm cho các diễn giả cũng như các cử tri của họ cảm thấy hạnh phúc.
Tôi rất vui sướng vì được mời nhưng cảm thấy lo lắng. Như tôi đã nói các đại hội thường là dịp gặp gỡ chào hỏi mà những lời phát biểu trên diễn đàn thường chỉ là nhạc đệm trừ những bài phát biểu chính và bài phát biểu chấp nhận đề cử vào chức vụ tổng thống và phó tổng thống. Tôi cũng đã đi dự nhiều đại hội đủ để biết rằng nếu phát biểu dài sẽ không có lợi trừ khi các đại biểu hay giới truyền thông đại chúng đã được chuẩn bị sẵn cho bài phát biểu đó và tình hình trong khán phòng thích hợp. Tôi giải thích cho những người của Dukakis rằng bài diễn văn này chỉ có thể thành công nếu tôi phát biểu mà đèn trong khán phòng phải được giảm xuống và những người hoạt động của Dukakis phải làm sao để các đại biểu yên lặng. Thêm nữa, họ cũng không được vỗ tay nhiều quá nếu không sẽ làm cho bài phát biểu kéo dài. Tôi bảo họ rằng tôi biết như vậy sẽ rất khó khăn, và nếu họ không muốn như vậy thì tôi sẽ chỉ phát biểu một bài ủng hộ kéo dài năm phút thật hay.
Vào ngày phát biểu, 20.7, tôi đem một bản bài diễn văn của tôi đến phòng của Mike và cho ông ấy và người của ông ấy xem. Tôi bảo họ, theo bài viết, nó kéo dài 25 phút, và nếu không có vỗ tay nhiều quá thì chúng ta có thể giữ được trong vòng đúng 25 phút. Tôi chỉ cho họ thấy nếu cần cắt đi 25% hoặc 50%, hoặc 75% thì tôi sẽ cắt đoạn nào, nếu họ muốn như vậy. Vài giờ sau tôi điện thoại lại để xem ý họ ra sao. Họ bảo tôi cứ nói hết bài. Mike muốn nước Mỹ biết ông ấy như tôi mô tả.
Đêm hôm đó tôi được giới thiệu và bước ra sân khâu trong tiếng nhạc mạnh mẽ. Khi tôi bắt đầu nói, đèn trong phòng được giảm xuống. Nhưng rồi mọi việc trở nên tồi tệ. Tôi chưa nói hết ba câu đèn lại sáng lên. Thế rồi mỗi lần tôi đề cập đến tên của Mike đám đông lại ầm ĩ. Tôi biết ngay lúc đó tôi nên bỏ bài diễn thuyết dài và kéo xuống chỉ còn năm phút, nhưng tôi đã không làm vậy. Những thính giả thực sự đang xem truyền hình. Nếu tôi có thể phớt lờ sự phân tán trong khán phòng, tôi vẫn có thể nói với những người đang xem tivi tại nhà điều mà Mike muốn họ nghe:
Tôi muốn nói về Mike Dukạkis. Ông ấy đã đi một quãng đường dài, và tiến nhanh đến mức tất cả mọi người đều muốn biết ông ấy là người như thế nào, ông ấy là một thống đốc như thế nào, và ông ấy sẽ trở thành một tổng thống như thế nào.
Ông ấy là bạn cũ tôi từ lâu. Tôi muốn mọi người biết câu trả lời của tôi cho những câu hỏi đó, và tại sao tôi lại tin rằng chúng ta nên đề cử Mike Dukakis thành vị Tổng thống Mỹ đầu tiên có cha mẹ là người nhập cư kể từ thời Andrew Jackson.
Khi tôi tiếp tục trả lời những câu hỏi đó, đại hội lại quay trở lại nói chuyện với nhau, ngoại trừ khi nào tên Mike xướng lên thì họ dừng lại để cổ vũ. Tôi cảm thấy bài diễn văn đó như thể một tảng đá 100 ký mà tôi phải đẩy ngược lên dốc. Sau này tôi đùa rằng tôi biết ngay là mình gặp rắc rối khi mới vào phút thứ 10 của bài diễn văn, và giai điệu của samoa thuộc Mỹ bắt đầu nếu có theo.
Một vài phút sau, truyền hình ABC và NBC bắt đầu nướng tôi, đưa lên những hình ảnh về một khán phòng đại hội phân tán và hỏi rằng khi nào tôi kết thúc bài diễn văn. Chỉ có CBS và các đài phát thanh là phát đi toàn bộ bài diễn văn mà không có phê phán. Giới báo chí ở đại hội rõ ràng không được nói trước là tôi sẽ nói dài bao lâu, hoặc tôi đang làm gì. Hơn nữa, cách tôi viết bài diễn văn là hoàn toàn sai. Trong khi cố gắng kể lại câu chuyện của Mike để không bị ngắt quãng bởi các lần vỗ tay, tôi làm bài diễn văn vừạ có vẻ quá thông thường vừa có vẻ quá dạy đời. Việc suy nghĩ tôi có thể nói chuyện với những người chỉ theo dõi diễn văn trên truyền hình mà không cần biết tác động đến các đại biểu thật là một sai lầm lớn.
Tôi cũng có một vài câu hay, nhưng thật trớ trêu lần vỗ tay lớn nhất tôi được nhận lại là khi gần kết thúc bài diễn văn đau khổ đó, khi tôi nói để kết thúc "Để kết thúc...". Đấy là 32 phút thảm họa. Tôi đùa với Hillary sau đó rằng tôi không chắc chắn mình đã tệ hại như thế nào cho đến khi chúng tôi đang bước ra khỏi đại hội và cô ấy bắt đầu đến gặp mấy người lạ và nói tôi là người chồng trước của cô ấy.
May thay, Mike Dukakis không bị thiệt hại nhiều vì lỗi lầm của tôi. Ông ấy nhận được nhiều nhận xét tốt vì đã đề cử Lloyd Bentsen làm người đứng chung liên danh; họ đều đưa ra những bài diễn văn hay; và đề cử này sau đại hội Atlanta đã có những số điểm dẫn đầu lớn trong các cuộc trứng cầu. Nhưng tôi như người chết rồi.
Vào ngày 21.7, Tom Shales viết một bài viết kinh khủng trên tờ Washington Post tóm gọn lại phản ứng của báo chí đối với bài diễn văn của tôi: "Sau khi Jesse Jackson truyền điện cho khán phòng vào ngày thứ ba, thống đốc bang Arkansas Bill Clinton lại vôi hóa khán phòng vào tối thứ tư". Ông ấy gọi bài diễn văn là "bài than vãn kinh điển của Bill Clinton", và mô tả một cách chi tiết những gì các phương tiện truyền thông phải làm để bù vào thời gian cho đến khi tôi nói xong.
Khi chúng tôi thức dậy vào sáng ngày hôm sau, Hillary và tôi biết rằng tôi đã rơi vào cái hố mà tôi phải tự kéo mình ra. Tôi không biết bắt đầu như thế nào, ngoại trừ việc tự cười mình. Lời tuyên bố công khai đầu tiên của tôi là: "Đấy không phải là giờ phút tốt đẹp nhất của tôi. Thậm chí cũng không phải là một tiếng rưỡi đẹp nhất của tôi". Tôi vẫn giữ khuôn mặt cứng cỏi, nhưng tôi tự nói với mình là tôi sẽ không bao giờ từ bỏ những linh cảm của mình về một bài diễn văn nữa. Và ngoại trừ một khoảnh khắc ngắn trong bài diễn văn của tôi trước quốc hội về y tế năm 1994, tôi đã không bao giờ làm như vậy.