← Quay lại trang sách

Chương 25 (tt)

Sau phiên họp, Henry Oliver nói với tôi ông ta muốn nghỉ. Tôi không muốn mất ông ấy, nhưng sau mấy chục năm phục vụ trong thủy quân lục chiến, FBI, chính quyền tiểu bang cũng như địa phương, ông ấy có quyền về nghỉ ngơi. Tạm thời, Gloria Cabe và Carol Rasco kiêm nhiệm luôn phần việc của ông.

Tôi dành vài tháng sau đó để đảm bảo chương trình khổng lồ mà quốc hội thông qua được thực hiện tốt và đi lại nhiều nơi trong nước làm việc cho Hội đồng Lãnh đạo đảng. Dân chủ (DLC). Vì tôi bận đi đây đó để thuyết phục rằng chúng tôi có thể chiếm lại lòng tin của các cử tri "chính thống, trung lưu", những người từng "rời bỏ đảng trong 20 năm", báo giới tiếp tục đồn đoán tôi có thể sẽ ra tranh cử tổng thống năm 1992. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 4, tôi có đùa về chuyện này, bảo rằng, "Chừng nào chưa có ai ra tranh cử thì tên của tất cả mọi người sẽ được ghi trong danh sách, như thế cũng hay. Đọc thấy tên tôi trên báo chắc mẹ tôi hạnh phúc lắm đấy".

Trong khi tôi vẫn không tin liệu mình có thể và có nên tranh cử hay không, và tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Bush trong thời kỳ hậu Chiến tranh vùng Vịnh vẫn còn ở mức 70%, tôi bắt đầu nghĩ nếu một ứng viên nằm trong DLC có khả năng vừa được sự ủng hộ của khối cử tri trung thành truyền thống của đảng, vừa có thể thuyết phục các cử tri khác thì có thể có cơ hội chiến thắng, vì đất nước có những vấn đề nghiêm trọng mà không được giải quyết thấu đáo ở Washington. Tổng thống và những nhóm ủng hộ ông dường như muốn chỉ dựa trên mỗi uy thế có được nhờ cuộc chiến vùng Vịnh để đạt chiến thắng. Ở Arkansas và qua các chuyến đi khắp nơi trên toàn quốc, tôi đã thấy đủ nhiều điều để biết rằng nước Mỹ sẽ không thể cứ du dương trong hào quang chiến thắng như thế mãi được. Khi năm 1991 diễn ra, ngày càng có nhiều người cùng chung quan điểm với tôi.

Vào tháng 4, tôi tới Los Angeles phát biểu trong một bữa tiệc trưa cho Education First, một nhóm tâm huyết với việc cải thiện giáo dục công lập. Sau khi Sidney Poitier giới thiệu tôi, tôi thuật lại ba kinh nghiệm của tôi về giáo dục tại California, phản ánh triển vọng và mối nguy ngại với tương lai Hoa Kỳ. Triển vọng tôi đã nhìn thây một năm trước khi tôi có bài phát biểu tại trường đại học bang California ở Los Angeles trước đông đảo sinh viên đến từ 122 quôc gia. Sự đa dạng chủng tộc là một dấu hiệu tốt cho khả năng chúng tôi cạnh tranh và liên hệ với phần còn lại của thế giới. Mối nguy ngại là khi Hillary và tôi gặp các em học sinh lớp 6 tại Đông Los Angeles. Các em là những đứa trẻ tuyệt vời với mơ ước lớn và khát vọng có một cuộc sống bình thường. Các em nói với chúng tôi nỗi sợ lớn nhất của các em là bị bắn trên đường đến trường và từ trường về. Các em kể với chúng tôi rằng các em phải luyện thực tập báo động chui trốn dưới gầm bàn trong trường hợp bị các tay súng lái xe qua bắn vào. Nỗi sợ thứ hai là khi 13 tuổi, các em sẽ phải nhập một nhóm đầu gấu, xài cocain, nếu không sẽ bị bọn cùng lứa đánh đập tàn nhẫn. Lần tiếp xúc với những đứa trẻ này đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong tôi. Các em xứng đáng được hưởng những điều tốt đẹp hơn.

Trong một chuyến đi khác tới California để thảo luận vấn đề giáo dục với Bàn tròn Doanh nghiệp, một quản lý công ty điện thoại nói với tôi là 70% số thí sinh xin việc trượt kì thi tuyển vào công ty mặc dù hầu hết họ đều đã tốt nghiệp trung học. Tôi hỏi cử tọa rằng liệu nước Mỹ, vừa mới chiến thắng cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, có thể giữ vị trí đứng đầu thế giới thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh hay không nếu tuổi thơ của trẻ em sống trong nguy hiểm và trườrtg học không thực hiện tốt việc giáo dục.

Tất nhiên, việc nói rằng đất nước đang có những vấn nạn là một chuyện, còn đưa ra được việc chính quyền liên bang cần có giải pháp ra sao lại là chuyện khác; và đưa ra được điều đó theo một cách thức nghe được đối với các công dân đã quá quen với thời kỳ Reagan - Bush để họ tin rằng chính quyền liên bang là nguyên nhân cội nguồn của những vấn nạn đó chứ không phải là cơ quan có thể giải quyết được vấn nạn lại là một chuyện khác nữa. Làm được điều đó chính là nhiệm vụ của DLC.

Vào đầu tháng 5, tôi tới Cleveland để chủ trì hội nghị DLC. Một năm trước, ở New Orleans, chúng tôi đã đưa ra một tuyên bố các nguyên tắc nhằm thoát khỏi cuộc tranh cãi đảng phái mệt mỏi tại Washington bằng cách tạo dựng một làn sóng tiến bộ năng động nhưng tập trung những ý tưởng mới bắt nguồn từ những giá trị Mỹ truyền thông. Trong khi DLC bị một số nhân vật cấp tiến hàng đầu trong đảng - ví dụ như Thống đốc Mario Cuomo và Mục sư Jesse Jackson (người từng nói DLC là chữ viết tắt của Democratic Leisure Class - Tầng lớp phè phỡn Dân chủ) chỉ trích là quá bảo thủ, hội nghị đã thu hút một loạt khá ấn tượng những người có óc sáng tạo, các quan chức địa phương và tiểu bang theo xu hướng cách tân, cũng như các doanh nhân quan ngại về các vấn đề kinh tế và xã hội. Nhiều đảng viên đảng Dân chủ nổi bật toàn quốc, trong đó có một sô ứng viên tranh cử tổng thống, cũng có mặt ở đó. Trong số các diễn giả có các Thượng nghị sĩ Sam Nunn, John Glenn, Chuck Robb, Joe Lieberman, John Breaux, Jay Rockefeller và Al Gore. Ngoài tôi ra, còn có Thống đốc Lawton Chiles bang Florida, Jerry Baliles bang Virginia. Các thành viên hạ viện có mặt chủ yếu đại diện cho các khu vực cử tri bảo thủ, như Dave McCurdy của Oklahoma, hoặc những người quan tâm tới an ninh quốc gia hoặc chính sách ngoại giao, như Steve Solarz của New York. Cựu thượng nghị sĩ Paul Tsongas cùng cựu thống đốc Doug Wilder bang Virginia, cả hai cũng sắp ra tranh cử tổng thống, cũng có mặt. Một số những nhà lãnh đạo da đen tài ba cũng tham gia, gồm có thống đốc Wilder, thị trưởng Mike White của Cleveland; vị chủ tịch đầy sáng tạo của Cơ quan nhà đất Chicago Vince Lane; dân biểu Bill Gray của Pennsylvania. và dân biểu Mike Espy của Mississippi.

Tôi mở đầu hội nghị bằng một bài phát biểu nhằm nêu lên rằng Hoa Kỳ cần đổi hựớng và DLC có thể và nên dẫn đường. Tôi bắt đầu bài phát biểu với những vấn đề và thách thức của Hoa Kỳ cùng lời khiển trách sự xao nhãng trong nhiều năm của đảng Cộng hòa. Tôi cũng đưa ra ý kiến rằng đảng Dân chủ đã không thắng nổi trong các cuộc tổng tuyển cử ngay cả khi có những thất bại của đảng Cộng hòa "bởi vì có quá nhiều người từng bỏ phiếu cho chúng ta, chính là khối cử tri trung lưu mà chúng ta đang nói đến ở đây, trong các cuộc tổng tuyển cử đã không tin tưởng chúng ta trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, thể hiện những giá trị của họ vào chính sách xã hội, hoặc lấy tiền thuế của họ và sử dụng có nguyên tắc".

Tôi ca ngợi khả năng lãnh đạo của đảng Dân chủ dưới thời Ron Brown, vị chủ tịch da đen đầu tiên, và cũng là người tôi ủng hộ. Brown đã thực sự nỗ lực nhằm mở rộng nền tảng của đảng nhưng chúng tôi cần một thông điệp với những đề xuất cụ thể hướng tới những người dân Mỹ:

Gánh nặng của đảng Cộng hòa là sự thờ ơ, trốn tránh và xao lãng. Nhưng gánh nặng của chúng ta là phải mang đến cho người dân một chọn lựa mới, bắt nguồn từ những giá trị cũ, một lựa chọn đơn giản mang đến cơ hội, đòi hỏi trách nhiệm, cho người dân nhiều tiếng nói hơn, cung cấp cho họ một chính quyền có khả năng tương tác - tất cả bởi vì chúng ta nhận ra rằng chúng ta là một khối cộng đồng. Tất cả chúng ta đều cùng chung một cảnh, sướng khổ có nhau.

Về cơ hội, chương trình nghị sự của chúng tôi nhắm đến phát triển kinh tế thông qua thương mại tự do và công bằng, cũng như đầu tư hơn nữa vào các công nghệ mới và vào một nền giáo dục và đào tạo kỹ năng tầm cỡ thế giới, về trách nhiệm, chương trình nghị sự của chúng tôi kêu gọi cam kết từ tất cả các công dân: các công dân trẻ tham gia phục vụ cho đất nước để đổi lại trợ giúp học bổng đại học; các cải cách an sinh buộc các bậc cha mẹ có khả năng phải đi làm nhưng hỗ trợ nhiều hơn cho con cái họ; chế tài nghiêm khắc hơn các quy định bảo vệ trẻ em; các bậc phụ huynh phải cố gắng nhiều hơn để con em tiếp tục đi học; một chính quyền "tái tạo" ít quan liêu và cung cấp nhiều lựa chọn hơn trong chăm sóc trẻ em, trường học công lập, đào tạo nghề, chăm sóc người già, an ninh khu phố và quản lý nhà ở công cộng, về cộng đồng, chương trình nghị sự đòi hỏi chúng tôi phải đầu tư thêm cho hàng triệu trẻ em nghèo, vượt qua được sự ngăn cách chủng tộc, và xây dựng một nền chính trị có nền tảng là đưa mọi người Mỹ cùng đi lên chứ không chia rẽ họ với nhau.

Tôi cố gắng rất nhiều nhằm phá bỏ lối suy nghĩ "được cái này, mất cái kia" thường thấy trong tranh luận chính trị toàn quốc. Theo lý lẽ thông thường ở Washington, nếu anh muốn có chất lượng thì không thể có bình đẳng trong giáo dục, muốn có chăm sóc y tế đại trà thì không thể có chất lượng y tế cao, chỉ có thể có tăng trưởng kinh tế nếu chịu mất đi môi trường trong sạch hơn, muốn có chính sách an sinh khuyên khích việc làm thì không thể khuyên khích cha mẹ ở nhà nuôi dạy con, ủng hộ người lao động thì không thể ủng hộ doanh nghiệp ở nơi làm việc, chỉ có thể ủng hộ hoặc ngăn chặn hoặc trừng phạt tội phạm, ủng hộ giá trị gia đình hoặc chi tiêu nhiều hơn nhằm giúp đỡ những gia đình nghèo. Trong cuốn sách đáng chú ý Why Americans Hate Politics - Tại sao người Mỹ ghét chính trị, nhà báo E.J.Dionne gọi những điều này là "những lựa chọn giả tạo", và nói về từng lĩnh vực một rằng suy nghĩ của người Mỹ cho thấy chúng ta không nên chọn "hoặc cái này, hoặc cái kia" mà nên chọn "cả hai". Tôi đồng ý quan điểm này và đã cố gắng minh họa cho quan điểm của mình với những lời phát biểu như: "Một đứa trẻ đói sẽ không thể ăn được những giá trị gia đình, nhưng chúng ta cũng không thể nuôi dạy tốt đứa trẻ đói ăn mà không có những giá trị đó. Chúng ta cần cả hai".

Tôi kết thúc bài phát biểu bằng một bài học tôi học được từ lớp văn minh phương Tây của Giáo sư Carroll Quigley 25 năm trước đây rằng tương lai sẽ tốt dẹp hơn quá khứ và mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm cá nhân và đạo đức để làm như vậy: "Sự chọn lựa mới chính là vì điều đó, và cũng là lý do tại sao chúng ta đến Cleveland này. Chúng ta đến đây không phải để cứu vãn đảng Dân chủ. Chúng ta ở đây để cứu lấy Hợp chủng quốc Hoạ Kỳ".

Đây là một trong những bài phát biểu quan trọng và hiệu quả nhất của tôi. Nó đã thể hiện được những điều căn bản mà tôi đã học trong 17 năm làm chính trị và là những gì người dân Hoa Kỳ mong đợi. Nó đã trở thành kế hoạch chi tiết cho thông điệp trong chiến dịch tranh cử của tôi, giúp tôi chuyển hướng sự chú ý của công chúng từ chiến thắng của Tổng thống Bush trong Chiến tranh vùng Vinh sang những việc chúng tôi nên làm để xây dựng tương lai tốt đẹp hơn. Bằng cách đi theo những ý tưởng và giá trị vừa cấp tiến vừa bảo thủ, bài nói đó đã khiến những cử tri vốn không ủng hộ các ứng viên Dân chủ tranh cử tổng thống trong nhiều năm phải lắng nghe thông điệp của chúng tôi. Và căn cứ vào sự đón nhận nồng nhiệt, bài diễn văn đã đưa tôi trở thành người phát ngôn hàng đầu trên con đường tôi nhiệt thành tin tưởng rằng nước Mỹ nên chọn. Nhiều người có mặt trong hội nghị đã thôi thúc tôi tranh cử tổng thống, và tôi rời Cleveland tin chắc rằng nếu tôi tranh cử tôi sẽ giành được đề cử của đảng Dân chủ và đã đến lúc tôi phải cân nhắc việc tham gia vào cuộc đua.

Vào tháng 6, bạn tôi, Vernon Jordan rủ tôi đi cùng ông ta tới Baden-Baden, Đức, để tham dự kỳ họp thường niên của Hội nghị Bilderberg, nơi hội tụ những nhà lãnh đạo kinh tế và chính trị hàng đầu của Hoa Kỳ và châu Âu để thảo luận về những vấn đề nóng và mối quan hệ giữa những quốc gia hai bờ Đại Tây Dương. Tôi lúc nào cũng thấy thú vị khi đi cùng Vernon và thấy rất hứng thú khi nói chuyện với những nhà lãnh đạo châu Âu, trong đó có Gordon Brown, một thành viên Công đảng xuất chúng người Scotland, sau này trở thành người đứng đầu Bộ Tài chính Anh khi Tony Blair lên làm thủ tướng. Tôi nhận thây người châu Âu nhìn chung ủng hộ những chính sách đối ngoại của Tổng thông Bush nhưng rất lo lắng về tình trạng trồi sụt và yếu kém của nền kinh tế Mỹ, vốn gây trở ngại cho họ không kém gì chúng ta.

Tại Bilderberg, tôi gặp Esther Coopersmith, một nhà hoạt động đảng Dân chủ đã từng làm việc trong phái đoàn Mỹ tại Liên hiệp quốc dưới thời Carter. Esther đang trên đường tới Moscow cùng con gái Connie, và bà ấy mời tôi đi cùng họ để cùng chứng kiến những thay đổi đang diễn ra trong những ngày cuối cùng của Liên Xô. Boris Yeltsin sắp được bầu làm Tổng thống của Cộng hòa Liên bang Nga với thái độ chối từ quan điểm kinh tế và chính trị Xô Viết còn mạnh mẽ hơn thời Gorbachev. Đó là một chuyến đi ngắn nhưng thú vị.

Khi tôi trở lại Arkansas, tôi tin rằng nhiều thách thức đối ngoại của Mỹ có liên quan đến các vấn đề kinh tế và chính trị mà tôi đã nắm bắt và có thể giải quyết được nếu tôi ra tranh cử và trở thành tổng thống. Tuy nhiên, khi tháng 7 đến, tôi vẫn thực sự giằng co không biết phải làm gì. Tôi từng tuyên bố với dân chúng Arkansas trong cuộc bầu cử năm 1990 rằng tôi sẽ phục vụ hết nhiệm kỳ. Thành công của kỳ họp lập pháp năm 1991 mang đến cho tôi nguồn động lực mới trong công việc. Cuộc sống gia đình của tôi rất tuyệt vời. Chelsea vui vẻ với trường mới, với thầy cô mới, những người bạn tốt và niềm đam mê múa balê. Công việc hành nghề luật của Hillary đang tốt đẹp, cô ấy nhận được sự ngưỡng mộ và nổi tiếng một cách xứng đáng. Sau nhiều năm đấu tranh chính trị căng thẳng, chúng tôi cuối cùng cũng có được yên ổn và hạnh phúc. Hơn nữa Tổng thống Bush vẫn dường như là một đối thủ không thể đánh bại. Cuộc thăm dò ý kiến vào đầu tháng 6 tại Arkansas cho thấy chỉ có 39% dân chúng muốn tôi tranh cử, và rằng nếu ra tranh cử tôi sẽ thua ở chính bang mình với tỷ lệ 32% so với 57% ủng hộ Tổng thống Bush, số cử tri còn lại vẫn chưa quyết định. Mặt khác, tôi cũng không phải là một mình một chợ trong cuộc bầu chọn ứng viên trong đảng. Nhiều đảng viên Dân chủ tốt khác có vẻ như cũng sẽ tham gia cuộc đua, nên giành được đề cử của đảng chắc chắn sẽ gay gắt hơn. Các con số thống kê cũng chống lại tôi. Chỉ có một thống đốc của một bang nhỏ từng được bầu làm tổng thống: đó là Franklin Pierce của bang New Hampshire năm 1852.

Ngoài những suy xét về chính trị, tôi thực sự thích và đánh giá cao cách làm việc của Tổng thống Bush và Nhà Trắng khi hợp tác với tôi về vấn đề giáo dục. Mặc dù tôi bất đồng mạnh mẽ với những chính sách kinh tế và xã hội của tổng thống, nhưng tôi cho rằng ông là người tốt, không hề cực hữu và tàn nhẫn như những người theo trường phái Reagan. Tôi không biết phải làm gì. Vào tháng 6, trong chuyến đi diễn thuyết ở California, tôi được một thanh niên trẻ tên Sean Landres đón tại sân bay. Anh ta động viên tôi hãy tranh cử tổng thống và nói rằng anh ta đã tìm thấy một chủ đề hoàn hảo cho chiến dịch tranh cử. Sau đó anh ta bật bài hit của Fleetwood Mac "Không ngừng nghĩ đến ngày mai". Bài hát đã gây ấn tượng cho cả hai chúng tôi, tôi đã tìm thấy những điều mình muốn nói trong đó.

Khi ở Los Angeles, tôi bàn bạc lợi, hại của việc tham gia tranh cử với bạn của Hillary là Mickey Kantor, lúc bấy giờ đã trở thành bạn và cố vấn thân cận của cả tôi. Khi chúng tôi bắt đầu, Mickey bảo tôi nên trả cho ông ta một đôla, như vậy cuộc nói chuyện của chúng tôi sẽ được giữ bí mật về mặt pháp lý. Vài ngàý sau, tôi gửi tờ séc một đôla với lời nhắn tôi luôn muốn thuê một luật sư đắt giá và gửi tấm séc này "tin rằng bạn được nhận xứng đồng tiền bát gạo". Tôi đã nhận được rất nhiều lời khuyên hay từ đồng đôla đó, nhưng vẫn chưa biết mình phải làm gì. Thê rồi tôi nhận được một cuộc điện thoại làm thay đổi mọi việc.

Một ngày tháng 7, Lynda Dixon nói với tôi rằng Roger Porter gọi đến từ Nhà Trắng. Như tôi đã nói, tôi từng làm việc với Roger trong dự án đưa ra các mục tiêu giáo dục và kính nể khả năng vừa trung thành với tổng thống vừa có thể làm việc với các thống đốc của ông ấy. Roger hỏi tôi có dự định tranh cử tổng thống năm 1992 không. Tôi bảo ông ấy tôi vẫn chưa quyết định, tôi đang hài lòng với vị trí thống đốc bang hơn bất kì năm nào trước đây, cuộc sống gia đình hạnh phúc và tôi ngại phải chấm dứt nó, nhưng tôi cho rằng Nhà Trắng đã quá thụ động trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và kinh tế của đất nước. Tôi nói theo tôi tổng thống nên sử dụng uy thế chính trị lớn có được từ cuộc chiến vùng Vịnh để giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia. Sau khoảng năm tới mười phút nói chuyên mà tôi cho là nghiêm túc, Roger ngắt lời và đi thẳng vào vấn đề. Tôi sẽ không bao giờ quên những từ đầu tiên trong thông điệp mà ông ấy được giao chuyển đến cho tôi: "Bỏ chuyện tào lao đó đi, thống đốc". Roger nói rằng "họ" đã xem xét các ứng viên tiềm năng chống lại tổng thống. Thống đốc Cuomo là một nhà hùng biện có sức mạnh nhưng họ có thể gán cho ông ta là quá cấp tiến. Tất cả các thượng nghị sĩ đều có thể bị đánh bại bằng cách tấn công vào thành tích bỏ phiếu cho các vấn đề của họ. Nhưng tôi thì hoàn toàn khác. Với một thành tích ấn tượng về phát triển kinh tế, giáo dục và chống.tội phạm, một thông điệp DLC mạnh mẽ, tôi thực sự có cơ hội giành chiến thắng. Vì thế nếu tôi tranh cử, họ sẽ phải tiêu diệt tôi trên khía cạnh cá nhân. "Ở Washington sự đời nó thế đấy", ông ấy nói. "Trong cuộc bầu cử nào cũng phải có một người để làm mồi cho báo chí, và chúng tôi dự tính sẽ quẳng ông cho họ". Ông ấy tiếp tục nói báo chí là lớp người ăn trên ngồi chốc và sẽ tin bất cứ điều gì người ta kể cho họ về xứ Arkansas khỉ ho cò gáy. "Chúng tôi sẽ chi mọi giá để bắt bất cứ ai chúng tôi cần để nói lên bất cứ điều gì cần nói để hạ ông. Và chúng tôi sẽ sớm thực hiện việc này".

Tôi cố gắng giữ bình tĩnh nhưng thực sự đã giận phát điên. Tôi bảo Roger rằng chính những gì ông vừa nói cho thấy chỗ trục trặc của chính quyền này. Họ nắm quyền lâu quá đến mức họ tưởng mình có quyền được như vậy. Tôi bảo: "Các anh tưởng là mấy chỗ đậu xe ở Cánh tây Nhà Trắng là chỗ của các anh, nhưng nó thuộc vê nhân dân Mỹ, và các anh phải làm sao để xứng có quyền được sử dụng nó". Tôi cũng cho Roger biết những gì ông ấy nói chỉ làm tăng khả năng ra tranh cử của tôi. Roger nói đó là một ý kiến hay đấy, nhưng ông ấy chỉ gọi điện để nhắc nhở tôi như một người bạn mà thôi. Nếu tôi chờ tới năm 1996 tôi có thể thắng cử tổng thống. Nếu tôi tranh cử vào năm 1992 họ sẽ triệt hạ tôi và sự nghiệp chính trị của tôi cũng coi như chấm dứt.

Sau cuộc nói chuyện đó tôi gọi cho Hillary và kể cho cô ấy mọi chuyện. Rồi tôi kể cho Mack McLarty. Tôi không liên lạc lại hoặc gặp Roger Porter thêm lần nào nữa cho tới khi ông ấy tham dự bữa tiệc chiêu đãi dành cho các thành viên Quỹ Nhà Trắng khi tôi đã là tổng thống. Tôi tự hỏi liệu ông ấy có bao giờ nghĩ về cuộc điện thoại trước đây và việc nó đã ảnh hưởng tới quyết định của tôi như thế nào không.

Kể từ khi còn nhỏ tôi đã rất ghét bị đe dọa. Hồi nhỏ tôi đã từng bị bắn bởi khẩu súng đồ chơi BB và bị một thằng nhóc lớn hơn nhiều đánh chỉ vì tôi không chịu khuất phục trước lời de dọa. Trong chiến dịch tranh cử và tám năm sau, phe Cộng hòa cũng cố dùng mọi cách, và đúng như Roger tiên đoán, họ nhận được nhiều sự trợ giúp từ giới báo chí. Cũng giống như viên đạn BB hồi nhỏ bắn vào chân và cú thụi vào quai hàm, sự công kích của họ đã làm tôi đau đớn. Những lời dối trá làm tôi đau đớn, và thỉnh thoảng những sự thực còn làm tôi đau hơn. Tôi chỉ cố gắng tập trung vào công việc của mình và những ảnh hưởng từ công việc của tôi đến dân chúng. Khi tôi có thể làm như thế, tôi sẽ dễ dàng đứng lên chống lại những kẻ khao khát quyền lực chỉ vì quyền lực mà thôi.

Ba tháng kê tiếp trôi đi như một bóng mờ. Trong lần đi picnic ngày 4 tháng 7 ở bắc Arkansas, tôi nhìn thấy những tấm biển "Clinton làm tổng thống" xuất hiện lần đầu tiên, nhưng một số người khuyên tôi chờ đến năm 1996 mới ra tranh cử, còn một số khác vốn giận tôi vì tôi lại vừa tăng thuế một lần nữa thì khuyên tôi đừng có ra tranh cử. Khi tôi tới Memphis trong lễ khai trương Bảo tàng Dân quyền Quốc gia nằm trên khu vực của Khách sạn Lorraine, nơi Martin Luther King Jr. bị giết, nhiều người khuyến khích tôi ra tranh cử, nhưng Jesse Jackson vẫn giận DLC, cho rằng nó gây ra chia rẽ và bảo thủ. Tôi không muốn có bất đồng với Jesse, người mà tôi ngưỡng mộ, đặc biệt sau những nỗ lực của ông nhằm thuyết phục thanh thiếu niên da đẽn tiếp tục đi học và bỏ ma túy. Hồi năm 1977, chúng tôi cùng xuất hiện trong tổ chức lễ kỷ niệm 20 năm ngày cho học sinh nhiều màu da học chung ở trường Trung học Little Rock, ông ấy phát biểu và nhắc học sinh nên "mở rộng đầu óc chứ đừng mở động mạch (để chích ma túy)".

Ma túy và bạo lực trong giới trẻ vẫn còn là những vấn đề lớn vào năm 1991. Vào ngày 12 tháng 7, tôi tới Chicago để thăm các dự án xây nhà ở công cộng và tìm hiểu tình hình bảo vệ trẻ em. Vào cuối tháng 7, tôi tới bệnh viện Little Rock để thăm diễn viên hài da đen Dick Gregory bị bắt vì tổ chức biểu tình ngồi cùng với bốn thành viên khác của nhóm chống ma túy địa phương, DIGNITY (Doing In God's Name Incredible Things Yoursefl), tại một cửa hiệu bán phụ kiện có thể dùng cho ma túy. Lãnh đạo nhóm này là các mục sư da đen và người lãnh đạo địa phương của người Hồi giáo da đen. Nó thể thể hiện trách nhiệm của người lớn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội mà Jackson cũng tán thành, DLC ủng hộ, và tôi thì cho là tối cần thiết nếu chúng tôi muốn xoay chuyển mọi chuyện theo hướng tốt đẹp.

Vào tháng 8, chiến dịch bắt đầu hình thành rõ nét. Tôi diễn thuyết ở nhiều nơi và và thành lập một ủy ban thăm dò, với Bruce Lindsey làm thủ quỹ. Lập ra ủy ban này cho phép tôi gây quỹ để trang trải chi phí đi lại và các khoản khác mà chưa cần phải trở thành ứng viên chính thức. Hai tuần sau, Bob Farmer từ Boston, từng làm người gây quỹ trưởng cho Dukakis, từ chức thủ quỹ ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ để giúp tôi quyên tiền. Tôi bắt đầu nhận được sự giúp đỡ từ Frank Greer, một người gốc Alabama từng làm các đoạn quảng cáo có sức hút về trí tuệ và cảm xúc cho tôi năm 1990, và từ Stan Greenberg, một chuyên gia thăm dò ý kiến từng làm việc với các nhóm cử tri tập trung cho chiến dịch tranh cử năm 1990 và từng thực hiện nghiên cứu sâu rộng về khối cử tri được mệnh danh là những người Dân chủ của Reagan và cách thức để chinh phục họ. Tôi muốn Greenberg trở thành người thăm dò ý kiến cho tôi. Tôi không muôn Dick Morris nghỉ vai trò này, nhưng thời điểm đó anh ta đã dính líu với các ứng viên Cộng hòa và những người đương chức quá nhiều đến mức trong mắt của phe Dân chủ, anh ta coi như đã bị thỏa hiệp.

Sau khi chúng tôi thành lập ủy ban thăm dò, Hillary, Chelsea và tôi đi dự cuộc họp mùa hè của Hiệp hội Thống đốc Quốc gia (NGA) tại Seattle. Các đồng nghiệp của tôi vừa bầu chọn tôi là thống đốc làm việc hiệu quả nhất trên toàn quốc trong một cuộc điều tra do tạp chí Newsweek thực hiện, và một số người trong số họ thúc giục tôi tranh cử. Khi cuộc họp NGA kết thúc, gia đình tôi đi thuyền từ Seattle tới Canada nghỉ ngắn ngày tại Victoria và Vancouver.

Ngay khi tôi về nhà, tôi bắt đầu đi khắp tiểu bang, nhiều nơi đến mà không báo trước, để hỏi ý kiến các cử tri liệu tôi có nên tranh cử tổng thống không và nếu tôi tranh cử họ có đồng ý để tôi kết thúc nhiệm kì sớm không. Hầu hết mọi người đều nói tôi nên tranh cử nếu tôi cảm thây đó là việc nên làm, dù không có mấy người tin tôi sẽ giành chiến thắng. Thượng nghị sĩ Bumpers, Pryor và hai dân biểu Dân chủ Ray Thornton và Beryl Anthony, tất cả đều tuyên bố ủng hộ tôi. Phó thống đốc bang Jim Guy Tucker, Chủ tịch hạ viện bang John Lipton và Chủ tịch thượng viện bang Jerry Bookout trấn an tôi rằng họ sẽ lo liệu cho tiểu bang trong lúc tôi vắng mặt.

Hillary tán thành tôi tranh cử, mẹ tôi ủng hộ tôi nhiệt liệt và thậm chí Chelsea lần này cũng không phản đối. Tôi nói với Chelsea rằng tôi sẽ vẫn có mặt khi có việc quan trọng, như khi con đi múa bale trong vở The Nutcracker dịp giáng sinh, những sự kiện tại trường học của con, nghỉ Cuối tuần Phục hưng hay bữa tiệc sinh nhật của con. Nhưng tôi cũng biết rằng mình sẽ bỏ lỡ nhiều thứ: song tấu saxo khi Chelsea chơi piano; đi chơi với Chelsea trong bộ trang phục độc đáo dịp lễ Halloween; đọc truyện cho con nghe mỗi đêm; và giúp con làm bài tập. Làm cha của Chelsea là công việc hạnh phúc nhất tôi từng có; tôi chỉ mong mình có thể làm việc ấy đủ tốt trong chiến dịch dài phía trước. Khi tôi không có ở nhà, tôi sẽ nhớ tất cả những điều đó nhiều như con bé. Nhưng cũng nhờ có điện thoại và máy fax, hai bố con vẫn gửi bài giải toán cho nhau. Hillary sẽ ít phải đi vắng hơn tôi, nhưng khi cả hai chúng tôi đều ở xa, Chelsea có được sự che chở từ ông bà, nhân viên của dinh thự thông đốc, Carolyn Huber, cùng bạn bè và cha mẹ của chúng.

Vào ngày 21 tháng 8, tôi được nhẹ nhõm khi Thượng nghị sĩ AI Gore thông báo không tranh cử. Vào năm 1988 ông từng tranh cử, và nếu năm 1992 ông ta cũng tranh cử nữa thì chúng tôi sẽ phải chia phiếu ở các tiểu bang miền nam vào ngày Siêu Thứ Ba - Super Tuesday (ngày 10 tháng 3), như thế cơ hội tôi giành chiến thắng khó khăn hơn. Con trai duy nhất của AI là Albert vừa bị thương nặng trong một tại nạn xe cộ. AI dã quyết định sẽ ở bên cạnh gia đình trong suốt thời gian dài và đầy khó khăn chờ Albert bình phục, một quyết định tôi thông cảm và ngưỡng mộ.

Vào tháng 9, tôi đến Illinois một lần nữa và nói chuyên với các lãnh đạo Dân chủ của Iowa, Nam Dakota, và Nebraska ở thành phố Sioux, Iowa; và đến gặp ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ tại Los Angeles. Việc dừng chân ở Illinois là vô cùng quan trọng vì thời điểm cuộc bầu cử chọn ứng viên của đảng cho cuộc tổng tuyển cử. Cuộc chạy đua giành vị trí ứng viên đề cử bắt đầu với các phiên họp kín tại Iowa, mà tôi có thể bỏ qua vì Thượng nghị sĩ Tom Harkin của Iowa ra tranh cử và chắc chắn thắng. Sau đó tới New Hampshire, Nam Carolina, tiếp đến Maryland, Georgia và Colorado. Kế tiếp đến 11 tiểu bang miền nam bỏ phiếu trong ngày Siêu Thứ Ba. Ngày Thánh Patrick 17 tháng 3 đến lượt Illinòis và Michigan.

Chiến dịch của Thượng nghị sĩ Gore bị hụt hơi bốn năm trước vì ông đã không tiếp nối được các tỷ lệ phiếu bầu ấn tượng tại các bang miền Nam bằng những chiến thắng khác. Tôi nghĩ tôi có thể thắng ở Illinois vì ba lý do: Hillary quê ở đây, tôi đã từng làm việc ở nam Illinois cùng ủy ban phát triển khu vực đồng bằng, và nhiều nhà lãnh đạo da màu xuất chúng tại Chicago có nguồn gốc từ Arkansas. Tại Chicago, tôi gặp gỡ hai nhà hoạt động chính trị trẻ, David Wilhelm và David Axelrod, sau này sẽ tham gia vào chiến dịch. Họ đều là những người có lý tưởng, sục sôi trước những trận chiến bầu cử ở Chicago, và tán thành với triết lý chính trị của tôi. Trong khi đó, Kevin O'Keefe đang đi khắp tiểu bang, xây dựng tô chức cần thiết để giành chiến thắng.

Michigan cũng bầu cử cùng ngày với Illinois, và tôi hi vọng sẽ được khá ở đó, nhờ có cựu thống đốc Jim Blanchard, ủy viên hạt Wayne Ed McNamara và rất nhiều người, cả da màu cũng như da trắng, từ Arkansas tới làm việc tại Michigan trong những nhà máy xe hơi. Sau Michigan và Illinois, bang lớn tiếp theo là New York, nơi bạn tôi - Harold Ickes đang bận rộn tìm kiếm sự ủng hộ, còn Paul Carey, con trai của cựu Thống đốc Hugh Carey, đang quyên góp tiền.

Vào ngày 6 tháng 9, tôi hoàn tất việc sắp xếp công việc văn phòng thống đốc để rảnh tay cho chiến dịch khi Bill Bowen đồng ý trở thành thư ký điều hành. Bill là chủ tịch Ngân hàng Thương mại Quốc gia, một trong những nhà kinh tế được kính trọng của bang, và là nhà tổ chức chính đứng sau cái gọi là Câu lạc bộ quần áo đẹp, nhóm những lãnh đạo doanh nhân từng ủng hộ chương trình giáo dục thành công trong kỳ họp quốc hội tiểu bang năm 1991. Việc bổ nhiệm Bowen làm mọi người an tâm rằng việc kinh doanh của bang sẽ được coi sóc cẩn thận khi tôi đi vắng.

Trong những tuần gần tới ngày tôi tuyên bố chính thức tranh cử, tôi bắt đầu cảm nhận được sự khác biệt giữa việc tranh cử tổng thống và tranh cử thống đốc bang. Đầu tiên, phá thai là một vấn đề lớn, bởi người ta cho rằng nếu Tổng thống Bush tái cử, ông sẽ bổ nhiệm đủ người vào Tòa án tối cao liên bang để đảo ngược phán quyết trong vụ Roe V. Wade. Tôi luôn luôn ủng hộ Roe nhưng phản đối việc dùng công quỹ để chi trả tiền phá thai cho phụ nữ nghèo, nên lập trường của tôi không thực sự làm hài lòng phía nào cả. Điều này không công bằng với những phụ nữ nghèo, nhưng tôi thấy khó mà biện minh việc chi trả cho nạo phá thai bằng tiền nộp thuê của những người dân cho rằng việc nạo phá thai đồng nghĩa với giết người. Hơn nữa câu hỏi này cũng đáng đưa ra bàn luận, bởi vì thậm chí quốc hội mà đảng Dân chủ đang kiểm soát cũng liên tiếp thất bại khi tìm nguồn tiền để chi cho việc nạo phá thai.

Ngoài việc nạo phá thai còn có những vấn đề mang tính cá nhân khác. Khi được hỏi, tôi đã bao giờ hút cần sa chưa, tôi nói chưa bao giờ vi phạm luật ma túy ở Hoa Kỳ. Đó là một sự thú nhận ngầm và vụng về rằng tôi đã từng thử hút ở Anh. Ngoài ra còn có rất nhiều tin đồn về cuộc sống cá nhân của tôi. Vào ngày 6 tháng 9, sau khi Mickey Kantor và Frank Greer giục mãi, Hillary cùng tôi xuất hiện tại Sperling Breakfast, một cuộc họp thường xuyên của báo giới Washington, đê trả lời báo chí. Tôi không biết làm như thê có đúng không nhưng Mickey nói rất thuyết phục. Ông ấy lập luận rằng tôi đã từng nói trước đây là tôi không hoàn hảo, mọi người đều biết điều này, và "thế thì anh cứ nói chuyện với họ và thử tháo ngòi trước những chuyên bất trắc, biết đâu xảy ra sau này trong chiến dịch tranh cử xem sao".

Khi một phóng viên đặt câu hỏi, tôi trả lời, cũng như các cặp vợ chồng khác, chúng tôi cũng có những vấn đề của mình nhưng chúng tôi gắn bó với nhau và vì thế cuộc hôn nhân của chúng tôi bền vững. Hillary cũng ủng hộ thêm cho tôi. Theo tôi mình là ứng viên duy nhất từng nói nhiều đến thế. Câu trả lời làm hài lòng một số phóng viên và các tay viết nổi tiếng; nhưng với một số khác sự thành thực của tôi chỉ đơn giản xác nhận tôi là một mục tiêu tốt để tấn công.

Bây giờ tôi vẫn không chắc mình có làm đúng không khi đi tới buổi ăn sáng hôm đó và dám dính vào cái dốc trơn trượt của việc trả lời những câu hỏi đời tư. Cá tính là điều quan trọng với một tổng thống, nhưng, như các ví dụ hoàn toàn đối nghịch của FDR và Richard Nixon đã cho thấy, sự hoàn hảo trong hôn nhân không nhất thiết là thước đo tốt với cá tính tổng thống. Hơn nữa, đó cũng chưa hẳn là tiêu chuẩn. Vào năm 1992, nếu bạn phá vỡ lời thề vợ chồng, li dị và tái hôn, thì sự không chung thủy không bị xem là sự thiếu tư cách hay đáng đưa lên mặt báo; trong khi những cặp đôi vẫn sống với nhau, lại có thể bị dòm ngó, cứ như thể ly hôn mới là một lựa chọn xác thực hơn. Nếu xét đến sự phức tạp trong đời sống con người và tầm quan trọng của cả người cha lẫn người mẹ trong việc nuôi dạy con cái, có lẽ ly hôn không phải là tiêu chuẩn đúng đắn.

Bất chấp những chuyện đời tư, nhìn chung tôi vẫn được báo giới đưa tin tốt trong thời gian đầu nhờ những nhà báo có suy xét và quan tâm đến các ý tưởng cũng như chính sách của tôi và thành tích làm thống đốc của tôi. Tôi cũng biết rằng mình có thể bắt đầu chiến dịch với những người ủng hộ nòng cốt trên khắp cả nước. Nhờ có những người bạn Hillary và tôi đã xây dựng mối quan hệ trong nhiều năm; và rất nhiều người dân Arkansas sẵn sàng đi tới các bang khác để vận động ủng hộ cho tôi. Họ không nản chí trước việc tôi hầu như chưa được người dân Mỹ biết đến và tụt xa phía sau trong các cuộc thăm dò. Tôi cũng vậy. Không giống như năm 1987, lần này tôi đã sẵn sàng.