← Quay lại trang sách

Chương 26

Sáng 3 tháng 10 là một buổi sáng mùa thu Arkansas đẹp, tươi rói và trời trong. Tôi bắt đầu ngày thay đổi cuộc đời bằng việc chạy bộ sáng sớm như thông lệ. Tôi ra bằng cửa sau của dinh thự thống đốc, di qua khu Quapaw, hướng về trung tâm thành phố tới tòa nhà chính phủ cũ. Địa điểm rộng lớn cổ kính này, nơi tôi mở tiệc chiêu đãi khi nhậm chức Bộ trưởng tư pháp năm 1977, đã tràn ngập cờ Hoa Kỳ. Sau khi chạy qua đó, quay lại về nhà, tôi nhìn thấy một máy bán báo tự động. Nhìn qua tấm kính, tôi có thể thây rõ dòng tít "Giờ khắc của Clinton đã đến". Trên đường về nhà, một vài người qua đường chúc tôi những điều tốt đẹp. về đến biệt thự, tôi xem lại lần cuối bài diễn văn tuyên bố tranh cử. Tôi đã thức đến quá nửa đêm để hoàn thành nó; bài nói đầy những điều mà tôi tự thấy là câu văn sắc sảo cũng như các đề nghị chính sách cụ thể, nhưng vẫn còn quá dài nên tôi có cắt đi vài dòng.

Đến trưa, Bộ trưởng Bộ Tài chính Jimmie Lou Fisher - người làm việc với tôi từ 1978 - giới thiệu tôi lên phát biểu. Tôi bắt đầu có phần không suôn sẻ, có lẽ bởi những tình cảm mâu thuẫn tràn ngập trong tôi. Tôi vừa do dự khi phải từ bỏ cuộc sống mình đã biết rõ lại vừa hào hứng đón đầu thử thách, vừa có một chút sợ hãi nhưng hoàn toàn chắc rằng mình đang làm điều đúng đắn. Tôi nói trong hơn nửa giờ đồng hồ, cảm ơn gia đình, bạn bè, những ủng hộ viên đã cho tôi thêm sức mạnh "bước vượt lên công việc và cuộc sống mà tôi yêu mến để cống hiến cho mục tiêu lớn hơn: nuôi dưỡng và gìn giữ giấc mơ Mỹ, khôi phục lại hi vọng cho tầng lớp trung lưu bị lãng quên, giành lại tương lai cho thế hệ sau". Tôi kết thúc với cam kết "mang lại sức sống mới cho giấc mơ Mỹ" bằng cách đưa ra một "công ước mới" với nhân dân: "nhiều cơ hội hơn cho tất cả mọi người, đòi hỏi mọi người phải có nhiều trách nhiệm hơn, nhắm hướng tới mục tiêu chung to lớn".

Kết thúc bài nói, tôi cảm thấy vui sướng và phấn khích, nhưng trên hết có phần nhẹ nhõm, đặc biệt là sau khi Chelsea lém lỉnh nói: "Nói hay lắm, Thống đốc ơi". Hillary và tôi dành toàn bộ thời gian còn lại của ngày hôm đó nhận những lời chúc tốt đẹp. Mẹ, Dick, Roger và gia đình Hillary đều thấy hạnh phúc. Mẹ tôi cư xử cứ như thể bà biết chắc rằng tôi sẽ thắng. Dù biết bà rõ, tôi cũng không dám chắc thực sự bà cảm thấy như vậy hay chỉ là một ví dụ nữa về tài năng đóng kịch của bà. Tối đó, chúng tôi sum vầy quanh đàn piano với những người bạn cũ. Carolyn Staley đánh đàn như cô ấy vẫn làm từ khi chúng tôi còn 15 tuổi. Chúng tôi hát bản "Amazing Grace", vài bài thánh ca, và rất nhiều bài hát từ những thập niên 60, trong đo có "Abraham, Martin và John" như một sự tưởng nhớ tới những anh hùng đã khuất của thế hệ chúng tôi. Tôi đi ngủ với niềm tin chúng tôi có thể vượt qua mọi sự nanh nọc và thắp sáng lên ngọn lửa mà những người đó đã thắp lên trong trái tim tôi.

Thống đốc Mario Cuomo từng nói rằng, chúng ta vận động tranh cử bay bổng bằng thơ ca nhưng phải cai trị cụ thể và mạch lạc như văn xuôi. Tuyên bố này về cơ bản là chính xác, nhưng phần nhiều vận động tranh cử cũng là văn xuôi: nào là chuẩn bị hậu cần, hoàn tất những thủ tục cần thiết, và ứng phó với báo giới. Ngày thứ hai của chiến dịch đúng là nhiều văn xuôi hơn thơ ca: một loạt các cuộc phỏng vấn được thiết kế để đưa tôi lên truyền hình quốc gia nhắm vào các thị trường địa phương chủ yếu, và trả lời câu hỏi then chốt rằng tại sao tôi lại không hoàn tất cam kết sẽ phục vụ hết nhiệm kỳ thống đốc và liệu như thế có cho thấy tôi là người không đáng tin hay không. Tôi trả lời một cách tốt nhất có thể và nói tiếp đến thông điệp tranh cử. Nói chung là không hay, nhưng cũng đủ kéo tôi sang ngày thứ ba của chiến dịch.

Phần còn lại của năm ngập tràn những hoạt động căng thẳng của một chiến dịch khởi động muộn: sắp xếp lại tổ chức, quyên tiền, liên hệ tới các khu vực cử tri cụ thể và vận động ở New Hampshire.

Tổng hành dinh đầu tiên của chúng tôi nằm trong một của hàng sơn cũ trên Đường số 7 gần tòa nhà quốc hội tiểu bang. Tôi quyết định lấy Little Rock thay vì Washington làm căn cứ chính của chiến dịch. Điều này khiến việc sắp xếp đi lại phức tạp hơn chút ít, nhưng tôi muốn ở gần cội nguồn của mình và tạt về nhà thường xuyên với gia đình và giải quyết các công việc chính thức cần sự có mặt của tôi. Nhưng ở Arkansas cũng có lợi ích to lớn khác là giúp các nhân viên trẻ của chúng tôi tập trung cao độ hơn vào công việc. Họ không bị phân tán tư tưởng bởi cái nhà máy sản xuất tin đồn Washington, không bị choáng ngợp trước những bài báo tán thưởng tôi đến ngạc nhiên trong những ngày đầu và cũng không quá thất vọng trước hàng loạt bài viết tiêu cực sắp được tung ra sau đó.

Vài tuần sau, công việc của chúng tôi quá lớn so với cửa hàng sơn nên chúng tôi chuyển đến văn phòng trước đây của cơ quan đào tạo sau đại học ở gần đấy. Chúng tôi dùng văn phòng này cho đến lúc nó lại trở nên quá chật hẹp ngay trước Đại hội đảng Dân chủ. Chúng tôi lại di chuyển lần nữa, vào toà nhà của tờ Arkansas Gazette lúc đó đã bỏ trống từ vài tháng trước sau khi ông chủ Walter Hussman của tờ Arkansas Democrat mua lại và xóa sổ nó. Tòa nhà Gazette là nơi chúng tôi dùng làm tổng hành dinh cho đến hết chiến dịch, điều mà - theo quan điểm của tôi - là kết quả tốt duy nhất từ việc mất đi một tờ báo độc lập lâu đời nhất ở Mỹ tính từ phía tây Mississipi trở đi.

Tờ Gazette từng đứng lên bảo vệ dân quyền trong thập niên 50 và 60, và từng ủng hộ mạnh mẽ cho Dale Bumpers, David Pryor, và tôi trong khi chúng tôi nỗ lực hiện đại hóa giáo dục, dịch vụ xã hội và nền kinh tế. Vào thời kỳ hoàng kim của mình, nó là một trong những tờ báo tốt nhất trên cả nước, luôn mang đến cho độc giả trên mọi ngóc ngách Hoa Kỳ những bài báo viết hay và đề cập rộng đến các vấn đề trong và ngoài nước Mỹ. Những năm 80, Gazette bắt đầu phải cạnh tranh với tờ Arkansas Democrat của Hussman, lúc bấy giờ mới là một tờ báo buổi chiều nhỏ hơn rất nhiều. Cuộc chiến báo chí sau đó có một kết cục có thể thấy trước, vì Hussman sở hữu các cơ sở truyền thông có lời khác, cho phép ông ta để tờ Democrat chịu lỗ nhằm giành khách hàng và quảng cáo của Gazette. Trước khi tôi tuyên bố tranh cử tổng thống, Hussman mua luôn được tờ Gazette và hợp nhất nó vào tờ báo của ông ây, đặt lại tên là tờ Arkansas Democrat-Gazette. Trong nhiều năm sau này, tờ Democrat-Gazette góp phần biến Arkansas thành một bang theo xu hướng Cộng hòa nhiều hơn. Giọng điệu chung của các bài bình luận mang tính bảo thủ và chỉ trích tôi, thường là nhắm vào đời tư. về điểm này nó phản ánh góc nhìn của người chủ nó. Mặc dù tôi rất buồn khi chứng kiến Gazette sụp đổ, song tôi được an ủi phần nào khi chuyển đến toà nhà này. Tôi hi vọng rằng những bóng ma của quá khứ tiến bộ sẽ giúp chúng tôi đấu tranh cho ngày mai.

Chúng tôi bắt đầu với tất cả nhân viên đều là người Arkansas, với Bruce Lindsey là giám đốc chiến dịch và Craig Smith - người đã xếp lịch gặp cho tôi với các hội dồng và ủy ban - phụ trách tài chính. Rodney Slater và Carol Willis đã tất bật liên hệ với các lãnh đạo chính trị và tôn giáo da đen cũng như lãnh đạo giới kinh doanh khắp nơi trên toàn quốc. Người bạn cũ Eli Segal của tôi cũng đồng ý giúp tôi tạo dựng một đội ngũ nhân viên hoạt động toàn quốc.

Trước đó tôi đã gặp một người mà tôi chắc chắn muốn có trong đội ngũ của mình, một nhân viên trẻ tài năng làm việc cho Dân biểu Dick Gephardt: đó là George Stephanopoulos, con trai một linh mục Chính thống giáo Hy Lạp. Anh từng nhận học bổng Rhodes và cũng từng làm cho bạn tôi là Cha Tim Healy khi ông điều hành thư viện Công cộng New York. Tôi ngay lập tức có ấn tượng với George, và nhận thấy rằng anh có thể trở thành cầu nối với báo chí quốc gia và các thành viên đảng Dân chủ trong quốc hội, cũng như đóng góp vào việc suy xét các thách thức về mặt trí thức trọng chiến dịch.

Eli gặp anh này và cùng chung quan điểm với tôi, và George trở thành phó quản lý chiến dịch vận động phụ trách truyền thông. Eli cũng gặp David Wilhelm, nhà hoạt động chính trị trẻ người Chicago mà tôi muốn có trong đội ngũ. Chúng tôi mời anh làm quản lí chiến dịch và nhanh chóng nhận được sự đồng ý từ phía anh. Nói theo kiểu chính trị thì David là một người có tác dụng kép: ngoài việc quản lí chung chiến dịch, anh còn có thể rất hữu ích ở Illinois. Tôi tin tưởng rằng với David quản lí chiến dịch, Kevin O'Keefe đóng vai rò tổ chức trong tiểu bang, chúng tôi có thể giành chiến thắng rõ ràng tại Illinois để tiếp nối thắng lợi chúng tôi mong đợi ở các tiểu bang miền nam trong ngày Siêu Thứ Ba. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi cũng thuyết phục thêm được một thanh niên người Chicago, tahm Emanuel, tham gia vào chiến dịch. Rahm từng làm việc chung với Wilhelm trong các chiến dịch thành công của Thị trưởng Richard Daley và Thượng nghị sĩ Paul Simon. Đó là một người đàn ông mảnh khảnh nhưng quyết liệt, từng học múa ballet, và dù là người Mỹ nhưng từng phục vụ trong quân đội Israel. Rahm hăng đến mức khiến tôi trông có vẻ hiền lành. Chúng tôi bổ nhiệm anh làm giám đốc tài chính, và trong hoàn cảnh vận động với ngân sách eo hẹp đúng là chúng tôi cần người hăng máu như anh ấy thật. Craig Smith thì lo thành lập các tổ chức vận động ở tiểu bang, một việc phù hợp hơn với những kỹ năng chính trị của Craig. Tiếp đó, Bruce Reed cũng rời Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ để trở thành giám đốc chính sách của chúng tôi. Eli còn phỏng vấn hai phụ nữ khác mà sau này đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch. Dee Dee Myers từ California trở thành thư ký báo chí, một công việc đòi hỏi cô phải chịu nhiều búa rìu mà cô không thể ngờ được. Dù còn trẻ, nhưng cô sẵn sàng đương đầu với thử thách. Stephanie Solien từ bang Washington trở thành giám đốc chính trị. Tôi nhận Stephanie không phải vì cô là vợ của Frank Greer mà vì cô là một phụ nữ thông minh, sắc sảo trong lập luận chính trị và không góc cạnh như nhóm nam giới. Cô ấy vừa làm việc giỏi vừa tạo ra không khí mềm mại hơn mà bất cứ chiến dịch căng thẳng nào cũng cần có. Khi chiến dịch vận động diễn ra, những người trẻ tuổi từ khắp nơi trên nước Mỹ bắt đầu xuất hiện để gánh vác công việc.

Trên mặt trận tài chính, chúng tôi khởi đầu với sự giúp đỡ hào phóng từ phía người dân Arkansas, từ nỗ lực của Bob Farmer ở Massachusetts vốn có khả năng chỉ cần đề nghị là những nhà tài trợ cho đảng Dân chủ lập tức chi tiền ngay, và các khoản đóng góp của bạn bè trên cả nước đã giúp tôi có đủ tiền tương ứng với quỹ tranh cử của chính quyền liên bang. Để làm được như vậy, một ứng viên phải huy động được ở 20 bang mỗi bang năm ngàn đôla, nhưng mỗi khoản đóng góp riêng lẻ không được vượt quá 250 đôla. Ở một số bang, những người bạn thống đốc của tôi giúp tôi việc đó. Ở Texas, người ủng hộ lâu năm Truman Arnold của tôi đã huy động được 30.000 đôla mà tôi rất cần. Không như nhiều người giàu có khác, Truman càng giàu thì càng có vẻ như gắn bó với đảng Dân chủ hơn.

Có phần hơi bất ngờ là nhiều người ở thủ đô Washington cũng muốn góp phần giúp đỡ, đặc biệt là luật sư đảng Dân chủ và chuyên gia gây quỹ Vic Raiser và Tom Schnieder, người bạn cùng dự kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng của tôi. Ở New York, tôi nhận được những sự giúp đỡ vô giá ngay từ sớm, không chỉ từ bạn tôi là Haroild Ickes và Susan Thomases mà còn cả từ Ken Brody - giám đốc của công ty Goldman Sachs vừa mới lần đầu tiên quyết định tham gia sâu hơn vào hoạt động chính trị của đảng Dân chủ. Ken nói với tôi rằng, ông từng là một người Cộng hòa bởi ông cho rằng những người Dân chủ có cái tâm, nhưng lí trí lại đặt sai chỗ. Ông tâm sự rằng sau đó bản thân ông thân thiết với phe Cộng hòa đủ để nhận ra họ có lí trí nhưng thiếu đi cái tâm, và quyết định theo phe Dân chủ vì thay đổi lối suy nghĩ dễ hơn thay đổi cái tâm. Thật may là ông chọn tôi để bắt đầu việc đó. Ken dẫn tôi tới dự một bữa tối với những doanh nhân đầy quyền lực tại New York, trong đó có Bob Rubin, người có những lập luận chặt chẽ về chính sách mới trong kinh tế làm tôi cực kỳ có ấn tượng. Trong bất cứ chiến dịch chính trị thành công nào, những người như Ken Brody thế nào cũng xuất hiện và mang đến theo sức mạnh, ý tưởng và những người của phía khác chuyển sang ủng hộ bạn.

Ngoài việc huy động tài chính và lo tổ chức, tôi phải tiếp cận với những khối cử tri chủ yếu ủng hộ đảng Dân chủ. Tháng 10, tôi phát biểu trước một nhóm người Do Thái ở Texas rằng Israel nên đổi lãnh thổ lấy hòa bình. Tôi còn nói chuyên với nhóm dân nói tiếng Tây Ban Nha ở Chicago; nhóm đảng Dân chủ ở Tennessee, Maine, New Jersey và California - những nơi được coi là các tiểu bang dao động, nghĩa là trong tổng tuyển cử không thể biết chắc được họ sẽ bỏ phiếu cho bên nào. Tháng 11, tôi nói chuyên với đại hội của hội thánh Đức Chúa trời, hệ phái tín đồ da đen phát triển nhanh nhất nước Mỹ. Tôi tiếp tục đi vận động ở miền Nam: Florida, Nam Carolina, Louisiana và Georgia. Florida là quan trọng, vì đợt bỏ phiếu thử ngày 15 tháng 12 của bang này có thể là đợt thử lửa đầu tiên. Tỷ lệ ủng hộ của Tổng thống Bush bắt đầu giảm sút trong các cuộc thăm dò và còn tự hại mình khi nói rằng nền kinh tế đang tốt đẹp. Tôi phát biểu trước Hiệp hội Giáo dục quốc gia và cuộc họp thường niên của ủy ban Quan hệ công cộng Mỹ - Israel ở ở Washington. Sau đó tôi lại quay xuống miền Nam đến Bắc Carolina, Texas và Georgia. Ở miền Tây, tôi dừng chân tại Colorado, Nam Dakota, và Wyoming - nơi Thống đốc Mike Sullivan tuyên bố ủng hộ tôi; đến căn cứ vững chắc của đảng Cộng hòa là quận Cam, California, nơi tôi giành được sự ủng hộ của một doanh nhân truyền thông theo đảng Cộng hòa là Roger Johnson và những người khác vốn đã vỡ mộng về chính sách kinh tế của Tổng thống Bush.

Chúng tôi bắt đầu với tất cả nhân viên đều là người Arkansas, với Bruce Lindsey là giám đốc chiến dịch và Craig Smith - người đã xếp lịch gặp cho tôi với các hội dồng và ủy ban - phụ trách tài chính. Rodney Slater và Carol Willis đã tất bật liên hệ với các lãnh đạo chính trị và tôn giáo da đen cũng như lãnh đạo giới kinh doanh khắp nơi trên toàn quốc. Người bạn cũ Eli Segal của tôi cũng đồng ý giúp tôi tạo dựng một đội ngũ nhân viên hoạt động toàn quốc.

Trước đó tôi đã gặp một người mà tôi chắc chắn muốn có trong đội ngũ của mình, một nhân viên trẻ tài năng làm việc cho Dân biểu Dick Gephardt: đó là George Stephanopoulos, con trai một linh mục Chính thống giáo Hy Lạp. Anh từng nhận học bổng Rhodes và cũng từng làm cho bạn tôi là Cha Tim Healy khi ông điều hành thư viện Công cộng New York. Tôi ngay lập tức có ấn tượng với George, và nhận thấy rằng anh có thể trở thành cầu nối với báo chí quốc gia và các thành viên đảng Dân chủ trong quốc hội, cũng như đóng góp vào việc suy xét các thách thức về mặt trí thức trọng chiến dịch.

Eli gặp anh này và cùng chung quan điểm với tôi, và George trở thành phó quản lý chiến dịch vận động phụ trách truyền thông. Eli cũng gặp David Wilhelm, nhà hoạt động chính trị trẻ người Chicago mà tôi muốn có trong đội ngũ. Chúng tôi mời anh làm quản lí chiến dịch và nhanh chóng nhận được sự đồng ý từ phía anh. Nói theo kiểu chính trị thì David là một người có tác dụng kép: ngoài việc quản lí chung chiến dịch, anh còn có thể rất hữu ích ở Illinois. Tôi tin tưởng rằng với David quản lí chiến dịch, Kevin O'Keefe đóng vai rò tổ chức trong tiểu bang, chúng tôi có thể giành chiến thắng rõ ràng tại Illinois để tiếp nối thắng lợi chúng tôi mong đợi ở các tiểu bang miền nam trong ngày Siêu Thứ Ba. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi cũng thuyết phục thêm được một thanh niên người Chicago, tahm Emanuel, tham gia vào chiến dịch. Rahm từng làm việc chung với Wilhelm trong các chiến dịch thành công của Thị trưởng Richard Daley và Thượng nghị sĩ Paul Simon. Đó là một người đàn ông mảnh khảnh nhưng quyết liệt, từng học múa ballet, và dù là người Mỹ nhưng từng phục vụ trong quân đội Israel. Rahm hăng đến mức khiến tôi trông có vẻ hiền lành. Chúng tôi bổ nhiệm anh làm giám đốc tài chính, và trong hoàn cảnh vận động với ngân sách eo hẹp đúng là chúng tôi cần người hăng máu như anh ấy thật. Craig Smith thì lo thành lập các tổ chức vận động ở tiểu bang, một việc phù hợp hơn với những kỹ năng chính trị của Craig. Tiếp đó, Bruce Reed cũng rời Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ để trở thành giám đốc chính sách của chúng tôi. Eli còn phỏng vấn hai phụ nữ khác mà sau này đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch. Dee Dee Myers từ California trở thành thư ký báo chí, một công việc đòi hỏi cô phải chịu nhiều búa rìu mà cô không thể ngờ được. Dù còn trẻ, nhưng cô sẵn sàng đương đầu với thử thách. Stephanie Solien từ bang Washington trở thành giám đốc chính trị. Tôi nhận Stephanie không phải vì cô là vợ của Frank Greer mà vì cô là một phụ nữ thông minh, sắc sảo trong lập luận chính trị và không góc cạnh như nhóm nam giới. Cô ấy vừa làm việc giỏi vừa tạo ra không khí mềm mại hơn mà bất cứ chiến dịch căng thẳng nào cũng cần có. Khi chiến dịch vận động diễn ra, những người trẻ tuổi từ khắp nơi trên nước Mỹ bắt đầu xuất hiện để gánh vác công việc.

Trên mặt trận tài chính, chúng tôi khởi đầu với sự giúp đỡ hào phóng từ phía người dân Arkansas, từ nỗ lực của Bob Farmer ở Massachusetts vốn có khả năng chỉ cần đề nghị là những nhà tài trợ cho đảng Dân chủ lập tức chi tiền ngay, và các khoản đóng góp của bạn bè trên cả nước đã giúp tôi có đủ tiền tương ứng với quỹ tranh cử của chính quyền liên bang. Để làm được như vậy, một ứng viên phải huy động được ở 20 bang mỗi bang năm ngàn đôla, nhưng mỗi khoản đóng góp riêng lẻ không được vượt quá 250 đôla. Ở một số bang, những người bạn thống đốc của tôi giúp tôi việc đó. Ở Texas, người ủng hộ lâu năm Truman Arnold của tôi đã huy động được 30.000 đôla mà tôi rất cần. Không như nhiều người giàu có khác, Truman càng giàu thì càng có vẻ như gắn bó với đảng Dân chủ hơn.

Có phần hơi bất ngờ là nhiều người ở thủ đô Washington cũng muốn góp phần giúp đỡ, đặc biệt là luật sư đảng Dân chủ và chuyên gia gây quỹ Vic Raiser và Tom Schnieder, người bạn cùng dự kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng của tôi. Ở New York, tôi nhận được những sự giúp đỡ vô giá ngay từ sớm, không chỉ từ bạn tôi là Haroild Ickes và Susan Thomases mà còn cả từ Ken Brody - giám đốc của công ty Goldman Sachs vừa mới lần đầu tiên quyết định tham gia sâu hơn vào hoạt động chính trị của đảng Dân chủ. Ken nói với tôi rằng, ông từng là một người Cộng hòa bởi ông cho rằng những người Dân chủ có cái tâm, nhưng lí trí lại đặt sai chỗ. Ông tâm sự rằng sau đó bản thân ông thân thiết với phe Cộng hòa đủ để nhận ra họ có lí trí nhưng thiếu đi cái tâm, và quyết định theo phe Dân chủ vì thay đổi lối suy nghĩ dễ hơn thay đổi cái tâm. Thật may là ông chọn tôi để bắt đầu việc đó. Ken dẫn tôi tới dự một bữa tối với những doanh nhân đầy quyền lực tại New York, trong đó có Bob Rubin, người có những lập luận chặt chẽ về chính sách mới trong kinh tế làm tôi cực kỳ có ấn tượng. Trong bất cứ chiến dịch chính trị thành công nào, những người như Ken Brody thế nào cũng xuất hiện và mang đến theo sức mạnh, ý tưởng và những người của phía khác chuyển sang ủng hộ bạn.

Ngoài việc huy động tài chính và lo tổ chức, tôi phải tiếp cận với những khối cử tri chủ yếu ủng hộ đảng Dân chủ. Tháng 10, tôi phát biểu trước một nhóm người Do Thái ở Texas rằng Israel nên đổi lãnh thổ lấy hòa bình. Tôi còn nói chuyên với nhóm dân nói tiếng Tây Ban Nha ở Chicago; nhóm đảng Dân chủ ở Tennessee, Maine, New Jersey và California - những nơi được coi là các tiểu bang dao động, nghĩa là trong tổng tuyển cử không thể biết chắc được họ sẽ bỏ phiếu cho bên nào. Tháng 11, tôi nói chuyên với đại hội của hội thánh Đức Chúa trời, hệ phái tín đồ da đen phát triển nhanh nhất nước Mỹ. Tôi tiếp tục đi vận động ở miền Nam: Florida, Nam Carolina, Louisiana và Georgia. Florida là quan trọng, vì đợt bỏ phiếu thử ngày 15 tháng 12 của bang này có thể là đợt thử lửa đầu tiên. Tỷ lệ ủng hộ của Tổng thống Bush bắt đầu giảm sút trong các cuộc thăm dò và còn tự hại mình khi nói rằng nền kinh tế đang tốt đẹp. Tôi phát biểu trước Hiệp hội Giáo dục quốc gia và cuộc họp thường niên của ủy ban Quan hệ công cộng Mỹ - Israel ở ở Washington. Sau đó tôi lại quay xuống miền Nam đến Bắc Carolina, Texas và Georgia. Ở miền Tây, tôi dừng chân tại Colorado, Nam Dakota, và Wyoming - nơi Thống đốc Mike Sullivan tuyên bố ủng hộ tôi; đến căn cứ vững chắc của đảng Cộng hòa là quận Cam, California, nơi tôi giành được sự ủng hộ của một doanh nhân truyền thông theo đảng Cộng hòa là Roger Johnson và những người khác vốn đã vỡ mộng về chính sách kinh tế của Tổng thống Bush.

Ngay từ đầu chiến dịch, tôi đánh giá đối thủ lớn nhất của mình ở New Hamsphire có thể là Harkin hoặc Kerrey. Nhưng chẳng bao lâu sau rõ ràng là tôi đã nhầm. Tsongas mới là người tôi phải quan tâm. Thành phố quê hương của ông ấy nằm ngay bên rìa New Hampshire; chuyện đời ông ấy rất cuốn hút; ông ấy cho thấy sự cứng cỏi và quyết tâm đáng nể nhằm đạt thắng lợi; và quan trọng nhất, ông là ứng viên duy nhất chạy đua với tôi trên mặt trận ý tưởng và đề xuất cụ thể mang tính toàn diện.

Các chiến dịch tranh cử tổng thống thành công đòi hỏi ba điều cơ bản. Đầu tiên, mọi người có thể nhìn vào bạn và tưởng tượng ra được bạn sẽ là một tổng thống. Rồi bạn phải có đủ tiềm lực tài chính và sự ủng hộ để khuếch trương tên tuổi mình. Sau đó là trận chiến của các ý tưởng, thông điệp và lập trường trong các vấn đề. Tsongas đã có được hai yêu cầu đầu tiên và sắp sửa đạt được yêu cầu cuối cùng. Và tôi quyết không để ông ta làm được điều đó.

Tôi lên lịch ba buổi nói chuyện tại Georgetown để trình bày những đề xuất cụ thể trong chủ đề Thỏa ước mới của mình. Những lần nói chuyện này là trước các sinh viên, giảng viên, ủng hộ viên và giới báo chí trong hội trường Gaston cổ kính viền gỗ tại toà nhà Healy. Chủ đề buổi nói chuyện ngày 23 tháng 10 là trách vụ và cộng đồng, còn ngày 20 tháng 11 là về cơ hội kinh tế; ngày 12 tháng 13 là an ninh quốc gia.

Gộp chung lại, các bài diễn thuyết cho tôi cơ hội diễn giải những ý tưởng, đề xuất mà tôi thai nghén trong suốt thập kỷ làm thống đốc và thành viên Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ (DLC). Tôi góp phần thảo ra và tin tưởng sâu sắc vào năm tín điều cốt lõi của DLC: đó là cương lĩnh về cơ hội cho tất cả và không ai được đặc quyền của Andrew Jackson; là những giá trị cơ bản của Mỹ về công việc và gia đình, tự do và trách nhiệm niềm tin, sự tha thứ và hội nhập; là học thuyết về nghĩa vụ chung của John Kenedy vốn yêu cầu mỗi công dân có trách nhiệm đóng góp gì đó trở lại cho đất nước; là thúc đẩy các giá trị nhân đạo và dân chủ trên toàn thế giới; và cam kết canh tân của Franklin Roosevelt nhằm hiện đại hóa chính phủ trong thời đại thông tin và khuyến khích dân chúng bằng cách cung cấp cho họ công cụ để họ có thể phát triển tối đa cuộc sống của mình.

Tôi thấy khá bất ngờ bởi một số chỉ trích về DLC từ phe cánh tả trong đảng Dân chủ, gọi chúng tôi là những người vỏ Dân chủ nhưng Cộng hòa trong ruột, và một số nhân vật báo chí chính trị hay đưa ra những định nghĩa dễ dãi xem ai là Cộng hòa ai là Dân chủ. Khi chúng tôi không phù hợp với mô tả của họ về người của đảng Dân chủ, họ nói chúng tôi chẳng tin tưởng vào bất cứ điều gì. Bằng chứng của họ là việc chúng tôi muốn thắng các cuộc tổng tuyển cử, điều mà người phe Dân chủ có vẻ như không được làm.

Tôi tin rằng DLC sẽ phát triển thêm những giá trị và nguyên tắc tinh hoa nhất của đảng Dân chủ bằng các ý tưởng mới. Tất nhiên, một số người cấp tiến thực sự bất đồng với chúng tôi về cải cách an sinh, thương mại, trách nhiệm ngân sách và quốc phòng. Song điểm khác biệt giữa chúng tôi với những người theo đảng Cộng hòa hoàn toàn rõ ràng. Chúng tôi phản đối việc giảm thuế không công bằng và tình trạng ngân khố luôn thâm hụt lớn. Chúng tôi không chung quan điểm việc họ phản đối dự luật Nghỉ ốm và việc gia đình và dự luật Brady; việc họ không đầu tư thích đáng cho giáo dục hoặc thúc đẩy những cải cách đã được chứng minh là có hiệu quả; việc họ đưa ra những chính sách gây chia rẽ về vấn đề sắc tộc và đồng tính; việc họ không muốn bảo vệ môi trường; quan điểm chống phá thai của họ; và nhiều khía cạnh khác nữa. Chúng tôi còn có nhiều ý tưởng hay, như xây dựng lực lượng 100.000 cảnh sát cộng đồng; tăng gấp đôi mức nợ thuế thu nhập để khiến việc đi làm hấp dẫn hơn và cuộc sống dễ chịu hơn cho những gia đình có thu nhập khiêm tốn; và cho thanh niên cơ hội làm các dịch vụ công cộng để đổi lấy trợ giúp tiền học đại học.

Những nguyên tắc và đề xuất mà tôi ủng hộ khó có thể bị coi là khuynh hướng của đảng Cộng hòa hay thiếu tính thuyết phục. Thay vào đó, chúng giúp hiện đại hóa đảng Dân chủ và sau này được các đảng chính trị trung tả mới hồi sinh trên toàn thế giới áp dụng và mệnh danh là "Con đường thứ ba". Quan trọng nhất là những ý tưởng mới khi được đưa vào thực tiễn sẽ mang lại lợi ích cho nước Mỹ. Những bài phát biểu tại Georgetown năm 1991 cho tôi cơ hội quý giá để thể hiện rằng mình có một chương trình nghị sự ủng hộ thay đổi và nghiêm túc muốn thực hiện nó.

Trong khi đó, tại New Hamsphire, tôi cũng tung ra một cuốn sách nhỏ của mình, và đưa vào những đề xuất cụ thể được đề cập trong các bài phát biểu tại Georgetown. Và tôi sắp lịch dự càng nhiều buổi họp thị trấn càng tốt. Một trong những lần phát biểu hồi đầu được tổ chức ở Keene - một thành phố đại học xinh đẹp nằm ở miền phía nam của bang. Nhân viên của tôi phát tờ rơi khắp thành phố nhưng chúng tôi không chắc có bao nhiêu người sẽ tham dự. Phòng chúng tôi thuê chứa được khoảng 200 chỗ ngồi. Trên đường đến cuộc diễn thuyết, tôi hỏi một người tổ chức chiến dịch lâu năm xem chúng tôi cần có ít nhất bao nhiêu người tham dự để tránh khỏi bị xấu hổ. Bà ấy nói "50 người". "Thế bao nhiêu người dự thì được coi là thành công?". "150 người". Nhưng khi tôi tới nơi, có tới 400 người. Cảnh sát phòng cháy buộc chúng tôi phải phân đôi làm hai phòng, và tôi phải diễn thuyết hai lần. Đó là lần đầu tiên tôi biết chúng tôi có thể thành công ở New Hampshire.

Thông thường, tôi nói khoảng 15 phút và dành một giờ hoặc hơn nữa để trả lời chất vấn. Lúc đầu tôi lo mình đi quá sâu vào chi tiết chính sách và có vẻ "non nớt về chính sách" khi trả lời, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng người ta tìm kiếm thực chất chứ không quan tâm đến kiểu cách. Họ thực sự đang khốn khó và muốn biết làm thế nào để thoát ra khỏi tình cảnh họ đang lâm vào. Tôi học được rất nhiều từ những lần nghe chất vấn trong những buổi gặp như vậy và các lần đi đây đó khác trong chiến dịch.

Một cặp vợ chồng có tuổi, Edward và Annie Davis, kể với tôi rằng họ luôn phải đứng trước lựa chọn giữa việc mua thuốc điều trị hay mua thức ăn. Một học sinh trung học thì nói người cha thất nghiệp của mình quá xấu hổ đến mức không dám đối diện với gia đình và tìm tới cái chết. Tôi cũng gặp những cựu chiến binh tại các cơ sở của hội Lê dương Mỹ và nhận thấy họ quan tâm tới việc giảm sút chất lượng chăm sóc sức khỏe tại các bệnh viện cựu chiến binh hơn là việc tôi phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Tôi đặc biệt cảm động trước trường hợp Ron Machos, có người con trai là Ronnie bị bệnh tim bẩm sinh. Ông đã mất việc trong thời kì khủng hoảng kinh tế và không thể tìm được công việc nào có bảo hiểm sức khỏe để chi trả những khoản viện phí khổng lồ sắp tới. Khi đảng Dân chủ tại New Hamsphire tổ chức một hội nghị để lắng nghe ý kiến tất cả các ứng viên, một nhóm sinh viên mang băng rôn có dòng chữ "Bầu cho Clinton" - nhóm này được thầy họ là bạn cũ của tôi ở Arkansas, Jan Paschal thuê - dẫn tôi lên bục phát biểu. Một trong số họ để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Michael Horrison phải ngồi xe lăn nhưng điều đó không làm cậu chậm chạp đi chút nào. Cậu ủng hộ tôi vì cậu được nuôi dưỡng bởi một người mẹ độc thân có thu nhập thấp, và nghĩ rằng tôi cam kết mang lại cơ hội lên đại học và kiếm việc làm tốt cho mọi đứa trẻ.

Đến tháng 12, chiến dịch trở nên gấp rút. Ngày 2 tháng 12, James Carville và bạn anh, Paul Begala, tham gia cùng chúng tôi. Họ là những nhân vật đầy màu sắc và là tài sản chính trị nóng, từng giúp Thống đốc Bob Casey và Thượng nghị sĩ Harris Wofford trúng cử ở Pennsylvania, Thống đốc Zell Miller trúng cử ở Georgia. Zell giới thiệu Carville qua điện thoại cho tôi để sắp xếp một buổi gặp với anh và Begala. Giống như tôi và Frank Greer, họ thuộc về nhóm người đang dần tuyệt chủng nhưng vẫn hoạt động chính trị bản lĩnh: những người Dân chủ da trắng miền nam. Carville là người Cajun ở Louisiana, cựu lính thủy đánh bộ, có đầu óc chiến lược tuyệt vời và say mê với chính trị tiến bộ. Anh ấy và tôi có nhiều điểm tương đồng, như cùng có những bà mẹ đầy ý chí và thực tế mà chúng tôi rất yêu kính. Begala là một nhà hoạt náo hóm hỉnh đến từ Sugar Land bang Texas - người đã kết hợp được chủ nghĩa dân túy tiến bộ với lương tâm xã hội của đạo Cơ đốc. Tôi không phải là ứng viên duy nhất muốn có được họ, và khi tham gia với tôi họ đem lại cho chúng tôi thêm nhiệt huyết, khả năng tập trung cũng như uy tín.

Ngày 10 tháng 12, tôi phát biểu tại Đại hội chủ tịch các tổ chức Do Thái tại Mỹ, và hai ngày sau tôi thuyết trình lần thứ ba và cũng là lần cuối tại Georgetown về an ninh quốc gia. Tôi được giúp đỡ nhiều của bạn lâu năm là Sandy Berger, từng là phó giám đốc hoạch định chính sách tại Bộ Ngoại giao trong thời Carter. Sandy cũng huy động ba chuyên gia chính sách đôi ngoại thời Carter là Tony Lake, Dick Holbrooke, Madeleine Albright và một chuyên gia gốc Austra¬lia về khu vực Trung Đông Martin Indyck hỗ trợ. Tất cả họ sau này đều đóng vai trò quan trọng trong nhiều năm tiếp theo, nhưng vào giữa tháng 12, họ cũng đủ giúp tôi vượt qua ngưỡng cửa khó khăn để trở thành người có hiểu biết và khả năng chút ít về ngoại giao.

Ngày 15 tháng 12, tôi giành chiến thắng trong đợt bỏ phiếu thử tại Florida trong đại hội Dân chủ bang này với 54% số phiếu của đại biểu. Tôi biết phần lớn họ qua ba lần tham dự hội nghị này trong những năm 80. Hillary và tôi cũng tích cực vận động họ, cùng với hai em trai cô ấy là Hugh và Tony - người sống ở Miami, và vỢ của Hugh là Maria, một luật sự gốc Cuba.

Hai ngày sau chiến thắng tại Florida, một cuộc quyên góp tiền ở Arkansas đã gom được 800.000 đôla cho chiến dịch, mức cao nhất từng có từ trước tới nay cho một sự kiện quyên tiền đơn lẻ ở đây. Ngày 19 tháng 12, Nashville Banner là tờ báo đầu tiên ủng hộ tôi. Ngày 20 tháng 12, thống đốc Cuomo tuyên bố không tham gia tranh cử. Sau đó Thượng nghị sĩ Sam Nurtn và Thống đốc Zell Miller bang Georgia giúp chiến dịch của tôi rất nhiều khi lên tiếng ủng hộ tôi. Cuộc bầu sơ bộ chọn ứng viên ở Georgia diễn ra ngay trước ngày Siêu Thứ Ba, cùng thời điểm ở Maryland và Colorado.

Trong khi đó, những rắc rối của Tổng thống Bush lại chồng chất thêm khi Pat Buchanan công bố ý định tham gia cuộc bầu chọn ứng viên của đảng Cộng hòa với cách chỉ trích từ cánh hữu kiểu George Wallace nhắm vào tổng thống. Những người bảo thủ phe Cộng hòa giận tổng thống vì đã ký thông qua chương trình giảm thâm thủng ngân sách 492 tỷ đô la vốn được quốc hội do phe Dân chủ nắm thông qua, Lý do là vì ngoài việc cắt giảm chi tiêu, chương trình này còn bao gồm việc tăng thuế xăng thêm 5 cent. Năm 1988 ông Bush từng khiến đại hội đảng Cộng hòa nhiệt liệt tán thành bằng câu tuyên bố nổi tiếng "Nghe cho rõ đây: không thêm thuế mới nào cả". Ông ấy đã làm một việc đúng đắn khi ký thông qua chương trình giảm thâm thủng ngân sách, nhưng cũng đồng thời phá vỡ cam kết nổi bật nhất trong cuộc vận động của mình và vi phạm chủ thuyết chống thuế của phe cánh hữu trong đảng của mình.

Những người bảo thủ không hoàn toàn hướng mọi chỉ trích về phía Tổng thống Bush. Tôi cũng hứng chịu phần nào từ một nhóm có tên ARIAS, viết tắt cho Liên minh vì sự hồi sinh của tinh thần độc lập Mỹ. ARIAS được điều hành một phần bởi Cliff Jackson, một người Arkansas tôi từng quen và mến ở Oxford nhưng giờ lại là một người Cộng hòa bảo thủ và đặc biệt thù hận cá nhân với tôi. Khi ARIAS tung ra các quảng cáo trên báo, đài, tivi công kích tồi, chúng tôi đã đáp trả một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Những cú tấn công đó có vẻ làm cho chiến dịch của tôi được lợi hơn là hại, bởi việc đáp trả chúng nhấn mạnh đến những thành tựu của tôi trong vai trò thống đốc, và vì động cơ của các cú tấn công đó làm cho những người Dân chủ ở New Hampshire hoài nghi chúng. Hai ngày trước giáng sinh, một cuộc thăm dò ở New Hampshire xếp tôi đứng thứ hai sau Paul Tsongas và bám đuổi rất sát. Năm đó kết thúc bằng một triển vọng tốt.

Ngày 8 tháng 1, Thống đốc Wilder rút lui khỏi cuộc đua, làm giảm đi sự cạnh tranh giành phiếu bầu của cử tri gốc Phi, đặc biệt là ở miền Nam. Gần như cùng thời gian đó, Frank Greer cho ra một quảng cáo truyền hình tuyệt vời, nhấn mạnh những vấn đề kinh tế của New Hamsphire và giải pháp của tôi, và chúng tôi vượt qua Tsongas trong các cuộc thăm dò. Đến trước tuần thứ hai của tháng 1, chúng tôi đã vận động được 3,3 triệu đôla trong chưa đầy ba tháng, với nửa con số đến từ Arkansas. Ngày nay, có thể con số đó không thấm vào đâu, nhưng đầu năm 1992, nó đủ để giúp chúng tôi dẫn đầu.

Chiến dịch diễn ra tốt đẹp cho đến 23 tháng 1, khi giới truyền thông Little Rock nhận được lời báo trước rằng sẽ có một bài báo trong số phát hành ngày 4 tháng 2 của tờ báo lá cải Star, trong đó Gennifer Flowers nói rằng cô ta có quan hệ tình ái với tôi trong 12 năm qua. Tên cô đã từng xuất hiện trong danh sách năm, người phụ nữ mà Larry Nichols từng cáo buộc tôi có dan díu với họ hồi tôi tranh cử chức thống đôc năm 1990. Hồi đó, cô ta cương quyết phủ nhận. Đầu tiên chúng tôi không chắc báo giới sẽ đón nhận sự quay ngoắt 180° của cô ta ra sao nên chúng tôi vẫn hoạt động theo lịch trình bình thường. Tôi lái xe một chặng dài tới Claremont ở tây nam New Hampshire để thăm một nhà máy làm chổi. Người chủ nhà máy muốn bán sản phẩm của họ cho Wal-Mart, và tôi muốn giúp họ. Giữa buổi, Dee Dee Myers vào văn phòng của nhà máy để gọi về tổng hành dinh. Flowers tuyên bố cô ta có băng ghi âm 10 cuộc điện thoại với tôi giúp chứng minh lời cáo buộc của cô.

Một năm trước, luật sư của Flowers đã viết thư tới đài phát thanh Little Rock doạ sẽ khiếu kiện bởi một trong những phát thanh viên của đài này đã nhắc lại bản thông cáo báo chí của Larry Nichols và viết rằng đài phát thanh đã cáo buộc cô ta có quan hệ luyến ái "một cách thất thiệt và sai trái". Chúng tôi không biết có gì trong cuộn băng của Flowers, nhưng tôi nhớ rõ các cuộc nói chuyện đó và nghĩ rằng không có gì phương hại đến tôi. Flowers, người tôi quen từ năm 1977 và mới gần đây tôi có giúp tìm việc làm, từng gọi cho tôi than phiền báo chí liên tục làm phiền cô ngay cả ở nơi cô hát ban đêm và e rằng mình sẽ mất việc. Tôi chia sẻ nỗi khổ sở của cô ấy, nhưng thấy chuyện không có gì phải ầm ĩ. Sau khi Dee Dee tìm cách khám phá xem tờ Star định viết gì, tôi gọi cho Hillary và cho cô ấy biết chuyện. May thay, cô ấy đang đi vận động tranh cử và ở tại dinh thự thống đốc bang Georgia, có Zell và Shirley Miller bên cạnh và chăm sóc cô ấy thật tuyệt vời.