← Quay lại trang sách

Chương 28 (tt)

Ngày 15 tháng 9, chuyến đi miền tây có thêm sự khích lệ lớn nhất khi 300 lãnh đạo công nghệ cao ở Thung lũng Silicon vốn có truyền thống theo phe Cộng hòa tuyên bố ủng hộ tôi. Tôi đã vận động ở Thung lũng Silicon từ tháng 12 trước với sự giúp đỡ của Dave Barram, phó chủ tịch công ty Apple Computer. Dave được tuyển dụng vào chiến dịch tranh cử bởi Ira Magaziner, bạn tôi ở Oxford, người đã làm việc trong giới công nghệ cao và biết Barram là đảng viên Dân chủ. Rất nhiều đồng nghiệp của Barram là đảng viên Cộng hòa vốn vỡ mộng vì các chính sách kinh tế của chính quyền Bush không nhìn thấy tiềm năng bùng nổ của giới doanh nghiệp ở Thung lũng Silicon. Vài ngày trước chuyến đi đầu tiên của tôi, theo tờ San Jose Mercury News, đại diện thương mại của Tổng thống Bush là Carla Hills đã ủng hộ quan điểm rằng "Hoa Kỳ có xuất khẩu khoai tây chiên hay con chip silicon thì cũng chẳng khác biệt gì", (chơi chữ: popato chips và silicon chips - ND). Giới công nghệ cao không đồng ý, và tôi cũng thế.

Trong so những người quay qua ủng hộ tôi có những đảng viên Cộng hòa nổi bật như John Young, chủ tịch của Hewlett - Packard; John Sculley, chủ tịch công ty Apple Computer; chủ ngân hàng đầu tư Sandy Robertson; và một trong số ít người công khai theo phe Dân chủ ở Thung lũng Silicon lúc đó là Regis McKenna. Tại buổi gặp của chúng tôi ở Trung tâm Công nghệ của Thung lũng Silicon ở San Jose, tôi cũng đưa ra chính sách công nghệ quốc gia mà Dave Barram đã làm việc trong mấy tháng để giúp tôi thảo ra. Trong khi kêu gọi đầu tư hơn nữa vào việc nghiên cứu và phát triển công nghệ, trong đó có các dự án cụ thể quan trọng đối với Thung lũng Silicon, tôi chỉ ra những điểm khác biệt trong thái độ ác cảm của chính quyền Bush đối với việc thiết lập các dự án chính quyền và doanh nghiệp công nghệ cao cùng làm. Vào thời điểm này, Nhật Bản và Đức đã vượt qua Mỹ về kinh tế, một phần là vì chính sách của chính phủ ở các nước này là nhằm ủng hộ các lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng. Trái lại, chính sách của Mỹ là trợ cấp các nhóm quyền lợi hùng mạnh và lâu đời như dầu khí và nông nghiệp - việc này cũng quan trọng nhưng ít tiềm năng tạo ra công ăn việc làm mới và các doanh nghiệp mới hơn so với ngành công nghệ cao. Tuyên bố của các lãnh đạo ngành công nghệ cao đã tạo ra bước nhảy vọt khổng lồ cho cuộc vận động, tạo nên uy tín cho tuyên bố của tôi là sẽ ủng hộ giới kinh doanh cũng như người lao động, và kết nối tôi với lực lượng kinh tế đại diện tích cực nhất cho thay đổi và phát triển.

Trong khi tôi tích lũy sự ủng hộ nhằm tái thiết nền kinh tế và cải cách chăm sóc sức khỏe thì những người Cộng hòa cũng tích cực làm việc nhằm xô đổ tôi. Tổng thống Bush trong bài phát biểu tại đại hội đã kết tội tôi đã tăng thuế 128 lần ở Arkansas và lần nào cũng rất vui sướng. Đầu tháng 9, chiến dịch tranh cử của Bush lặp đi lặp lại lời buộc tội đó, mặc dù tờ New York Times đã nói lời buộc tội này là "sai sự thật", tờ Washington Post gọi đó là "phóng đại" quá mức và "vớ vẩn", và ngay cả tờ Wall Street Journal cũng nói đó là "(lời buộc tội) gây lầm lẫn". Danh sách các loại thuế Bush nói tôi từng tăng tính luôn cả quy định các cơ sở bán xe hơi second-hand nộp 25.000 đôla tiền bảo chứng, một số khoản lệ phí khiêm tốn đối với các cuộc thi hoa hậu, và một đôla tiền phí toà án đối với những tội phạm bị kết án. Tay viết bảo thủ George Will nói rằng nếu theo tiêu chí của tổng thống thì "Bush đã tăng thuế trong bốn năm nhiều hơn Clinton trong 10 năm".

Chiến dịch tranh cử của Bush dành hầu hết những ngày còn lại của tháng 9 để tấn công tôi về vụ quân dịch. Tổng thống Bush nói đi nói lại rằng tôi nên "nói thật" về chuyện này. Ngay cả Dan Quayle cũng thấy thoải mái mà tấn công tôi, bất chấp một điều rằng nhờ quen biết gia đình mà ông ấy được gia nhập Vệ binh quốc gia để khỏi phải đi chiến trường Việt Nam. Ý của Phó tổng thống dường như muôn nói rằng báo chí đã không soi mói kỹ lưỡng trường hợp của tôi như từng soi mói ông ấy bốn năm trước. Rõ ràng ông ấy đã không theo dõi tin tức từ hồi bầu sơ bộ ở New Hampshire và New York.

Tôi cũng được giúp đỡ trong cuộc phản công lại vụ quân dịch. Đầu tháng 9, Thượng nghị sĩ Bob Kerrey, đối thủ ở vòng sơ bộ từng được Huân chương Danh dự của tôi tuyên bố không nên coi chuyên quân dịch của tôi là vấn đề gì quan trọng. Sau đó vào ngày 18, ở bãi cỏ sau dinh thống đốc ở Arkansas, tôi nhận được sự ủng hộ của đô đốc Bill Crowe, người đã từng là chủ tịch của Hội đồng Tham mưu Liên quân dưới thời Tổng thống Reagan và một thời gian ngắn dưới thời Bush. Tôi rất ấn tượng trước thái độ thẳng thắn và thân thiện của Crowe, và tôi rất biết ơn ông ấy vì đã ủng hộ một người mà ông biết rất ít nhưng tin tưởng.

Tác động chính trị của những việc Bush và tôi làm là khó mà đoán chắc. Uy thế từ sau đại hội Cộng hòa của ông ấy bắt đầu giảm bớt đi chút ít, nhưng trong suốt tháng 9, các cuộc trưng cầu cho thấy khoảng cách giữa chúng tôi dao động giữa 9 và 20% nghiêng về phía tôi. Động lực căn bản của cuộc tranh cử đã được thiết lập: Bush tuyên bố ủng hộ các giá trị gia đình và lòng trung thành, còn tôi ủng hộ các thay đổi về kinh tế và xã hội. Ông ấy nói tôi không đáng tin và chống gia đình, trong khi tôi nói ông ấy đang chia rẽ nước Mỹ và kìm giữ chúng ta phát triển. Hầu như bất cứ ngày nào, các cuộc trứng cầu cũng cho thấy có một số lớn cử tri vẫn phân vân không biết ai là ứng viên tốt hơn trong hai chúng tôi.

Bên cạnh những vấn đề đang tranh luận, chúng tôi dành tháng 9 để tranh cãi về cách tổ chức các buổi tranh luận chính thức, ủy ban quốc gia của hai đảng đề nghị ba buổi thảo luận với các hình thức khác nhau. Tôi chấp nhận ngay lập tức, nhưng Tổng thống Bush không thích các hình thức tranh luận mà ủy ban đưa ra. Tôi tuyên bố lời từ chối của ông ấy là một lá bài bóng bẩy che giấu thái độ miễn cưỡng lưỡng lự của ông ấy đứng ra bảo vệ quá trình làm việc của mình. Hai bên vẫn không đồng thuận được với nhau kéo dài đến suốt tháng và bắt buộc cả ba buổi thảo luận đã được lên kế hoạch phải bị hủy bỏ. Thế là, tôi đến từng điểm dự định tổ chức thảo luận để vận động, đảm bảo rằng các công dân đang thất vọng biết ai là người tước đi cơ hội thành phố của họ được cả nước chú ý.

Điều tồi tệ nhất xảy ra cho chúng tôi vào tháng 9 lại là chuyện cá nhân hơn chính trị. Paul Tully, nhà tổ chức kỳ cựu gốc Ireland mà Ron Brown gửi đến Little Rock để điều phối hợp tác của đảng Dân chủ với nỗ lực của chúng tôi, bỗng nhiên đột tử trong phòng khách sạn của anh. Tully mới chỉ hơn 48 tuổi, một người theo trường phái chính trị cũ và là một người tốt mà càng ngày chúng tôi càng thấy khâm phục và phụ thuộc vào anh. Ngay khi chúng tôi sắp bước vào chặng đua cuối cùng, một lãnh đạo nữa trong nhóm chúng tôi đã ra đi.

Tháng 9 kết thúc với một số diễn biến đáng ngạc nhiên. Earvin "Magic" Johnson, cầu thủ bóng rổ bị nhiễm HIV của đội Los Angeles Lakers, bất ngờ từ chức trong ủy ban Quốc gia về HIV/AIDS và ủng hộ tôi vì thấy kinh tởm trước thái độ thiếu quan tâm cũng như không hành động của chính quyền trước vấn đề AIDS. Tổng thống Bush đổi ý về các buổi tranh luận và thách tôi tham gia bốn buổi tranh luận. Và ngạc nhiên nhất là Ross Perot nói ông ấy đang nghĩ đến việc tái tham gia cuộc đua bởi vì ông ấy nghĩ cả tôi lẫn Tổng thống Bush đều không có những kế hoạch nghiêm túc để cắt giảm thâm hụt. Ông ấy chỉ trích Tổng thống Bush vì đã hứa không tăng thuế và nói tôi muốn xài thêm quá nhiều tiền. Perot mời cả hai chiến dịch vận động cử đoàn đại biểu đến gặp ông và bàn về vấn đề này.

Bởi vì không ai trong chúng tôi biết rõ ai sẽ bị thương tổn nhiều hơn nếu Perot tham gia, và cả hai đều muốn được ông ấy ủng hộ nếu ông ấy không tham gia, nên mỗi chiến dịch cử một đoàn rất cao cấp đến gặp ông ấy. Bên chúng tôi thấy không thoải mái về chuyện này vì chúng tôi nghĩ ông ấy đã quyết định tranh cử và đây chỉ là một màn kịch để tăng uy tín của ông ấy, nhưng cuối cùng tôi đồng ý rằng chúng tôi cần phải kết thân ông ấy. Thượng nghị sĩ Lloyd Bentsen, Mickey Kantor và Vernon Jordan đi thay tôi. Họ được đón tiếp thân mật và phái đoàn của Bush cũng thế. Perot tuyên bố ông đã học được nhiều điều từ hai nhóm. Sau đó vài ngày, ngày 1 tháng 10, Perot tuyên bố rằng ông cảm thấy buộc lòng phải quay lại cuộc đua với tư cách "người phục vụ" cho các tình nguyện viên của ông. Việc bỏ cuộc hồi tháng 7 thuận lợi cho ông ấy. Trong 10 tuần ông đã ở bên ngoài cuộc đua, dân chúng đã dần quên đi những ký ức về trận chiến lập dị giữa ông với Bush mùa xuân trước, trong khi tôi và tổng thống làm cho các rắc rối của nhau vẫn tươi mới trong tâm trí công chúng. Bây giờ các cử tri và báo chí sẽ đón nhận ông ấy nghiêm túc hơn vì cả hai chúng tôi đã ra mặt ve vãn lấy lòng ông ấy.

Trong khi Perot quay lại thì cuối cùng chúng tôi cũng đạt được thỏa thuận với người của Bush về các cuộc tranh luận. Có ba cuộc, cộng thêm một lần tranh luận của ứng viên phó tổng thống, tất cả nhồi nhét trong chín ngày, giữa ngày 11 và 19 tháng 11. Trong lần tranh luận thứ nhất và thứ ba, các thành viên báo chí sẽ đặt câu hỏi cho chúng tôi. Buổi thứ hai sẽ là một cuộc họp với dân, các công dân có thể đặt câu hỏi. Lúc đầu, người của Bush không muốn có Perot trong các buổi tranh luận, bởi vì họ nghĩ ông ấy có thể tấn công tổng thống, và bất cứ lá phiếu thêm nào mà ông ấy thu được có thể là từ những ủng hộ viên tiềm năng của Bush nhiều hơn từ những người ủng hộ tôi. Tôi nói tôi không phản đối sự có mặt của Perot nhưng khòng phải vì tôi đồng ý rằng Perot có thể làm Bush bị tổn thương hơn - tôi không nhìn thấy khả năng ấy - mà bởi vì tôi cảm thấy đằng nào ông ấy cũng tham gia và tôi không muốn mình tỏ ra hèn nhát. Đến ngày 4 tháng 10, cả hai chiến dịch đồng ý mời Perot tham gia.

Vào tuần lễ trước buổi tranh luận đầu tiên, cuối cùng tôi cũng ủng hộ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ - North American Free Trade Agreement (NAFTA) gây tranh cãi mà chính quyền Bush đã đàm phán với Canada và Mexico, và nói trước rằng tôi muốn thương thảo thêm các thỏa thuận đi kèm để bảo đảm các tiêu chuẩn cơ bản về lao động và môi trường có hiệu lực chế tài hơn đối với Mexico. Giới nghiệp đoàn ủng hộ viên của tôi lo ngại sẽ mất công ăn việc làm trong các nhà máy lương thấp vào tay người láng giềng phía nam và phản đối dữ dội quan điểm này của tôi, nhưng tôi buộc phải như vậy vì lý do kinh tế lẫn chính trị. Trong thâm tâm, tôi là người ủng hộ tự do thương mại, và tôi nghĩ nước Mỹ nên ủng hộ tăng trưởng kinh tế của Mexico để đảm bảo sự ổn định lâu dài ở bán cầu của chúng ta. Vài ngày sau, hơn 550 nhà kinh tế, trong đó có 9 người đoạt giải Nobel, tuyên bố ủng hộ chương trình kinh tế của tôi, họ nói rằng kế hoạch này có nhiều khả năng hồi phục tăng trưởng kinh tế hơn đề nghị của Tổng thống Bush.

Cũng như tôi đã quyết sẽ tập trung vào kinh tế trong thời gian chuẩn bị tranh luận thì nhóm của Bush cũng quyết tâm tương tự sẽ hạ thấp nhân cách và sự thành thật của tôi. Họ đưa ra yêu cầu cho Trung tâm Lưu trữ Hồ sơ Quốc gia để tìm lại tất cả những thông tin trong hồ sơ hộ chiếu của tôi trong chuyến đi 40 ngày đến châu Âu, Liên Xô, và Tiệp Khắc hồi những năm 1969-1970. Rõ ràng họ đang chạy theo lời đồn ngụy tạo rằng tôi đã đến Moscow để tìm gặp những nhà hoạt động phản chiến hoặc đã thử nộp đơn nhập tịch sang nước khác để trốn quân dịch. Ngày 5 tháng 10, có vài bài báo cho biết hồ sơ có chỗ nhập nhèm, bôi xóa. Câu chuyện hộ chiếu kéo dài hết cả tháng. Mặc dù FBI nói hồ sơ không bị bôi xóa, nhưng những gì đã xảy ra làm cho chiến dịch tranh cử của Bush mất đi thiện cảm. Một quan chức cao cấp được Bush bổ nhiệm ở Bộ Ngoại giao đã thúc giục Trung tâm Lưu trữ Hồ sơ Quốc gia, nơi có hơn 100 triệu hồ sơ, tìm hiểu hồ sơ của tôi trước 2.000 hồ sơ khác đã nộp trước, và thường thì phải mất hàng tháng mới làm xong. Một người được Bush bổ nhiệm cũng ra lệnh cho các đại sứ quán ở London và Oslo thực hiện một cuộc nghiên cứu "đặc biệt kỹ lưỡng" trong các hồ sơ của họ để tìm thông tin về tình trạng quân dịch và quốc tịch của tôi. Có lúc, thậm chí hồ sơ hộ chiếu của mẹ tôi cũng được kiểm tra. Thật khó mà hình dung ra rằng ngay cả những kẻ cánh hữu dù có hoang tưởng đến đâu lại có thể nghĩ rằng một cô gái quê ở Arkansas mê đua ngựa lại có thể trở thành phần tử chống đối đến thế.

Sau này hóa ra người của Bush còn yêu cầu cả chính phủ của John Major tìm hiểu những hoạt động của tôi ở Anh. Theo các bài báo, đảng Bảo thủ Anh đã thu thập thông tin, dù họ tuyên bố cuộc nghiên cứu "đầy đủ" nhưng không kết quả trong hồ sơ tài liệu nhập cư và quốc tịch của họ là để đáp ứng yêu cầu của báo chí. Tôi biết họ còn làm một số việc khác xa hơn nữa vì một người bạn của David Edwards nói với anh rằng các quan chức Anh đã hỏi anh xem tôi và anh đã làm gì trong thời xa xưa đó. Hai nhà chiến lược tranh cử của đảng Bảo thủ đã đến Washington để cố vấn cho chiến dịch của Bush làm thế nào để tiêu diệt tôi theo cách đảng Bảo thủ đã làm với lãnh tụ của Công đảng Anh là Neil Kinnock sáu tháng trước. Sau cuộc bầu cử, báo chí Anh lo lắng mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước có thể bị ảnh hưởng vì sự dính líu khác thường của Anh vào chính trị Mỹ. Tôi quyết sẽ không để xảy ra tổn hại gì, nhưng tôi cũng muốn để đảng Bảo thủ lo lắng một chút về chuyện này.

Báo chí có một ngày sôi động vì vụ chơi khăm hộ chiếu, và AI Gore gọi đó là "sự lạm dụng quyền lực kiểu McCarthy". Không nản lòng, tổng thống vẫn tiếp tục yêu cầu tôi giải thích chuyến đi Moscow và hỏi về lòng yêu nước của tôi. Trong cuộc phỏng vấn với Larry King trên CNN, tôi nói tôi yêu đất nước tôi và chưa bao giờ nghĩ đến chuyên rời bỏ quốc tịch Mỹ của mình. Tôi không nghĩ công chúng sẽ quan tâm nhiều đến sự kiện hộ chiếu theo cách này hay cách khác, và tôi cũng thấy thú vị trước toàn bộ chuyện này. Tất nhiên đó là việc lạm dụng quyền lực, nhưng so với vụ Iran-Contra thì mức độ lạm dụng ít hơn nhiều. Nó chỉ cho thấy người của Bush đã tuyệt vọng đến mức nào trong việc níu kéo quyền lực, và họ có quá ít thứ để đem lại cho tương lai của nước Mỹ. Nếu họ muốn dành tháng cuối cùng của cuộc vận động chỉ để sủa vào khoảng không thì với tôi cũng không sao.

Trong những ngày dẫn đến buổi tranh luận đầu tiên, tôi làm việc cật lực để chuẩn bị cho tốt. Tôi chăm chỉ nghiên cứu các bản tóm lược đề cương và tham gia vào vài cuộc tranh luận thử. Luật sư ở Washington Bob Barnett đóng vai Tổng thống Bush, bốn năm trước anh cũng đóng vai Dukakis. Vai của Ross do Nghị sĩ của Oklahoma là Mike Synar đóng, anh rất rành giọng nói và các câu phát biểu của Ross. Bob và Mike quần tôi mệt lử trong các buổi tranh luận thử này. Sau mỗi lần tập dượt, tôi lấy làm mừng là không phải tranh luận với họ; cuộc bầu cử có thể chuyển theo hướng khác hoàn toàn.

Cuối cùng buổi tranh luận đầu tiên được tổ chức vào ngày chủ nhật, 11 tháng 11, vào đúng ngày kỷ niệm 17 năm ngày cưới của tôi và Hillary, ở trường Đại học Washington ở St. Louise. Tôi tham dự với tâm trạng được khuyến khích bởi sự ủng hộ trong bản tin buổi sáng của tờ Washington Post và Louisville Courier-]ournal. Tờ Post nói: "Đất nước này đang trồi sụt và hao mòn; nó đang rất cần nạp lại năng lượng và hướng đi mới. Bill Clinton là ứng viên duy nhất có cơ hội làm điều đó". Đó cũng chính là ý kiến tôi muốn đem đến buổi tranh luận. Nhưng bất chấp vị trí dẫn đầu của tôi trong các cuộc trưng cầu dân ý và sự ủng hộ của tờ Post, tôi vẫn lo lắng vì tôi biết tôi có nhiều thứ để mất nhất. Trong cuộc trưng cầu Gallup mới, 44% số người được hỏi đã nói họ mong chờ tôi thắng trong cuộc tranh luận, và 30% nói họ có thể dao động vì kết quả của nó. Tổng thống Bush và các cô vân đã quyết định cách duy nhât kiểm soát số 30% đó là phải in sâu vào trong đầu mọi người cái gọi là "các vấn đề phẩm cách" của tôi cho đến khi nó thấm vào hoàn toàn. Bây giờ, cộng thêm vụ quân dịch, chuyến đi Moscow, và lời đồn về quốc tịch, tổng thống tấn công tôi vì đã tham gia biểu tình phản chiến ở London "chống lại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, khi con cái chúng ta đang chết trận ở cách nửa vòng trái đất".

Perot nhận được câu hỏi đầu tiên của một trong ba phóng viên luân phiên nhau hỏi theo sự điều khiển của Jim Lehrer của chương trình The MacNeil/Leỉirer NeivsHour. Ông ấy có hai phút để nói về những điều khiến ông khác với hai ứng cử viên khác. Ross nói ông được sự ủng hộ của nhân dân, không phải của đảng phái hay nhóm đặc quyền nào. Bush và tôi có một phút để đáp lại. Tôi nói tôi đại diện cho thay đổi. Tổng thống nói ông ấy có kinh nghiệm. Sau đó chúng tôi tranh luận về kinh nghiệm, và Tổng thống Bush như được trao cờ vào tay để phất: "Có vấn đề quan trọng nào về phẩm chất cá nhân khiến ông khác với hai người này không?". Ông ta tấn công tôi về vụ quân dịch. Perot đáp lại rằng Bush phạm sai lầm khi đã là một người đàn ông trưởng thành ở Nhà Trắng, chứ không phải khi còn là một sinh viên trẻ. Tôi nói cha của Bush, với tư cách là Thượng nghị sĩ Mỹ ở Connecticut đã đúng khi chỉ trích Thượng nghị sĩ Joe McCarthy vì nghi ngờ lòng yêu nước của những người Mỹ trung thành, và tổng thống đã sai khi nghi ngờ lòng yêu nước của tôi, và rằng điều nước Mỹ cần là một tổng thống có thể đoàn kết đất nước lại chứ không phải chia rẽ nó.

Chúng tôi tiếp tục như vậy trong khoảng một tiếng rưỡi, tranh luận về thuế, quốc phòng, thâm hụt ngân sách, công ăn việc làm và thay đổi kinh tế, chính sách ngoại giao, tội phạm, Bosnia, định nghĩa về gia đình, việc hợp pháp hóa cần sa, chia rẽ sắc tộc, AIDS, chương trình Medicare và cải cách y tế.

Tất cả chúng tôi đều tranh luận khá hay. Sau cuộc tranh luận, các tay "quân sư" bắt đầu bám lấy báo giới nhằm phân tích cho thấy người của họ đã thắng cuộc tranh luận. Các "quân sư" của tôi là Mario Cuomo, James Carville và Thượng nghị sĩ Bill Bradley. Một trong những "quân sư" cho Tổng thống Bush là Charlie Black đã mời báo chí đến xem một quảng cáo mới trên tivi tấn công tôi về vụ quân dịch. Những "quân sư" này có thể gây ra một chút ảnh hưởrìg đến cách đưa tin của báo chí về cuộc tranh luận, nhưng những ai đã xem nó hẳn đã có ý kiến của riêng mình.

Tôi thì cho rằng, nhìn chung, tôi đã đưa ra câu trả lời tốt nhất về mặt cụ thể và lập luận, nhưng Perot làm tốt hơn khi thể hiện mình là một người dân dã và thoải mái. Khi Bush nói Perot không có kinh nghiêm điều hành chính phủ, Perot bảo tổng thống "có lý. Tôi không có bất cứ kinh nghiệm nào trong việc gây ra khoản nợ đến 4.000 tỷ đôla". Perot có đôi tai vểnh to, càng nổi bật hơn bởi kiểu tóc cắt cao nhà binh, về thâm hụt, ông nói: "Chúng ta phải thu thêm thuế" để giảm thâm hụt, nhưng bất cứ ai có ý kiến gì hay hơn, "thì tôi sẵn sàng lắng nghe". Ngược lại, tôi hơi cứng nhắc quá đôi khi tỏ ra chuẩn bị quá kỹ.

Tin tức tốt lành là tổng thống không lấn thêm được gì. Tin xấu là Perot lại có vẻ đáng tin cậy. Lúc ban đầu, nếu ông ấy dẫn trước trong các cuộc trưng cầu thì sự ủng hộ của ông ấy đến từ những cử tri thực sự chưa quyết định hoặc những người nghiêng về cả tổng thống lẫn tôi. Nhưng tôi biết rõ rằng nếu Ross vươn lên hơn 10%, thì hầu hết các cử tri mới của ông ấy sẽ là những người muốn thay đổi nhưng vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn với tôi. Các cuộc thăm dò sau buổi tranh luận cho thấy trong số những người quan sát, một số đáng kể bây giờ tin tưởng hơn nữa vào khả năng làm tổng thống của tôi. Chúng cũng cho thấy rằng hơn 60% số người quan sát dành nhiều thiện cảm cho Perot hơn trước cuộc tranh luận. Với thời gian còn lại chỉ ba tuần nữa, ông ấy sẽ làm cho cuộc đua trở nên khó đoán trước.

Hai đêm sau, ngày 13 tháng 10, trong cuộc tranh luận phó tổng thống ở Atlanta, Al Gore rõ ràng làm tốt hơn Dan Quayle. Người đứng chung liên danh tranh cử của Perot, đô đốc về hưu James Stockdale, cũng dễ chịu nhưng không nổi bật, và cách thể hiện của ông đã làm giảm đà tiến mà Perot có được sau buổi tranh luận ở St.Louise. Quayle rất hiệu quả khi vẫn giữ lại thông điệp: Clinton muốn tăng thuế và Bush thì không; Clinton không có nhân cách còn Bush thì có. Ông ta lặp lại một trong những bình luận công khai tồi tệ nhất của tôi. Đầu năm 1991, sau khi quốc hội trao quyền cho Tổng thông Bush tấn công Iraq, tôi được hỏi nếu là tôi thì sẽ bỏ phiếu thế nào. Tôi ủng hộ giải pháp đó, nhưng tôi lại trả lời: "Tôi nghĩ mình chắc sẽ bỏ phiếu theo đa số nếu tỷ lệ chống và ủng hộ sát nút nhau. Nhưng tôi đồng ý với lập luận của thiểu số. Lúc đó tôi không nghĩ sẽ tranh cử tổng thống vào năm 1992. Cả hai thượng nghị sĩ Arkansas bỏ phiếu chống việc ủy quyền phát động chiến tranh. Họ là bạn tôi và tôi không muốn làm họ mất mặt trước công chúng. Khi tôi tham gia cuộc đua, lời bình luận này có vẻ đãi bôi và bẻm mép quá. Chiến thuật của Al là ngắn gọn phản công lại các cuộc tấn công của Quayle và tiếp tục nói về kế hoạch tích cực của chúng tôi cho nước Mỹ. Những câu hay nhất của anh là lời đáp trả việc Quayle ủng hộ quy định giới hạn nhiệm kỳ các thành viên quốc hội, một lý do ưa thích của phe bảo thủ: "Thì chúng tôi đang cố để giới hạn nhiệm kỳ của một người đây mà". (Theo luật định, Phó tổng thống Mỹ kiêm chức chủ tịch Thượng viện. Ở đây Al Gore ám chỉ là đang cố chấm dứt nhiệm kỳ của Quayle - ND)

Hai đêm sau, ngày 15 tháng 10, chúng tôi có buổi tranh luận thứ hai ở Richmond, Virginia. Đây là buổi tôi muốn, một buổi gặp gỡ dân chúng tại tòa thị chính nơi chúng tôi được đại diện địa phương của các cử tri còn do dự đặt câu hỏi.

Mối lo lắng lớn nhất của tôi lần này là giọng nói của mình. Giọng tôi đã tệ đến mức từ ngay trước buổi tranh luận đầu tiên tôi hầu như chỉ có thể thì thào được. Khi bị mất giọng trong kỳ bầu cử sơ bộ, tôi đã đến gặp một chuyên gia ở New York và gặp một huấn luyện viên giọng nói, anh đã dạy tôi một loạt bài tập để mở rộng họng và đẩy âm thanh qua vòm mũi. Các bài tập này bao gồm hát ngân nga; hát các cặp nguyên âm, dồn hơi vào trong, luôn bắt đầu bằng nguyên âm e như e-i, e-o, e-a; và lặp lại những câu nói nhất định để có cảm giác đẩy hơi thông qua những dây thanh bị tổn thương. Câu yêu thích của tôi là "Abraham Lincoln là nhà hùng biện vĩ đại". Bất cứ khi nào nói đến câu đó, tôi nghĩ về giọng nói cao gần như the thé của Lincoln, và sự thực là ít ra ông ấy rất khôn ngoan không để mất giọng. Khi tôi bị mất giọng, rất nhiều nhân viên trẻ tuổi vui vẻ chọc quê tôi bằng cách hát ngân nga các bài tập luyện giọng. Như vậy cũng vui, nhưng việc mất giọng thì chẳng vui chút nào. Một chính trị gia mà thiếu giọng thì không có giá trị gì. Khi bạn bị mất giọng liên tục thì thật đáng sợ, bởi vì luôn lơ lửng một nỗi sợ nó sẽ không quay lại. Lần đầu bị mất giọng tôi nghĩ là do bệnh dị ứng gây ra. Sau đó tôi được biết là do trào ngược acid, một trạng thái khá phổ biến khi acid trong dạ dày trào ngược lên thực quản và làm bỏng dây thanh, thường xảy ra trong lúc ngủ. Sau này lúc tôi bắt đầu tập thiền và lúc ngủ kê cao đầu và vai thì đỡ hơn phần nào. Đêm trước ngày thảo luận thứ hai tôi vẫn vật lộn với căn bệnh này.

Carole Simpson của ABC News mở màn buổi tranh luận bằng các câu hỏi từ phía cử tọa. Câu đầu tiên dành cho Ross Perot là làm thế nào duy trì sự công bằng trong thương mại. Ông ấy đưa ra câu trả lời chống thương mại. Tổng thống trả lời ủng hộ thương mại. Tôi nói tôi ủng hộ thương mại tự do và công bằng, và chúng ta cần làm ba việc: bảo đảm thị trường của các đối tác thương mại của chúng ta cũng cởi mở như thị trường của chúng ta; thay đổi mã thuế để hiện đại hóa các cơ sở sản xuất trong nước thay vì chuyển chúng ra nước ngoài; và ngừng cho vay lãi suất thấp và trợ cấp dạy nghề cho các công ty chuyển ra nước ngoài khi chúng ta không hỗ trợ tương tự cho các công ty cần hơn trong nước.

Sau thương mại, chúng tôi chuyển sang thâm hụt ngân sách, rồi đến chuyện vận động nhắm vào khía cạnh tiêu cực của nhau. Bush lại đập tôi về chuyện tham gia biểu tình chống chiến tranh Việt Nam ở Anh. Tôi đáp lại: "Tôi không quan tâm đến tính cách của ông ấy. Tôi chỉ muốn thay đổi phẩm cách của vị trí tổng thống. Và chỉ tôi quan tâm vào việc chúng ta có thể trông cậy ông ấy thực hiện gì trong bốn năm tới, so với những gì bạn có thể trông cậy vào tôi hoặc ông Perot thực hiện".

Kế đến, chúng tôi tranh luận về hàng loạt vấn đề - các thành phố, đường cao tốc, kiểm soát súng, giới hạn nhiệm kỳ, và chi phí y tế. Và lúc này xuất hiện một câu hỏi làm thay đổi cục diện cuộc tranh luận. Một phụ nữ hỏi: "Nợ quốc gia ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân của quí vị như thê nào? Nếu không bị ảnh hưởng thì làm sao các vị có thể thực sự tìm ra giải pháp cho các vấn đề kinh tế của những người bình thường nếu quí vị không có kinh nghiệm về những gì đang làm họ phiền não?". Perot trả lời trước rằng món nợ khiến ông phải "ngắt quãng cuộc sống riêng tư và công việc kinh doanh để tham gia vào hoạt động ngày hôm nay". Ông nói ông muốn giảm nhẹ gánh nặng nợ nần trên vai con cháu của ông. Bush thì khổ sở tìm cách trả lời xem cuộc sống cá nhân của ông đã bị ảnh hưởng thế nào. Người hỏi tiếp tục truy ông, bà nói bà có những người bạn bị sa thải, họ không thể trả tiền nhà và tiền thuê xe. Lúc đó, thật lạ lùng, Bush bắt đầu nói gì đó về chuyện ông từng đến nhà thờ của người da đen và đọc trong bản tin về tình trạng có thai ở tuổi vị thành niên. Cuối cùng ông cũng nói rằng thật không công bằng khi nói bạn không biết gì về một vấn đề nếu bạn không gặp phải vấn đề ấy. Khi đến lượt tôi, tôi nói tôi đã làm thống đốc của một bang nhỏ được 12 năm. Tôi biết cả tên những người bị mất việc và thất bại trong kinh doanh. Năm ngoái tôi còn gặp nhiều hơn nữa khắp đất nước. Tôi đã điều hành chính quyền tiểu bang và đã thấy những hậu quả đối với con người của việc cắt giảm các dịch vụ liên bang. Sau đó tôi nói với người đặt câu hỏi rằng nợ nần là vấn đề rất lớn, nhưng lý do không chỉ là vì chúng ta không tăng trưởng: "Chúng ta đang bị kìm hãm bởi một lý thuyết kinh tế thất bại". Trong lúc này, Tổng thống Bush tự hại mình khi lo lắng nhìn xuống đồng hồ đeo tay. Cử chỉ này làm cho ông có vẻ xa cách hơn nữa. Mặc dù chúng tôi còn tiếp tục chuyển sang vấn đề khác như an sinh xã hội, hưu trí, chương trình Medicare, trách nhiệm siêu cường của nước Mỹ, giáo dục và khả năng của người Mỹ gốc Phi hay phụ nữ được bầu chọn làm tổng thống, cuộc tranh luận về cơ bản đã kết thúc sau các câu trả lời của chúng tôi cho câu hỏi của người phụ nữ về tác động của các khoản nợ lên cuộc sống riêng của chúng tôi.

Tổng thống Bush tỏ ra hiệu quả trong tuyên bố kết thúc cuộc tranh luận bằng cách yêu cầu cử tọa nghĩ xem họ muốn ai trở thành tổng thống nếu đất nước phải đối diện với một khủng khoảng trầm trọng. Perot nói rất hay về giáo dục, thâm hụt ngân sách, và về việc ông ấy phải nộp thuế hơn một tỷ đôla, "và đối với một người khởi nghiệp chỉ với số tài sản bỏ lọt trong thùng xe, như vậy quả không tệ chút nào". Tôi bắt đầu bằng cách nói rằng tôi đã cố gắng trả lời các câu hỏi "một cách cụ thể và thẳng thắn". Tôi nhân mạnh các chương trình của Arkansas trong giáo dục và nghề nghiệp và sự ủng hộ tôi có được từ 24 tướng về hưu, đô đốc và một vài doanh nhân phe Cộng hòa. Sau đó tôi nói: "Bạn phải quyết định bạn có muốn thay đổi hay không". Tôi thúc giục họ giúp tôi thay thế kiểu kinh tế "dần tuột dốc" bằng thái độ kinh tế "đầu tư để phát triển".

Tôi rất thích buổi tranh luận thứ hai. Trong bất cứ câu hỏi nào dành cho tôi, hầu hết các cử tri đều thực sự muốn biết về những điều ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Cuộc trưng cầu sau buổi thảo luận của CBS News trên 1.145 cử tri cho thấy 53% nghĩ rằng tôi đã chiến thắng, so với 25% cho Bush và 21% cho Perot. Năm chuyên gia về tranh luận trả lời phỏng vấn của hãng tin AP nói rằng tôi thắng, dựa vào phong cách, tính cụ thể, và mức độ thoải mái thấy rõ của tôi trước hình thức tranh luận mà tôi đã quen trong suốt cuộc vận động, và trước dó từ rất lâu ở Arkansas. Tôi thích tiếp xúc trực tiếp với các công dân, và tôi tin tưởng vào những nhận định không bị gọt giũa bớt đi của họ.

Trong lúc chúng tôi chờ cuộc tranh luận thứ ba, cuộc trưng cầu của CNN/USA Today cho thấy tôi lại dẫn đầu với 15 điểm, 47% so với 32% cho Bush và 15% cho Perot.

Tôi và Hillary đến Ypsilanti một ngày cùng các nhân viên để chuẩn bị cho buổi tranh luận cuối cùng ở khuôn viên trường Đại học Michigan ở East Lansing. Cũng như đã làm hai kỳ tranh luận trước, Bob Barnett và Mike Synar lại tập dợt cho tôi. Tôi biết đây là lần khó nhằn nhất đối với tôi. Tổng thống Bush là người cứng cỏi và kiêu hãnh, cuối cùng sẽ chiến đấu thật dữ dằn để giữ vị trí của mình. Và tôi biết chắc, không sớm thì muộn, Perot củng quay sang công kích tôi.

Hơn 90 triệu người theo dõi cuộc tranh luận cuối cùng vào ngày 19 tháng 10, con số khán giả lớn nhất chúng tôi từng thu hút. Một nửa thời gian chúng tôi được Jim Lehrer hỏi, nửa thời gian còn lại là của nhóm phóng viên. Đây là lần trình diễn tốt nhất của Bush. Ông ta kết án tôi là người cấp tiến chuyên "tăng thuế để chi xài", một bản sao của Jimmy Carter, và một người do dự không thể quyết định rõ ràng, về chuyện do dự, tôi đã phản pháo rất tốt: "Tôi không thể tin dược ông ta lại lên án tôi là người ba phải. Chính ông ấy từng nói "kiểu kinh tế nâng đỡ các công ty là kiểu làm kinh tế bùa phép, vậy mà bây giờ ông ấy là người thực hành tích cực nhất". Khi ông công kích nền kinh tế của Arkansas, tôi trả lời rằng Arkansas luôn luôn là một bang nghèo, nhưng năm ngoái chúng tôi đứng đầu về tạo ra công ăn việc làm mới, đứng thứ tư về tỷ lệ tăng số việc làm trong ngành sản xuất hàng loạt, thứ tư về phần trăm tăng thu nhập cá nhân, và thứ tư về giảm nghèo, là bang có gánh nặng về thuế liên bang và địa phương thấp thứ hai trong cả nước: "Sự khác biệt giữa Arkansas và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là chúng tôi đi đúng hướng, còn đất nước chúng ta đang đi sai hướng". Tôi nói thay vì xin lỗi vì đã ký duyệt kế hoạch giảm thâm hụt với việc tăng thuế nhiên liệu, tổng thống lẽ ra nên biết sai lầm của ông ấy chính là khi nói "hãy nghe cho rõ đây" về thuế ngay từ đầu. Perot tấn công cả hai chúng tôi, nói rằng ông ấy lớn lên chỉ cách Arkansas năm dãy phố và kinh nghiệm làm thống đốc của tôi trong một bang nhỏ như vậy là "không tương ứng" với các quyết định mà một tổng thống phải đưa ra, và kết án Bush đã nói với Saddam Hussein rằng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ không phản ứng nếu Hussein muốn tấn công bắc Kuwait. Cả hai chúng tôi đều đập lại ông ta.

Phần hai buổi thảo luận là các câu hỏi của nhóm phóng viên. Nhìn chung, giông như buổi tranh luận đầu tiên, mọi việc diễn ra có phần được tổ chức trước nhiều hơn và kém hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, vẫn có những khoảnh khắc dành cho truyền hình. Helen Thomas của hãng tin UPI, phóng viên Nhà Trắng cao cấp hỏi tôi: "Nếu được làm lại, ông có đồng ý khoác bộ quân phục lên người không?". Tôi nói tôi có thể trả lời tốt hơn những câu hỏi về việc quân dịch, nhưng tôi vẫn nghĩ cuộc chiến tranh Việt Nam là một sai lầm. Sau đó tôi lưu ý rằng chúng ta đã có một số tổng thống giỏi mà không phải là cựu chiến binh như FDR, Wilson và Lincoln, người chống lại cuộc chiến tranh với Mexico. Khi tôi nói Bush từng làm báo giới chú ý trong buổi tranh luận đầu tiên khi ông ấy nói có thể chỉ định James Baker phụ trách chính sách kinh tế, nhưng tôi có thể làm báo giới chú ý bằng cách chỉ định chính tôi phụ trách chính sách kinh tế, Bush đã đáp lại: "Chính vì thê nên tôi mới lo đấy". Ba chúng tôi kết thúc buổi tranh luận bằng những tuyên bố kết thúc hiệu quả. Tôi cảm ơn mọi người đã theo dõi và lo lắng về đất nước, và nói một lần nữa rằng tôi không quan tâm đến ai một cách cá nhân. Tôi khen ngợi Ross Perot trong cuộc vận động tranh cử của ông và vì đã đưa ra vấn đề về thâm hụt. Và tôi nói về Tổng thống Bush, "Tôi coi trọng việc ông ấy đã phục vụ đất nước chúng ta, tôi đánh giá cao nỗ lực của ông ấy, và tôi chúc mọi điều tốt lành cho ông ấy. Tôi chỉ tin rằng đã đến lúc thay đổi... tôi biết chúng ta có thể làm tốt hơn".

Thật khó mà nói ai thắng trong cuộc tranh luận thứ ba. Tôi đã làm tốt khi bảo vệ Arkansas và quá trình làm việc của tôi, và tranh luận các vấn đề, nhưng có lẽ tôi đã quá kín kẽ trong các câu trả lời. Tôi đã thấy nhiều tổng thống đổi hướng xoấnh xoạch nên không muốn đưa ra các tuyên bố mang tính khái quát để rồi tự trói tay mình sau này. Với thế lưng dựa vào tường, Tổng thống Bush đã làm rất tốt tất cả mọi thứ trừ việc tấn công thành tích của tôi ở Arkansas; việc đó chỉ có tác dụng trong mẩu quảng cáo một chiều, khi mà các cử tri không được nghe thông tin xác thực. Ông ta cũng đã khá hơn khi đặt nghi vấn xem tôi sẽ là loại tổng thống thế nào, xoáy sâu vào nhận thức rằng phe Dân chủ thường yếu ngoại giao và thích tăng thuế, và nhắc nhở mọi người rằng thời mà một thống đốc Dân chủ miền nam cuối cùng được bầu là tổng thống là thời gian mức lãi suất và lạm phát cao. Perot thì khôn ngoan và thoải mái theo cách của mình, mà tôi nghĩ sẽ làm những người ủng hộ ông an lòng và có thể thu hút được một số cử tri chưa quyết định. Ba trong các cuộc trưng cầu sau buổi tranh luận cho thấy tôi đã thắng trong cuộc tranh luận, nhưng cuộc thăm dò của CNN/USA Today, cuộc thăm dò duy nhất cho thấy Perot là người chiến thắng, nói 12% đã thay đổi thiện cảm của họ với các ứng viên sau buổi tranh luận, hơn nửa số đó quay sang thích Perot.

Tuy nhiên, nhìn chung các cuộc tranh luận là rất tốt đối với tôi. Thêm nhiều người Mỹ nghĩ rằng tôi có khả năng để làm một tổng thống tốt, việc đưa ra quan điểm cho-và-nhận trong các vấn đề cho tôi cơ hội thúc đẩy những đề nghị tích cực của mình. Tôi ước sao chúng tôi được tranh luận thêm trong hai tuần nữa, nhưng chúng tôi đã phải bắt đầu bước vào chặng cuối, một cuộc đua khốc liệt đến càng nhiều bang càng tốt, với đầy rẫy những mẩu quảng cáo tiêu cực trên sóng truyền hình của các đối thủ của tôi, và cú bắn của tôi đập lại Bush dựa theo câu nói nổi tiếng của ông: "Hãy nghe cho rõ đây". Frank Geer và Mandy Grunwald đã lo những mẩu quảng cáo này rất tốt, và đội phản ứng nhanh của chúng tôi cũng trả lời các câu hỏi của họ rất hiệu quả, nhưng không hề giống như khi tất cả các ứng viên cùng ngồi trong một phòng. Bây giờ họ đang đuổi theo tôi, và tôi buộc phải bám chắc.

Ngày 21 tháng 10, cuộc vận động gặp một chuyện hài hước làm giảm căng thẳng chút ít khi Tổ chức Quí tộc Burke, cơ quan gia phả hàng đầu của Anh, cho hay cả Tổng thống Bush và tôi đều là hậu duệ của hoàng gia Anh thế kỷ 13 và là họ hàng xa với nhau, ít nhất là cách 20 nhánh gia đình. Ông tổ chung của chúng tôi là vua John. Bush là hậu duệ qua con của vua John là vua Henry III, nên ông ấy là anh em họ thứ 13 của Nữ hoàng Elizabeth. Thật là phù hợp, mối liên hệ hoàng tộc của tôi ít ấn tượng hơn và mang đầy vẻ dân chủ hơn. Dòng họ Blythe của tôi là hậu duệ của cả em gái Eleanor của vua Henry III và chồng bà, Simon de Montfort, lẫn Earl xứ Leicester, người từng đánh bại trận đức vua và buộc ông phải chấp nhận phần lớn nghị viện cho đến thời điểm đó. Năm 1265, đức vua phản bội lời hứa vinh danh nghị viện, dẫn đến trận chiến Evesham, nơi Simon tội nghiệp tử trận. Phát ngôn viên của tổ chức phả hệ Burke nói rằng thi thể của Simon "bị bằm ra nhiều mảnh, gửi đi khắp đất nước - một ngón tay đến làng này, một bàn chân đến thị trấn kia - để dân chúng thấy được kết cục của phe dân chủ". Nay thì gốc rễ của những sự khác biệt của tôi với tổng thống bắt nguồn hơn 700 năm trước đã rõ, tôi không thể trách chiến dịch tranh cử của ông ta vì đã trung thành với chiến thuật của tổ tiên họ được. Tổ chức phả hệ Burke cũng truy dấu dòng họ Blythe về đến làng Gotham, nơi mà theo truyền thuyết Anh là làng bị lời nguyền sinh ra những người điên. Tôi biết tôi hơi điên chút ít mới tranh cử tổng thống, nhưng tôi rất ghét nghĩ rằng đó là do di truyền.

Ngày 23 tháng 10, cuộc vận động của chúng tôi được động viên hơn nữa từ khu vực công nghệ cao khi lãnh đạo của hơn 30 công ty phần mềm vi tính, kể cả phó chủ tịch điều hành Microsoft Steve Ballmer, tuyên bố ủng hộ tôi. Nhưng như vậy vẫn chưa hết. Một tuần sau buổi tranh luận cuối cùng, cuộc thăm dò của CNN/USA Today cho thấy số điểm tôi dẫn tổng thống đã hạ xuống 7 điểm, 39% so với 32, còn Perot là 20%. Đúng như tôi đã lo sợ, các quảng cáo của Perot kèm theo là các cuộc tấn công của Bush nhằm vào tôi đã chuyển cử tri của tôi vào tay Perot. Ngày 26 tháng 10, khi đi vận động ở Bắc Carolina, Al Gore và tôi cố gắng giữ vững khoảng cách dẫn trước bằng cách chỉ trích chính quyền của Bush về vụ "Iraqgate", tức là việc chính phủ Mỹ hậu thuẫn rót tiền vào Iraq qua chi nhánh ở Atlanta của một ngân hàng do chính phủ Ý làm chủ. Bề ngoài thì khoản tín dụng này là cho nông nghiệp, nhưng nó được Saddam Hussein dùng để tái xây dựng quân đội và phục hồi chương trình vũ khí sau chiến tranh Iran-Iraq. Hai tỷ đôla tín dụng đó không bao giờ được trả lại, và người đóng thuế Mỹ phải gánh. Ngân hàng ở Atlanta bị buộc tội trong vụ lừa đảo này đã thương thuyết được một kế hoạch đào thoát hoàn hảo với văn phòng công tố Mỹ, mà, thật không thể tin được, đứng đầu văn phòng này là một người được Bush chỉ định, người đã đại diện cho quyền lợi của Iraq trong vụ chuyển đổi tín dụng ngay trước khi được bổ nhiệm, mặc dù anh ta đã nói anh ta đã kháng nghị để tránh một cuộc điều tra. Thời điểm tôi và Al đề cập đến vấn đề, FBI, CIA và Bộ Tư pháp đang điều tra lẫn nhau để tìm hiểu họ đã làm và không làm những gì trong vụ này. Đúng là một đống hỗn loạn, nhưng có lẽ nó quá phức tạp nên không thể ảnh hưởng đến các cử tri vào lúc muộn màng của cuộc vận động thế này.

Perot vẫn còn là một lá bài ẩn số. Ngày 29 tháng 10, một bản tin của Reuters viết: "Nếu Tổng thống George Bush tái đắc cử, ông ấy sẽ mang một món nợ ân nghĩa quan trọng đối với tỷ phú Texas miệng lưỡi cứng rắn, người không ưa ông ấy". Bài báo tiếp tục rằng các buổi tranh luận đã thay đổi hình ảnh của Perot, cho phép ông ấy nhân đôi sự ủng hộ, hầu hết lấy từ nhóm ủng hộ tôi, và lấy đi sự độc quyền mà tôi đã có về chủ đề "thay đổi". Cuộc thăm dò ngày hôm đó của CNN/USA Today cho thấy tôi chỉ còn dẫn trước 2 điểm, mặc dù năm cuộc thăm dò khác và cuộc thăm dò của Stan Greenberg của chúng tôi vẫn giữ mức cách biệt 7 đến 10 điểm. Bất kể con số như thế nào, cuộc đua vẫn không ổn định.

Vào tuần cuối cùng, tôi vận động cật lực. Tổng thống Bush cũng thế. Thứ năm, trong một cuộc tập hợp ở ngoại ô Michigan, ông ấy gọi tôi và Al Gore là "bozo", so sánh với anh hề Bozo, người có lẽ thấy sự so sánh này báng bổ hơn chúng tôi. Thứ sáu trước bầu cử, công tố viên đặc biệt điều tra vụ Iran-Contra Lawrence Walsh, một người Cộng hòa ở Oklahoma, buộc tội Bộ trưởng Quốc phòng của Tổng thống Reagan, Casper Weinberger, và 5 người khác. Lời buộc tội có đoạn viết rằng Tổng thống Bush đã đóng một vai trò quan trọng hơn trong vụ này và biết về các vụ bán vũ khí trái phép cho Iran do Nhà Trắng thời Reagan nắm quyền nhiều hơn trước đây ông ta đã thú nhận. Việc này có làm tổn thương ông ta hay không, tôi không biết; tôi quá bận bịu nên cũng không có thời gian nghĩ về chuyện ấy. Thật là khôi hài nếu so với những nỗ lực không ngừng mà chính quyền này đã bỏ ra để đào bới đống hồ sơ của tôi và những áp lực họ đã dùng, mà lúc ấy chúng tôi chưa biết, để bắt buộc công tố viên Hoa Kỳ ở Arkansas, một người được Bush chỉ định, để lôi tôi vào thất bại của quỹ Tín dụng Madison.

Trong dịp cuối tuần cuối cùng, Bush hướng tất cả hỏa lực ông thuê được trên phương tiện thông tin đại chúng nhằm vào tôi. Và Perot, tin rằng 30% sự ủng hộ cho tôi là "lỏng lẻo" và có thể chuyển sang ủng hộ ông ta vào phút chót, cuối cùng cũng tham gia. Ông ta chi 3 triệu đôla vào mẩu quảng cáo thông tin trong 30 phút, nhằm hạ nhục Arkansas. Ông ta nói nếu tôi thắng cử, "thì tất cả chúng ta sẽ như gà cồ ăn quẩn cối xay". Chương trình liệt kê 23 lĩnh vực mà Arkansas được xếp hạng gần chót trong tất cả các bang. Rõ ràng, ông ta không còn nghĩ rằng chuyên Arkansas không có liên hệ gì ở đây. Nhóm chúng tôi cãi nhau kịch liệt về chuyện liệu có nên phản pháo hay không. Hillary muốn tấn công Perot. Tôi nghĩ ít ra chúng tôi cũng phải bảo vệ Arkansas. Chúng tôi đã đi xa tới mức này nhờ không bao giờ im lặng trước bất cứ một cáo buộc nào. Trừ tôi ra, mọi người nghĩ rằng mấy cú đánh mới nhất này là quá ít, quá trễ, và chúng tôi chỉ cần cứ theo kế hoạch dự định. Tôi đồng ý một cách miễn cưỡng. Từ đầu đến giờ, nhóm của tôi đã luôn có lý về các vấn đề quan trọng, và tôi mệt mỏi hết sức và căng thẳng đến mức không còn tin rằng đánh giá của tôi sẽ có lý hơn của họ.

Tôi bắt đầu tuần tiếp theo bằng buổi sáng tập hợp ở trong sân bóng đầy nghẹt của một trường trung học ở Decatur, Georgia, bên ngoài Atlanta. Thống đốc Zell Miller, Thượng nghị sĩ Sam Nunn Nghị sĩ John Lewis và những người Dân chủ khác đã từng gắn bó với tôi từ đầu đều có mặt ở đó. Nhưng trung tâm chú ý là Hank Aaron, ngôi sao bóng chày đã từng phá kỷ lục của Babe Ruth năm 1974. Aaron là người hùng thực sự ở địa phương, không chỉ bởi thành tích trong bóng chày, mà còn bởi những hoạt động của ông dành cho tre em nghèo sau khi giải nghệ. Có 25.000 người tham dự buổi tập hợp ở Georgia. Ba ngày sau, tôi thắng ở Georgia chỉ với 13.000 phiếu. Từ đó trở đi, Hank Aaron thích đùa cợt tôi rằng chính ông ấy đã giao các lá phiếu cử tri ở Georgia bằng lần xuất hiện sáng thứ bảy hôm đó của mình. Dám như vậy thật lắm chứ!

Sau Georgia, tôi đi vận động ở Davenport, Iowa, sau đó bay đến Milwaukee, nơi tôi thực hiện buổi gặp dân ở tòa thị sảnh được truyền hình cuối cùng, và xuất hiện trên truyền hình lần cuối nhằm thúc giục mọi người đi bầu, và bầu ủng hộ sự thay đổi. Đêm chủ nhật, sau chặng dừng vận động ở Cincinnati và Scranton, quê nhà của dòng họ Rodham, chúng tôi bay đi New Jersey tham dự một buổi tập hợp lớn tại Meadowlands, một sự kiện âm nhạc nổi bật với các nhạc sĩ rock, jazz và đồng quê và các ngôi sao điện ảnh đang ủng hộ tôi. Lúc đó, tôi thổi kèn và nhảy với Hillary trước 15.000 người tại trường đua Garden State Park ở Cherry Hill, New Jersey, ở đó có một con ngựa đặt tên là Bubba Clinton, biệt hiệu mà em trai tôi đặt cho tôi từ hồi nhỏ, mới thắng trong cuộc đua với tỷ lệ cá cược 17-1. Tỷ lệ thắng cuộc của tôi lúc đó thì khá hơn, nhưng trước kia còn lớn hơn nhiều. Một người đàn ông đã cá 100 bảng Anh nếu tôi thắng vào tháng 4 với một nhà cái ở London trong khi tỷ lệ là 33 ăn 1 và đã kiếm được 5000 đôla. Không thể nói trước được chuyện gì nếu ông ta đặt cược vào đầu tháng 2 khi tôi đang bị tơi tả ở New Hampshire.

Hillary và tôi thức dậy sáng thứ hai ở Philadelphia, nơi sinh của nền dân chủ của chúng ta, và là chặng đầu tiên của cuộc vận động liên tục suốt ngày đêm, qua tám bang và 4.000 dặm. Trong khi Al và Tipper Gore vận động ở các bang khác thì ba chiếc Boeing 727, trang trí ba màu đỏ, trắng và xanh dương đưa Hillary, tôi, nhân viên và đoàn báo chí đi một chuyến 29 tiếng đồng hồ. Tại nhà hàng Mayfair ở Philadelphia, chặng dừng đầu tiên, khi một người đàn ông hỏi tôi nếu được bầu làm tổng thống thì tôi sẽ làm gì đầu tiên, tôi trả lời: "Tôi sẽ cảm ơn Chúa". Rồi chúng tôi đi Cleveland. Bằng giọng đã bị khàn thêm lần nữa, tôi nói: "Teddy Roosevelt đã từng nói với tôi rằng chúng ta nên nói khẽ thôi nhưng phải mang theo cây gậy lớn. Ngày mai, tôi muốn nói khẽ và có được Ohio". Tại buổi tập hợp ở sân bay ngoài Detroit, xung quanh có một số quan chức đựợc bầu và các lãnh đạo nghiệp đoàn ở Michigan, những người đó từng làm việc cật lực cho tôi, tôi đã rên rỉ: "Nếu ngày mai qui vị giúp tôi lấy lại được giọng nói, tôi sẽ lên tiếng cho quí vị trong bốn năm". Sau chặng dừng ở St. Louis và Paducah, Kentucky, chúng tôi bay đi Texas để thăm hai nơi. Đầu tiên là ở McAllen, sâu trong địa phận nam Texas gần biên giới Mexico, nơi tôi từng bị kẹt cùng Sargent Shriver 20 năm trước. Quá nửa đêm, chúng tôi mới tới Fort Worth, nơi đám đông vẫn thức chờ ngôi sao nhạc rock đồng quê nổi tiếng Jerry Jeff Walker. Khi tôi quay lại máy bay, tôi nhận ra các nhân viên của mình đã mua 400 đôla kem xoài ở khách sạn Menger ở San Antonio, đốì diện với pháo đài Alamo. Họ đã nghe tôi nói quá nhiều lần rằng tôi mê món kem đó đến thế nào, món này tôi phát hiện ra khi đang đi vận động tranh cử cho McGovern hồi năm 1972. Số kem đó đủ để chiêu đãi ba máy bay chở đầy các lữ hành đang mệt mỏi suốt đêm.

Trong khi đó, ở tổng hành dinh ở Little Rock, James Carville đã tập hợp hơn 100 người của chúng tôi lại trong buổi họp mặt cuối cùng. Sau khi được George Stephanopoulos giới thiệu, James đã có một bài diễn văn đầy tình cảm, nói rằng tình yêu và công việc là hai món quà quí giá nhất mà một người có thể trao, và cảm ơn tất cả mọi người, hầu hết đều còn rất trẻ, vì những món quà này.

Chúng tôi bay từ Texas đến Albuquerque, New Mexico tham dự buổi tập hợp sáng rất sớm với bạn cũ của tôi là Thống đốc Bruce King. Sau đó, khoảng 4 giờ sáng, tôi nghiến ngấu bữa sáng thức ăn Mexico, rồi đi thẳng đến Denver, chặng dừng cuối cùng. Chúng tôi được chào đón bởi một đám đông lớn, nhiệt tình đến từ sáng sớm. Sau khi Thị trưởng Wellington Webb, Thượng nghị sĩ Tim Wirth và cộng sự của tôi trong chương trình cải cách giáo dục - Thống đốc Roy Roemer - khai mào làm cho đám đông hưng phấn, đến lượt Hillary phát biểu và tôi cố tống bài diễn văn vận động tranh cử cuối cùng của mình với những lời tri ân và hy vọng qua cái cổ họng đang sưng tấy. Sau đó là về quê nhà Little Rock.

Ở sân bay, Hillary và tôi được Chelsea, các thành viên khác trong gia đình, bạn bè và các nhân viên ở tổng hành dinh đón. Tôi cảm ơn họ vì tất cả những gì họ đã làm, sau đó ra về cùng các thành viên gia đình để đến nơi công bố kết quả trưng cầu, Trung tâm Cộng đồng Dunbar, nằm ở khu vực hầu như chỉ có người Mỹ gốc Phi cách dinh thống đốc khoảng chưa đầy một dặm. Chúng tôi nói chuyện với những người có mặt ở trung tâm và đăng ký tên với các viên chức bầu cử ở đó. Lúc bấy giờ, như hồi còn sáu tuổi đã từng cùng làm với tôí, Chelsea bước vào quầy bỏ phiếu cùng tôi. Sau khi tôi đóng màn lại, Chelsea kéo tấm thẻ có tên tôi xuống và ôm tôi thật chặt. Sau 13 tháng nỗ lực đến oằn lưng, tất cả những gì còn lại để chúng tôi làm chỉ có thế. Khi Hillary bỏ phiếu xong, ba chúng tôi ôm nhau, đi ra ngoài, trả lời một vài câu hỏi của báo chí, bắt tay vài người và về nhà.

Đối với tôi, những ngày bầu cử luôn luôn ẩn chứa trong mình điều bí ẩn lớn lao của nền dân chủ. Bất kể những người tham gia thăm dò ý kiến hay các học giả uyên bác có nỗ lực đến mấy để làm sáng tỏ điều bí ẩn này thì nó vẫn là điều bí ẩn. Đó là ngày mà một công dân bình thường có quyền lực ngang với tỷ phú hay tổng thống. Một số người sử dụng quyền lực đó, một số người thì không. Những người sử dụng quyền lực đã chọn các ứng viên vì đủ loại lý do, một số dựa vào lý trí, một số theo bản năng, số khác rất quả quyết, người khác nữa lại vừa làm vừa hồ nghi. Cách nào đi nữa, họ vẫn thường chọn người lãnh đạo đúng nhất cho thời điểm đó; vì thế nước Mỹ vẫn đứng vững và tiến lên sau hơn 228 năm.

Tôi đã tham gia cuộc đua chủ yếu là vì tôi nghĩ rằng tôi đúng là người dành cho những thời điểm như thế này, thời điểm của những thay đổi sâu sắc trong cách người Mỹ sống, làm việc, nuôi dạy con và liên quan đến phần còn lại của thế giới. Tôi đã làm việc trong nhiều năm mới hiểu được các quyết định của các lãnh đạo chính trị ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân ra sao. Tôi tin rằng tôi đã hiểu cần phải làm gì và làm như thế nào. Nhưng tôi cũng biết rằng tôi đang yêu cầu người dân Mỹ đánh một canh bạc lớn. Trước hết, họ chưa quen với một Tổng thống Dân chủ. Kế tiếp là những băn khoăn về tôi: tôi còn trẻ; là thống đốc của một bang mà hầu hết người Mỹ đều biết rất ít; đã từng chống chiến tranh Việt Nam và tránh tham gia quân đội; có những quan điểm cấp tiến về chủng tộc và quyền phụ nữ và đồng giới; thường có vẻ khôn khéo khi nói về việc đạt được những mục tiêu hoài bão mà, ít nhất là bề ngoài, có vẻ loại trừ lẫn nhau; và sống một cuộc sống chưa hoàn hảo. Tôi đã làm việc đến kiệt lực để thuyết phục người Mỹ rằng tôi là một rủi ro rất đáng chấp nhận, nhưng kết quả các cuộc trưng cầu thay đổi xoành xoạch và sự trỗi dậy của Perot cho thấy rất nhiều người trong số họ muốn tin tôi nhưng vẫn nghi ngờ trong lòng. Trong khi diễn thuyết, Al Gore hỏi các cử tri theo họ các tít báo mà họ muốn đọc sau ngày bầu cử là gì: "Bốn năm nữa" hay "Thay đổi sắp bắt đầu". Tôi nghĩ tôi biết câu trả lời của họ, nhưng vào ngày dài của tháng 11 đó, cũng như những người khác, tôi cũng phải chờ mới biết.

Khi chúng tôi về nhà, cả ba chúng tôi cùng xem một bộ phim cũ của John Wayne cho đến khi buồn ngủ gục trong vài giờ. Buổi chiều, tôi chạy bộ với Chelsea xuống trung tâm và dừng lại ở cửa hàng McDonald uống ly nước, như trước đây tôi đã làm không biết bao nhiêu lần. Sau khi quay về dinh thống đốc, tôi không phải chờ lâu hơn. Kết quả bắt đầu có từ sớm, khoảng 6:30 chiều. Tôi vẫn đang mặc bộ quần áo chạy bộ khi được tuyên bố là người thắng cuộc ở một số bang của miền Đông. Khoảng hơn ba tiếng sau, hệ thống dự đoán tôi thắng chung cuộc, khi được 90.000 lá phiếu trong số 5 triệu phiếu dược bỏ ở Ohio, một chiến thắng với khoảng cách chưa tới 2%. Như vậy có vẻ phù hợp vì Ohio là một trong các bang đem lại cho tôi được vị trí ứng viên đề cử trong đợt bầu cử sơ bộ ngày 2 tháng 6, và là bang đã có số lá phiếu chính thức đưa tôi lên hàng đầu tại đại hội của chúng tôi ?