← Quay lại trang sách

Chương 29

Vào ngày sau hôm bầu cử, tràn ngập với những thiệp và điện thoại chúc mừng, tôi bắt tay vào quá trình bàn giao. Đúng như vậy đấy! Chẳng có thời gian để ăn mừng, và chúng, tôi cũng không dành nhiều thời gian để nghỉ ngơi - có lẽ đó là một sai lầm. Chỉ trong 11 tuần, gia đình tôi phải chuyển đổi từ cuộc sống ở Arkansas vào Nhà Trắng. Rất nhiều việc: chọn nội các và các quan chức cấp dưới nội các quan trọng, và chọn nhân viên Nhà Trắng; làm việc với nhân viên của Bush để bàn cơ chế chuyển đổi; bắt đầu dự họp báo cáo tình hình về an ninh quốc gia và nói chuyện với các lãnh đạo quốc tế; tiếp cận với các lãnh đạo quốc hội; hoàn tất kế hoạch kinh tế để trình ra quốc hội; lên kế hoạch thực hiện các cam kết khi tranh cử; giải quyết số lượng lớn lời hẹn gặp và mong muốn của nhiều nhân viên chiến dịch vận động muốn biết xem liệu họ có được chọn làm nhân viên của chính quyền mới hay không; và đáp ứng trước các sự kiện đang diễn ra. Trong vài ngày tới sẽ có nhiều chuyện xảy ra, đặc biệt là ở nước ngoài: ở Iraq, nơi Saddam Hussein đang tìm kiếm nới lỏng cấm vận của Liên hiệp quốc; ở Somalia, nơi Tổng thống Bush đã đưa quân Mỹ vào thực hiện nhiệm vụ nhân đạo nhằm ngăn chặn nạn đói; và ở Nga, nơi nền kinh tế đang lụn bại, và Tổng thống Yeltsin đang đối mặt với sự chống đôi ngày càng tăng từ các nhóm dân tộc cực đoan và Cộng sản trung kiên, còn việc rút quân Nga khỏi các quôc gia Baltic đã bị trì hoãn. Danh sách "những việc cần làm" ngày càng dài ra.

Nhiều tuần trước đó, chúng tôi đã âm thầm thiết lập một nhóm chuẩn bị bàn giao ở Little Rock, nằm dưới một ủy ban trong đó có Vernon Jordan, Warren Christopher, Mickey Kantor, cựu thị trưởng San Antonio Henry Cisneros, Doris Matsui và cựu thống đốc Vermont Madeleine Kunin. Giám đốc nhân sự là Gerald Stem, là phó chủ tịch điều hành công ty Occidental Petroleum đang nghỉ phép. Tất nhiên là chúng tôi không muốn người ta nghĩ rằng chúng tôi đã coi như mình thắng cử, nên việc hoạt động của nhóm này được giữ cho kín đáo, điện thoại không công bố và trên cửa không có bảng biển gì cả, văn phòng đặt ở tầng 13 của tòa nhà Ngân hàng Worthen.

Khi George Stephanopoulos đến dinh thống đốc hôm thứ tư, Hillary và tôi đề nghị anh ấy tiếp tục làm giám đốc thông tin ở Nhà Trắng. Tôi ước gì cũng có James Carville ở Nhà Trắng, để giúp vạch ra chiến lược và giúp chúng tôi đi đúng hướng, nhưng anh ấy nói mình không hợp với chính quyền, hai hôm trước còn nói với báo giới: "Tôi sẽ không sống ở nước nào mà chính quyền ở đó tuyển tôi làm việc".

Chiều thứ tư, tôi gặp ban bàn giao và nhận tài liệu báo cáo cuộc họp. 2 giờ 30 chiều, tôi họp báo ngắn ở sân sau dinh thống đốc. Vì Tổng thống Bush lại lâm vào một tình trạng căng thẳng ở Iraq, tôi nhấn mạnh rằng nước Mỹ "chỉ có một tổng thống trong một thời điểm mà thôi", và rằng "chính sách đối ngoại của Mỹ hiện nay vẫn hoàn toàn nằm trong tay ông ấy".

Ngày thứ hai làm tổng thống tân cử, tôi nói chuyên với một vài lãnh đạo nước ngoài, và đến văn phòng để giải quyết vài việc của tiểu bang cũng như cám ơn nhân viên của dinh thống đốc vì đã làm việc tốt khi tôi đi vắng. Tối đó chúng tôi đãi tiệc nhân viên của chiến dịch vận động. Tôi vẫn còn mất giọng nên hầu như chỉ có thể lào khào "cám ơn" được mà thôi. Tôi dành phần lớn thời gian bắt tay và đi lòng vòng với tấm bảng gắn trên người "Xin lỗi, tôi không nói được", và "Các bạn đã làm rất tốt".

Thứ sáu, tôi chỉ định Vernon Jordan làm chủ tịch và Warren Christopher làm giám đốc ủy ban bàn giao của tôi. Việc bổ nhiệm này được chào đón ở cả Washington lẫn Little Rock, nơi cả hai người đều được nhân viên chiến dịch kính trọng. Nhiều nhân viên đã bắt đầu cho thấy các dấu hiệu kiệt sức và bứt rứt, một việc hoàn toàn có thể hiểu và thấy trước được, và lo lắng về tương lai của chúng tôi khi hào quang của chiến thắng bắt đầu tan dần.

Vào tuần thứ hai của việc bàn giao, tốc độ bắt đầu tăng dần. Tôi nói chuyện về hòa bình Trung Đông với Thủ tướng Israel Yitzak Rabin, Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak, và Quốc vương Ảrập Xêút Fahd. Vernon và Chris chỉ định các vị trí cao cấp trong ủy ban bàn giao, bao gồm Alexis Herman, phó chủ tịch đảng Dân chủ, và Mark Gearan, người quản lý chiến dịch của Al Gore, vào các chức phó giám đốc; chủ tịch DLC AI From làm phụ trách chính sách đối nội; Sandy Berger cùng phụ tá chiến dịch của tôi là Nancy Soderberg làm phụ trách đối ngoại; và Gene Sperling và bạn cùng học thời học bổng Rhodes Bob Reich, lúc đó là giáo sư ở Harvard và là tác giả của nhiều cuốn sách gây chú ý về kinh tế toàn cầu, làm phụ trách chính sách kinh tế. Việc lựa chọn ứng viên vào các vị trí quan trọng ban đầu được giao cho Tom Donilon, một luật sư sắc bén ở Washington và là nhà hoạt động Dân chủ lâu năm. Công việc của Donilon là quan trọng; một trong những thói thường của cuộc sống chính trị Washington là tìm cách đánh bại các bổ nhiệm nhân sự của tổng thống dựa vào các nhập nhèm tài chính hoặc đời tư của các ứng viên này. Những nhà tuyển chọn của chúng tôi cần phải đảm bảo sao cho những người được chọn có thể sống sót qua được sự soi mói đó.

Vài ngày sau, cựu thống đốc Nam Carolina Dick Riley tham gia đội bàn giao để phụ trách bổ nhiệm các vị trí dưới nội các. Công việc này thật nặng nề. Một lần, ông ấy nhận được hơn 3.000 hồ sơ, vài trăm cú điện thoại, chỉ trong một ngày. Nhiều cú điện thoại này là từ các thành viên quốc hội và các thống đốc, tất cả đều muốn ông ấy đích thân gọi lại. Rất nhiều người từng đóng góp vào chiến thắng của chúng tôi muốn ra phục vụ trong chính quyền đến mức tôi lo là sẽ có những người tài năng và xứng đáng bị để sót, và đúng là vài người bị như vậy.

Tuần thứ ba của cuộc bàn giao tập trung vào Washington. Tôi mời Chủ tịch Hạ viện Tom Foley, lãnh đạo thiểu số hạ viện Dick Gephardt, và lãnh đạo đa số thượng viện George Mitchell đến Little Rock ăn tối và họp vào buổi sáng. Đối với tôi, việc bắt đầu một cách trơn tru với các lãnh đạo Dân chủ là rất quan trọng. Tôi biết tôi phải có họ ủng hộ mới thành công dược, và họ biết nhân dân Mỹ sẽ coi tất cả chúng tôi là người chịu trách nhiệm phá vỡ thế bế tắc về đảng phái ở Washington. Như thế sẽ cần phải có một sự thoả hiệp nào đó từ phía tôi và phía họ, nhưng sau khi gặp gỡ họ tôi tin rằng chúng tôi có thể hợp tác cùng nhau.

Thứ tư, tôi đến Washington trong hai ngày để gặp Tổng thống Bush, các thành viên đảng Dân chủ khác trong quốc hội và các lãnh đạo phe Cộng hòa trong quốc hội. Cuộc gặp với tổng thống, dự kiến trong vòng một giờ, đã diễn ra lâu gấp đôi và rất lịch sự cũng như hữu ích. Chúng tôi nói về nhiều chủ đề, và tôi thấy các tổng kết của tổng thống về các thách thức đối ngoại của chúng tôi thật thấu đáo.

Từ Nhà Trắng, tôi lái xe hai dặm lên phía bắc Washington, tới một khu vực nghèo nàn, thất nghiệp, ma túy và tội phạm. Ở đại lộ Georgia, tôi xuống xe và đi bộ một dãy phố, bắt tay và nói chuyện với mấy người bán hàng và các công dân khác về các vấn đề của họ và tôi có thể làm gì để giúp họ. Trong năm ngoái, tám người đã bị giết trong vòng một dặm nơi tôi đến. Tôi mua thức ăn từ một quán bán đồ Tàu đem về, nơi nhân viên bán hàng phải làm việc sau một tấm kính chống đạn. Các bậc phụ huynh bảo họ sợ vì quá nhiều bạn bè của con cái họ mang súng đến trường. Những người sống trong nội đô Washington thường bị quốc hội và Nhà Trắng quên lãng, dù chính quyền liên bang vẫn có quyền kiểm soát khá nhiều công việc của thành phố. Tôi muốn người dân thành phố biết rằng tôi quan tâm đến các vấn đề của họ và muốn trở thành một hàng xóm tốt.

Ngày thứ năm, tôi chạy bộ buổi sáng, từ trong cổng khách sạn Hay-Adams ra, ngay đối diện Nhà Trắng qua Quảng trường Lafayette, chạy xuống một con phố đầy những người vô gia cư đến ngủ đêm, chạy sang Đài tưởng niệm Washington và Lincoln, rồi quay lại quán McDonald gần khách sạn. Tôi gọi một ly cà phê và gặp một ông 59 tuổi, ông ta kể rằng ông đã mất việc và mọi thứ dành dụm được trong thời kỳ kinh tế suy thoái. Tôi vừa đi bộ về khách sạn vừa nghĩ về người đàn ông đó và làm thế nào để tôi có thể giữ mình luôn gần gũi với các vấn đề của những người dân như ông ấy từ bên trong bức tường rào bao quanh mọi tổng thống.

Sau đó, sau khi ăn sáng với 14 lãnh đạo phe Dân chủ trong quốc hội, tôi thăm riêng lãnh đạo thiểu số thượng viện, Bob Dole. Tôi vẫn luôn kính trọng Dole, vì ông ấy đã dũng cảm hồi phục khỏi các vết thương từ thời Thế chiến hai và vì ông từng hợp tác với phe Dân chủ trong các vấn đề như tem thực phẩm và quyền của người khuyết tật. Mặt khác, ông ấy là người theo đảng phái, và ngay đêm bầu cử đã lập tức nói rằng vì tôi "thậm chí không có được chiến thắng bằng đa số phiếu bầu... rõ ràng quyền lực chưa rõ ràng". Do đó, Dole nói, trách nhiệm của ông ấy là "xốc lại đảng (Cộng hòa), tiếp cận và cố thu hút những người ủng hộ Perot và các ứng viên độc lập để đưa ra một nghị trình riêng của chúng ta". Dole và tôi nói chuyện vui vẻ, nhưng sau đó tôi cảm thấy không chắc chắn về mối quan hệ của chúng tôi, hoặc nghị trình của ông ấy, sẽ như thế nào. Dù gì đi nữa thì Dole cũng từng muốn trở thành tổng thống mà.

Tôi còn gặp gỡ rất lịch thiệp với lãnh đạo thiểu số hạ viện, Bob Michel, một người bảo thủ kiểu cũ quê ở Illinois, nhưng tôi tiếc rằng thành viên ban lãnh đạo Cộng hòa là Newt Gingrich bang Georgia lại đang đi nghỉ phép. Gingrich chính là lãnh đạo chính trị và tri thức của những người bảo thủ phe Cộng hòa trong hạ viện, và ông ấy tin rằng nếu kết hợp được những người bảo thủ về văn hóa và tôn giáo với những người chống một chính quyền lớn và chống thuế thì có thể tạo ra một đa số vĩnh viễn Cộng hòa trong quốc hội. Ông ấy từng "chiên" Tổng thống Bush vì đã ký kế hoạch cắt giảm thâm hụt ngân sách của phe Dân chủ vào năm 1990 vì kế hoạch này bao gồm việc tăng thuế xăng. Tôi chỉ còn biết tưởng tượng ra xem ông ấy sẽ làm gì tôi.

Quay lại khách sạn, tôi gặp tướng Colin Powell, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân. Lên được đến các chức vụ cao nhất với sự ủng hộ của các tổng thống Reagan và Bush, Powell sẽ tiếp tục ở vị trí này trong 9 tháng tiếp theo dưới quyền một vị Tổng tư lệnh rất khác biệt. Ông ấy phản đối đề nghị của tôi cho phép người đồng tính phục vụ trong quân đội, dù trong Chiến tranh vùng Vịnh, mà ông ấy trở thành người hùng, Lầu năm góc đã cho phép một cách có chủ ý hàng trăm người đồng tính phục vụ tại ngũ, và chỉ thải hồi họ sau khi cuộc chiến chấm dứt, khi không cần đến họ nữa. Dù có khác biệt chính kiến, tướng Powell tỏ rõ rằng ông ấy sẽ phục vụ tôi tốt nhất có thể, kể cả việc tư vấn thành thực cho tôi, vốn là điều mà tôi muốn.

Hillary và tôi chấm dứt lần đi Washington bằng một tiệc tối do Pamela Harriman tổ chức. Tối hôm trước, Vernon và Ann Jordan cũng đã mời một số người đến ăn tối với chúng tôi. Những bữa tiệc này, cùng với một tiệc sau nữa do Katharine Graham tổ chức, là để giới thiệu Hillary và tôi với những nhân vật quan trọng trong giới kinh doanh, báo chí và chính trị ở Washington. Đối với phần lớn bọn họ, cho tới lúc đó chúng tôi vẫn là người lạ.

Sau khi đón lễ Tạ ơn lần cuối cùng gia đình trong dinh thống đốc, bao gồm chuyến thăm hàng năm tới một tổ ấm mà bạn chúng tôi điều hành dành cho những phụ nữ và trẻ em nạn nhân của bạo hành trong gia đình, Hillary và tôi bay cùng với Chelsea và bạn con bé, Elizabeth Flammang, qua Nam California để nghỉ ngơi với bạn chúng tôi là gia đình Thomason và đến chào xã giao Tổng thống Reagan. Reagan đã mở một cửa hiệu trong một tòa nhà rất đẹp ở nơi trước đây hãng Twentieth Century Fox từng dùng để sản xuất phim. Tôi thích chuyến đi này. Reagan là người có duyên kể chuyện, và sau tám năm trong Nhà Trắng, ông ấy có nhiều chuyên hay để kể mà tôi muốn nghe. Cuối buổi gặp, ông ấy tặng tôi một hũ kẹo hình hạt đậu (jelly bean) mang tên ông ấy, đủ các màu đỏ, trắng và xanh dương. Tôi giữ hũ kẹo này trong văn phòng của tôi trong tám năm.

Tháng 12, tôi bắt đầu công việc mà dân chúng mướn tổng thống làm: ra quyết định. Vì tôi hứa là tập trung "mọi tinh lực" vào nền kinh tế, tôi bắt đầu với lĩnh vực này. Ngày 3 tháng 12, tôi gặp riêng với Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Ông chủ tịch này có ảnh hưởng khổng lồ đối với nền kinh tế, chủ yếu là nhờ việc Fed đặt ra lãi suất ngắn hạn, vôn ảnh hưởng trực tiếp đến lãi dài hạn cho doanh nghiệp và nợ ngân hàng của khách hàng, trong đó có cả những người mua nhà trả góp. Vì Greenspan là người rành rẽ tất cả các mặt của nền kinh tế và là một tay chơi quyền lực dày dạn ở Washington, những lời tuyên bố và xuất hiện trước quốc hội của ông ấy rất nặng ký. Tôi biết Greenspan là một người Cộng hòa bảo thủ, và có lẽ thất vọng khi tôi thắng cử, nhưng tôi nghĩ chúng tôi có thể làm việc với nhau được vì ba lý do: tôi tin vào sự độc lập của Cục Dự trữ Liên bang; giống như Greenspan, tôi cho rằng điều tối quan trọng là phải cắt giảm thâm hụt; và ông ấy cũng từng là một người chơi kèn saxo, và cũng như tôi, đã bỏ chơi kèn vì quyết đinh kiếm sống bằng nghề khác hay hơn.

Một tuần sau, tôi.bắt đầu tuyên bố nội các với các chức vụ kinh tế, mở màn bằng cách bổ nhiệm Lloyd Bentsen, Chủ tịch ủy ban Tài chính Thượng viện, làm Bộ trưởng Ngân khố. Bentsen là một người Dân chủ ủng hộ doanh nghiệp nhưng vẫn biết lo cho dân thường. Dong dỏng cao và với dáng vẻ quý tộc, ông ấy xuất thân từ một gia đình giàu có ở nam Texas, và sau khi làm phi công máy bay ném bom trong Thế chiến hai ở mặt trận Ý, ông được bầu vào hạ viện Mỹ. Sau ba nhiệm kỳ, ông rời Hạ viện chuyển sang kinh doanh, và vào năm 1970, được bầu vào thượng viện, đánh bại Dân biểu George H. W. Bush. Tôi thích Bentsen và cho rằng ông ấy là hoàn hảo cho vị trí Bộ trưởng Ngân khố: ông ấy được Phố Wall kính trọng, rất hiệu quả trong hoạt động với quốc hội, và tin tưởng vào các mục tiêu của tôi là phục hồi tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Thứ trưởng của Bentsen là Roger Altman, phó chủ tịch công ty đầu tư Blackstone Group, một đảng viên Dân chủ suốt đời và phù thủy tài chính và sẽ tăng cường mối quan hệ của chúng tôi với Phố Wall. Một người nữa được bổ nhiệm vào Bộ Ngân khố là Larry Summers, trở thành thứ trưởng phụ trách quan hệ quốc tế. Summers là giáo sư Harvard trẻ nhất, mới 28 tuổi. Anh ấy còn sáng láng hơn mức độ mà danh tiếng của anh ấy làm tôi tưởng.

Tôi chọn Leon Panetta, dân biểu của California từng làm Chủ tịch ủy ban Ngân sách Hạ viện, làm Giám đốc Văn phòng Quản trị và Ngân sách (OMB) - một vị trí vẫn luôn quan trọng nhưng đặc biệt quan trọng đối với tôi, vì tôi đã cam kết đưa ra một ngân sách vừa giảm thâm hụt vừa tăng chi trong các lĩnh vực tối quan trọng với sự thịnh vượng lâu dài, như giáo dục và công nghệ. Tôi không biết Leon trước khi phỏng vấn anh ấy, nhưng tôi rất ấn tượng với kiến thức, năng lực và cung cách giản dị của anh ấy. Tôi bổ nhiệm ứng viên lọt vào vòng cuối còn lại, Alice Rivlin, vào OMB luôn làm phó cho Leon. Giống như anh ấy, cô ấy là một người hăng hái chống giảm thâm hụt, và nhạy cảm với những ai cần sự trợ giúp từ ngân quỹ liên bang.

Tôi đề nghị Bob Rubin nhận vị trí mới: điều phối chính sách kinh tế trong Nhà Trắng với tư cách Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia, vốn hoạt động tương tự như Hội đồng An ninh Quốc gia, tức là kết hợp các cơ quan hữu quan để thiết lập và thực hiện chính sách. Tôi tin rằng việc hoạch định chính sách kinh tế của chính phủ liên bang chưa có tổ chức và hiệu quả ở mức tốt nhất. Tôi muốn kết hợp không chỉ các bộ phận thuế và ngân sách của Bộ Ngân khố và OMB mà còn nỗ lực của Bộ Thương mại, Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, Hội đồng Cố vấn Kinh tế, Ngân hàng Xuất nhập khẩu, Bộ Lao động, và Cơ quan doanh nghiệp nhỏ lại với nhau. Chúng tôi phải tận dụng tất cả các nguồn lực có thể để áp dụng kiểu chương trình kinh tế toàn diện cần thiết nhằm có lợi cho các nhóm thu nhập và các vùng miền. Rubin chính là người để làm việc đó. Ông ấy vừa kín đáo nhưng vừa quyết liệt. Ông ấy từng là đồng chu tịch hãng Goldman-Sachs, công ty đầu tư khổng lồ ở New York, và nếu ông ấy có thể cân bằng được các lợi ích cũng như uy thế thể diện của công việc mới, ông ấy hoàn toàn có cơ hội thành công. Hội đồng Kinh tế Quốc gia đại diện cho thay đổi lớn nhất trong các hoạt động của Nhà Trắng trong nhiều năm, và nhờ Rubin mà nó đã phục vụ tốt cho nước Mỹ.

Tôi tuyên bố bổ nhiệm Laura Tyson, một giáo sư kinh tế được trọng vọng thuộc Đại học California ở Berkeley, làm Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế. Laura gây ấn tượng với tôi bằng kiến thức của bà về công nghệ, sản xuất hàng loạt, và thương mại - những vấn đề kinh tế vi mô mà tôi cho rằng đã bị làm ngơ quá lâu trong việc hoạch định chính sách kinh tế quốc gia.

Tôi cũng bổ nhiệm Bob Reich làm Bộ trưởng Lao động. Vị trí này có phần yếu thế dưới thời Reagan và Bush, nhưng tôi coi đây là một phần quan trọng trong đội ngũ xây dựng kinh tế. Bob từng viết nhiều cuốn sách hay về nhu cầu cần có sự hợp tác nhiều hơn giữa giới lao động và giới quản lý doanh nghiệp cũng như tầm quan trọng của sự uyển chuyển và ổn định trong môi trường làm việc hiện đại. Tôi tin ông ấy có thể vừa bảo vệ quyền lợi của người lao động trong y tế, an toàn, và an sinh mà vẫn có thể có được sự ủng hộ quan trọng của giới lao động cho chính sách kinh tế mới của chúng tôi.

Tôi đề nghị Ron Brown làm Bộ trưởng Thương mại, hoàn tất một cam kết khi tranh cử là nâng tầm quan trọng của bộ từng bị coi là bộ "hạng hai" đã quá lâu. Với sự pha trộn vừa thông thái vừa táo bạo, Ron từng khôi phục lại vị trí cho ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ, đoàn kết được các lực lượng cấp tiến và lao động với những người ủng hộ cách tiếp cận mới của Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ. Nếu ai đó có thể làm sống lại cơ quan thương mại để thúc đẩy lợi ích thương mại của nước Mỹ thì người đó chính là anh ấy. Ron trở thành Bộ trưởng Thương mại gôc Phi đầu tiên và là một trong những lãnh đạo hiệu quả nhất của bộ này.

Vào ngày tôi tuyên bố bổ nhiệm Ron, tôi cũng từ chức thống đốc Arkansas. Tôi không còn thời gian để dành cho vị trí đó, và phó thống đốc Jim Guy Tucker đã quá sẵn sàng và đủ khả năng để tiếp quản. Một điều thất vọng về chuyện phải từ chức vào tháng 12 là tôi còn thiếu 24 ngày nữa để phá kỷ lục làm thống đốc tiểu bang lâu nhất của Orval Faubus.

Ngày 14 và 15 tháng 12, sau khi đã bổ nhiệm đầy đủ các vị trí kinh tế quan trọng, tôi tổ chức một cuộc họp cấp cao kinh tế ở Little Rock. Chúng tôi đã chuẩn bị cho hội nghị này trong sáu tuần, dưới sự lãnh đạo của Mickey Kantor; John Emerson, bạn của Hillary từng ủng hộ tôi ở California; và Erskine Bowles, một doanh nhân Bắc Carolina thành đạt từng ủng hộ tôi vào vị trí tổng thống bởi tin vào triết lý Dân chủ Mới của tôi cũng như vì tôi ủng hộ nghiên cứu mô thai nhi. Gia đình Erskine bị bệnh tiểu đường, và anh ây cũng tin giống tôi rằng việc nghiên cứu này là tối quan trọng trong việc giúp khám phá được bí ẩn của bệnh tiểu đường cũng như các chứng bệnh nan y khác.

Khi hội nghị được công bố, có vẻ như trên toàn nước Mỹ ai cũng muốn tham gia, và chúng tôi phải rất chật vật mới giới hạn được số người tham dự sao cho vừa khán phòng ở Trung tâm Hội nghị Little Rock mà vẫn phải dành đủ chỗ cho số lượng khổng lồ báo giới từ khắp nơi trên thế giới đến đưa tin. Cuối cùng, danh sách kết lại còn 329 đại biểu, từ những nhân vật trong danh sách 500 công ty giàu nhất của tạp chí Fortune, các chủ tịch công ty ở Thung lũng Silicon cho đến các chủ tiệm nhỏ, còn thêm các lãnh đạo lao động, giới học thuật, một chủ trại từ Alaska, một tù trưởng bộ tộc da dỏ Cherokee với cái tên nghe dễ sợ là Wilma Sát Nhân.

Khi hội nghị khai mạc, bầu không khí thật cực kỳ phấn khích, cứ như buổi biểu diễn nhạc rock dành cho những nhà chính sách vậy. Giới báo chí gọi đây là "đại hội học giả" (wonkfest). Các ban tranh luận đem lại một số ý tưởng mới cũng như phân tích sâu sắc, và làm rõ các lựa chọn mà tôi phải đối mặt. Sự đồng thuận lớn nhất là ưu tiên số một của tôi phải là giảm thâm hụt ngân sách, ngay cả khi buộc phải giảm thuế cho giới trung lưu ít đi, hoặc là bỏ luôn không giảm thuế nữa. "Cuộc họp của Mickey", như chúng tôi thường gọi, là một thành công rực rỡ, và không chỉ trong mắt của những học giả chính sách. Một cuộc thăm dò sau đại hội cho thấy 77% dân Mỹ ủng hộ các bước chuẩn bị để nắm chức tổng thống của tôi.

Hội nghị kinh tế này đã gửi một thông điệp mạnh mẽ và rõ ràng rằng, như tôi đã hứa, nước Mỹ đang tiến lên phía trước, rời xa kiểu kinh tê chỉ ưu đãi một số doanh nghiệp nào đó sang kiểu kinh tế đầu tư và tăng trưởng, rời xa sự bỏ rơi những ai đang phải buộc lùi dần trước nền kinh tế toàn cầu để tiến tới một nước Mỹ sẽ mang lại cho mọi công dân có trách nhiệm một cơ hội. Sau này tôi bổ nhiệm Mickey Kantor làm đại diện thương mại Hoa Kỳ, và Erskine Bowles làm người đứng đầu Cơ quan doanh nghiệp nhỏ, còn John Emerson vào đội ngũ nhân viên Nhà Trắng. Chính họ là người đã tìm lấy cho mình vị trí trong đội ngũ.

Ngay trước hội nghị kinh tế, tôi tuyên bố Mack McLarty sẽ là chánh văn phòng Nhà Trắng. Đó là một lựa chọn bất thường vì Mack tuy đã làm việc trong hai ủy ban của liên bang dưới thời Bush nhưng không phải là người rành rẽ về Washington, một điều cũng làm chính anh ấy lo ngại. Anh ây bảo tôi là anh ây thích một công việc khác phù hợp với xuất thân kinh doanh của anh ấy hơn. Tuy nhiên, tôi ép Mack phải nhận vị trí này, vì tôi tin anh ấy có thể tổ chức nhân viên Nhà Trắng một cách êm ái và tạo ra không khí làm việc tập thể mà tôi muốn có. Anh ấy rất kỷ luật và thông minh; có kỹ năng đàm phán giỏi và khả năng nắm bắt và theo dõi nhiều việc cùng một lúc. Anh ấy còn là người bạn trung thành của tôi trong hơn 40 năm, và tôi biết có thể trông cậy anh ấy sẽ không che giấu tôi những quan điểm và nguồn thông tin trái tai. Trong những tháng đầu làm việc với nhau, cả anh ấy lẫn tôi đều phải chịu một số chuyện ngờ nghệch của hai chúng tôi trước văn hóa chính trị và báo giới ở Washington, nhưng nhờ có Mack, chúng tôi cũng đạt được nhiều điều và tạo ra một tinh thần hợp tác mà nhiều nhóm nhân viên Nhà Trắng trước đây thiếu.