← Quay lại trang sách

Chương 30

Chủ nhật, ngày 17 tháng giêng, Al và Tipper Gore, Hillary và tôi bắt đầu tuần nhậm chức với chuyến đi đến Monticello, kế theo là buổi thảo luận với thanh niên về tầm quan trọng của Thomas Jefferson đối với nước Mỹ.

Sau buổi nói chuyện, chúng tôi lên xe buýt của chuyến đi 120 dặm đến Washington. Chiếc xe buýt tượng trưng cho cam kết của chúng tôi muốn trao chính phủ liên bang lại cho nhân dân. Bên cạnh đó, chúng tôi cùng yêu quý những ký ức vui tươi mà nó mang lại, chúng tôi mong muốn được đi một chuyến cuối cùng. Chúng tôi dừng lại tham gia một buổi lễ nhà thờ ngắn gọn ở thị trấn Culpeper của vùng Thung lũng Shenandoah tươi đẹp, sau đó đi thẳng đến Washington. Cũng giống như lúc đi vận động tranh cử, dọc đường có vài người ra chúc lành và vài lần bị phản đối.

Khi chúng tôi đến thủ đô, các sự kiện công cộng cho buổi lễ nhậm chức của chúng tôi, có tên "Một sự tái hợp kiểu Mỹ: Khởi đầu mới, Niềm Hy vọng mới", đã bắt đầu diễn ra. Harry Thomason, Rahm Emanuel và Mel French, một người bạn ở Arkansas người sau này trở thành trưởng bộ phận lễ tân trong nhiệm kỳ thứ haỉ của tôi, đã tổ chức một loạt những sự kiện đặc biệt với càng nhiều sự kiện miễn phí càng tốt, hoặc ít tốn kém nhất cho những người dân lao động đã bầu tôi. Chủ nhật và thứ hai, tòa sảnh nằm giữa tòa nhà quôc hội và tượng đài Washington đầy nghẹt người đến dự liên hoan ngoài trời có thức ăn, nhạc và đồ lưu niệm. Đêm đó chúng tôi tổ chức buổi hòa nhạc "Tiếng gọi Đoàn kết" ở bậc thềm Đài tưởng niệm Lincoln với nhiều ngôi sao ca nhạc trong đó có Diana Ross và Bob Dylan làm nức lòng đám đông 200.000 người đứng đầy từ sân khâu đến tận Tượng đài Washington. Đứng dưới bức tượng của Lincoln, tôi phát biểu ngắn gọn kêu gọi thống nhất quốc gia, tôi nói rằng Lincoln "đã đem lại sức sống mới cho ước mơ của Jefferson rằng tất cả chúng ta sinh ra đều tự do và bình đẳng".

Sau buổi hòa nhạc, gia đình Gore và gia đình tôi dẫn đầu đoàn tuần hành có hàng ngàn người tham gia tay cầm đèn pin đi trên cầu Memorial vượt qua sông Potomac đến vòng xoay Lady Bird Johnson ngay bên ngoài Nghĩa trang Arlington. Lúc 6 giờ chiều, chúng tôi rung chiếc chuông bản sao của Chuông Tự do, và "Tiếng chuông Hy vọng" bắt đầu vang vọng khắp đất nước Mỹ và cả ở trên tàu vũ trụ con thoi Endeavour. Sau đó là pháo hoa và tiếp theo là những bữa tiệc tiếp tân. Lúc chúng tôi đến Blair House, nhà khách chính thức đối diện với Nhà Trắng thì tất cả đều mệt nhưng hưng phấn, và trước khi ngủ thiếp đi, tôi dành vài phút xem lại bản diễn văn nhậm chức mới nhất của tôi.

Tôi vẫn chưa hoàn toàn hài lòng với nó. So với những bài diễn thuyết tranh cử nó có vẻ hơi giả tạo. Tôi biết cần phải trang nghiêm hơn, nhưng tôi không muốn kéo quá dài. Tôi thích một đoạn xoay quanh ý tưởng rằng khởi đầu mới của chúng ta đã "bắt mùa xuân đến" với nước Mỹ trong ngày mùa đông lạnh giá này. Đó là ý tưởng của người bạn tôi, Cha Tim Healy, cựu hiệu trưởng Đại học Georgetown. Tim đã đột tử vì bệnh tim khi đang làm thủ tục ở sân bay Newark chỉ vài tuần sau bầu cử. Khi bạn bè đến căn hộ anh ở, họ tìm thấy trên máy đánh chữ phần đầu lá thư gửi cho tôi, trong đó có những lời gợi ý cho bài diễn văn nhậm chức. Câu "bắt mùa xuân đến" của anh làm tất cả chúng tôi sững sờ, và tôi muốn dùng lời của anh để tưởng nhớ anh.

Thứ hai, ngày 18 tháng giêng là lễ kỷ niệm ngày sinh của Martin Luther King Jr. Buổi sáng tôi tổ chức buổi tiếp tân cho các đại diện ngoại giao của các nước ở khu tứ giác trong trường Georgetown, tôi đứng ở bậc thềm trước tòa nhà Old North Building nói chuyên với họ. Đó cũng là nơi George Washington đã đứng năm 1797 và vị tướng Pháp vĩ đại và anh hùng Chiến tranh Cách mạng Lafayette diễn thuyết năm 1824. Tôi nói với các đại sứ rằng chính sách ngoại giao của tôi sẽ được xây trên ba trụ cột - an ninh kinh tế trong nước, tái cấu trúc lực lượng vũ trang nhằm đón đầu những thách thức mới của thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, và ủng hộ các giá trị dân chủ trên toàn cầu. Một ngày trước, Tổng thống Bush đã ra lệnh oanh kích vào một khu vực nghi sản xuất vũ khí của Iraq, và hôm đó máy bay của Hoa Kỳ tấn công các vị trí phòng không của Saddam Hussein. Tôi ủng hộ những nỗ lực buộc Saddạm phải tuân thủ các nghị quyết của Liên hiệp quốc và yêu cầu các quan chức ngoại giao nhấn mạnh điều này với chính phủ của họ. Sau sự kiện này, tôi nói chuyện với các sinh viên và cựu sinh viên của Georgetown, trong đó có một số bạn học cũ của tôi, thúc giục họ ủng hộ sáng kiến dịch vụ quốc gia của tôi.

Từ Georgetown, chúng tôi lái xe đến trường đại học Howard tham dự lễ vinh danh Tiến sĩ King, sau đó là bữa trưa ở thư viện Folger tuyệt đẹp cho hơn 50 người mà tôi và Al, Tipper và Hillary đã gặp trong khi đi vận động, những người đã gây ấn tượng mạnh cho chúng tôi. Chúng tôi gọi đó là "Những Khuôn mặt của Hy vọng", bởi vì sự dũng cảm của họ trước những khó khăn hoặc sự sáng tạo của họ trước những thách thức đương thời. Chúng tôi muốn cảm ơn họ vì đã tạo cảm hứng cho chúng tôi, và đã nhắc nhở tất cả mọi người, giữa tuần nhậm chức hoành tráng này, rằng rất nhiều người Mỹ vẫn còn đang gặp nhiều khốn khó.

Những Khuôn mặt của Hy vọng bao gồm hai cựu thành viên của các băng nhóm đối địch ở Los Angeles nhưng sau cuộc bạo động đã hợp tác với nhau để đem lại cho đám trẻ một tương lai tươi sáng hơn; hai cựu chiến binh Việt Nam từng gửi cho tôi huy chương của họ; một hiệu trưởng đã từng tạo nên một ngôi trường không có bạo lực ở khu vực có tỷ lệ tội phạm cao nhất ở Chicago - học sinh trường này thường xuyên đạt điểm cao hơn mức trung bình của tiểu bang và quốc gia; một thẩm phán người Texas từng sáng tạo ra một chương trình mang tính đột phá cho trẻ em cá biệt; một cậu bé người Arizona từng làm cho tôi suy nghĩ nhiều hơn về những áp lực lên gia đình vì cha cậu phải đi làm thêm giờ; một bác sĩ thổ dân Mỹ ở Montana từng làm việc để cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thần cho người dân của bà; những người đã mất việc vì không cạnh tranh nổi với lao động nước ngoài lương thấp; những người phải vật lộn với chi phí y tế tốn kém mà chính phủ không giúp đỡ gì; một doanh nhân trẻ mong tìm vốn đầu tư mạo hiểm; những người phụ trách trung tâm cộng đồng cho những gia đình tan vỡ; vợ goá của một cảnh sát bị giết bởi bàn tay của một bệnh nhân tâm thần mang theo súng ngắn không có số đăng ký; một phù thủy tài chính 18 tuổi làm việc ở Phố Wall; một phụ nữ khởi đầu chương trình tái sử dụng quy mô lớn ở nhà ươm cây của mình; và nhiều người khác. Michael Morrison, chàng thanh niên đã lái chiếc xe lăn dọc theo xa lộ băng giá ở New Hampshire để đến làm việc cho tôi cũng có mặt. Và cả Dimitrios Theofanis, người Hy Lạp nhập cư đang sống ở New York cũng có mặt, ông từng yêu cầu tôi giúp cho con trai của ông được tự do.

Tất cả những Khuôn mặt của Hy vọng đã dạy tôi bài học về nỗi đau và những hứa hẹn của nước Mỹ năm 1992, nhưng trên hết là bài học mà Louise và Clifford Ray mang lại. Họ có ba con trai mắc bệnh ưa chảy máu (hemophiliac) và đã nhiễm virus HIV qua đường truyền máu. Họ còn có một cô con gái không bị nhiễm. Những người sống cùng cộng đồng nhỏ của họ ở Florida vì lo sợ đã thúc ép trường học phải đuổi học các cậu con trai của Ray, vì họ sợ con cái họ sẽ nhiễm bệnh nếu con họ bị chảy máu và sẽ bị máu của các cậu con trai của Ray dây vào người. Hai vợ chồng Ray đã nhờ luật sư khởi kiện để lũ trẻ được ở lại trường, và vụ việc được đưa ra tòa, sau đó họ quyết định chuyển đến Sarasota, một thành phố lớn hơn, nơi các nhân viên trường học chào đón họ hơn. Đứa con đầu lòng của họ, Ricky, rõ ràng rất yếu và đang vật lộn để sống sót. Sau ngày bầu cử, tôi gọi điện cho Ricky ở bệnh viện để động viên em và mời em đến dự buổi lễ nhậm chức. Cậu bé nóng lòng chờ đến dự nhưng đã không đến được; cậu mất năm 15 tuổi, chỉ năm tuần trước khi tôi trở thành tổng thống. Tôi rất mừng vì hai vợ chồng Ray vẫn đến dự bữa tiệc. Khi tôi làm tổng thống, họ là những nhà vô địch trong cuộc đấu tranh vì những người bị bệnh ưa chảy máu trước nguy cơ nhiễm AIDS, và đã vận động hành lang thành công để quốc hội thông qua Quỹ Chữa bệnh Ưa chảy máu Ricky Ray. Nhưng việc đó mất tám năm và nỗi đau khổ của họ vẫn chưa dứt. Tháng 10 năm 2000 ba tháng trước khi tôi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống, con thứ hai của Ray là Robert chết vì AIDS vào ngày 22. Ước gì liệu pháp ARV được phát minh sớm hơn vài năm. Bây giờ đã có thuốc này, tôi dành rất nhiều thời gian để mang thuốc đến với rất nhiều Ricky Ray khác trên toàn thế giới. Tôi cũng muốn họ trở thành những Khuôn mặt của Hy vọng.

Sáng thứ ba, Hillary và tôi bắt đầu bằng chuyến thăm mộ của John và Robert Kennedy ở Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Đi cùng có John Kennedy Jr., Ethel Kennedy, vài người con của họ, và Thượng nghị sĩ Ted Kennedy. Tôi quỳ trước ngọn lửa bất diệt và cầu nguyện ngắn gọn, cảm ơn Chúa trời đã cho họ cuộc đời và phụng sự và tôi cầu nguyện Người ban cho tôi sự thông thái và sức mạnh trong các cuộc phiêu lưu ở phía trước. Buổi trưa, tôi chủ trì tiệc chiêu đãi các thống đốc bạn tôi ở Thư viện Nghị viện, cảm ơn họ vì tất cả những điều tôi đã học được từ họ trong 12 năm qua. Sau sự kiện buổi chiều ở Trung tâm Kennedy vinh danh trẻ em Mỹ, chúng tôi lái xe đến Trung tâm Capitol ở Landover, Maryland tham dự buổi hòa nhạc Gala, nơi Barbra Streisand, Wynton Marsalis, k.d. lang, các huyền thoại rock Chuck Berry và Little Richard, Michael Jackson, Aretha Franklin, Jack Nicholson, Bill Cosby, Vũ đoàn Alvin Alley Dance Theater, và những nghệ sĩ khác đem lại cho chúng tôi hàng giờ giải trí. Fleetwood Mac khiến cả đám đông đứng bật dậy với bài hát chủ đề của cuộc vận động có tên "Đừng bao giờ thôi nghĩ về ngày mai".

Sau buổi hòa nhạc, có một buổi lễ cầu nguyện muộn về đêm ở Nhà thờ Baptist Đệ nhất, và khi tôi về đến Blair House thì đã quá nửa đêm. Tôi vẫn chưa hài lòng với bài diễn văn nhậm chức, dù đã được sửa cho hay hơn. Người chấp bút cho tôi là Michael Waldman và David Kusnet chắc hẳn đã phải vò đầu bứt tai, vì khi chúng tôi luyện tập từ 1 giờ đến 4 giờ sáng ngày nhậm chức, tôi vẫn còn sửa thêm. Bruce Lindsey, Paul Begala, Bruce Reed, George Stephanopoulos, Michael Sheehan, và những người bạn văn hay chữ tốt của tôi Tommy Caplan và Taylor Branch, đã thức cùng tôi. Và Al Gore cũng thế. Đội ngũ nhân viên tuyệt hảo của Blair House đã quen chăm sóc các nguyên thủ quốc gia vốn làm việc vào những giờ giấc trái khoáy, vì thế họ luôn có sẵn những thùng cà phê giúp chúng tôi tỉnh táo và thức ăn nhẹ giúp chúng tôi có tâm trạng tốt nhất có thể. Đến lúc chuẩn bị chợp mắt vài tiếng tôi mới có cảm giác hài lòng hơn về bài diễn văn.

Bình minh sáng thứ tư lạnh và trời quang. Tôi bắt đầu ngày bằng buổi họp an ninh sáng sớm, sau đó tôi được hướng dẫn cách thức từ các phụ tá quân sự của tôi trong việc phóng vũ khí hạt nhân. Tổng thống có năm phụ tá quân sự, là năm sĩ quan trẻ xuất sắc lấy từ năm quân chủng; một trong số họ lúc nào cũng ở bên tổng thống.

Mặc dù chiến tranh hạt nhân có vẻ là không tưởng khi Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, nhưng nắm quyền kiểm soát kho vũ khí của chúng ta là lời nhắc nhở gây thức tỉnh về những trách nhiệm mà trong vài giờ tới tôi sẽ nắm. Biết về việc của tổng thống và làm tổng thống thực sự là hai việc khác nhau. Thật khó mà diễn tả bằng lời, nhưng tôi rời nhà khách Blair House với lòng hăm hở đan xen với sự hổ thẹn.

Hoạt động cuối cùng trước ngày nhậm chức là lễ cầu nguyện tại Nhà thờ Giám lý châu Phi Episcopal của nội đô Washington. Buổi lễ rất quan trọng đối với tôi. Với thông tin do Hillary và Al Gore cung cấp, tôi đã chọn thành phần chức sắc tôn giáo, ca sĩ và nền nhạc. Gia đình Hillary và gia đình tôi đều có mặt. Mẹ tôi rạng rỡ. Roger cũng tươi cười, và rất say sưa nghe nhạc. Cả hai mục sư ở quê tôi cũng tham gia buổi lễ, các mục sư của Al và Tipper cũng thế, và cả cha của George Stephanopoulos, Cha sở Chính thống giáo Hy Lạp của Nhà thờ Ba ngôi ở New York. Cha Otto Hentz, người mà gần 30 năm trước đã yêu cầu tôi cân nhắc khả năng trở thành tín đồ Dòng Tên, đọc lời cầu nguyện. Rabbi Gene Levy ở Little Rock và Imam Wallace D. Mohammad có lời phát biểu. Một vài chức sắc tôn giáo da đen là bạn của tôi cũng tham gia, với Tiến sĩ Gardner Taylor, một trong những người truyền giảng vĩ đại nhất nước Mỹ của bất cứ chủng tộc hay hệ phái nào, có bài nói chính của buổi lễ. Những người bạn theo phái Ngũ tuần của tôi ở Arkansas và Louisiana đã hát cùng với Phil Driscoll, một ca sĩ và nghệ sĩ thổi kèn tài ba mà Al biết ở Tennessee, và Carolyn Staley hát bài "Đừng sợ hãi", một trong những bài hát ưa thích của tôi, và cũng là một bài học hay. Tôi nhiều lần rơm rớm nước mắt trong thời gian buổi lễ, và khi buổi lễ kết thúc, tôi thấy tinh thần phấn chấn và sẵn sàng cho những giờ khắc sắp tới.

Chúng tôi quay lại Blair House để xem lại bài diễn văn lần cuối. Bài viết đã khá hơn kể từ lúc 4 giờ sáng. Lúc 10 giờ, Hillary, Chelsea và tôi bước qua đường đến Nhà Trắng, nơi ở ngay bậc thềm chúng tôi được Tổng thống Bush và Phu nhân chào đón và đưa vào trong uống cà phê với gia đình Gore và Quayle. Ron và Alma Brown cũng ở đó. Tôi muốn Ron chia sẻ giây phút mà ông ấy đã bỏ biết bao công sức để có được thời khắc ấy. Tôi thực sự ấn tượng trước cách xử lý rất vững vàng của Tổng thống Bush và Phu nhân trước tình hình tồi tệ và hoàn cảnh chia tay buồn bã - rõ ràng là họ đã trở nên thân thiết với một số thành viên của bộ phận nhân viên Nhà Trắng và sẽ nhớ họ nhiều, cũng như sẽ được họ nhớ rất nhiều. Vào khoảng 10:45, tất cả chúng tôi bước lên các xe limousine. Theo truyền thống, Tổng thống Bush và tôi cùng đi với nhau, kèm theo là Speaker Foley và Wendell Ford, vị thượng nghị sĩ có giọng khàn khàn ở Kentucky, cùng là đồng Chủ tịch của ủy ban Liên Nghị viện phụ trách Lễ Nhậm chức và là người làm việc không mệt mỏi giúp cho chiến thắng sít của Al và tôi ở tiểu bang của ông.

Thật may là dự án cải tạo Điện Capitol đang diễn ra đã buộc ba buổi lễ nhậm chức gần đây nhất phải tổ chức ở cánh tây tòa nhà. Trước đó, các buổi lễ diễn ra ở phía đối diện, nhìn ra Tòa án tối cao và Thư viện nghị viện. Ở đó hầu hết mọi người đến dự đều không thể nhìn thấy chi tiết buổi lễ. Đám đông đứng đầy quanh Điện Capitol và trải dài đến khu Mali và xuôi theo các đại lộ Constitution và Pennsylvania, được Cảnh sát Công viên Quốc gia ước tính vào khoảng từ 280.000 đến 300.000 người. Dù có bao nhiêu người đi nừa, đám đông cũng rất lớn, và chật ních những nhóm người khác nhau, già trẻ, đủ các sắc tộc và tôn giáo, từ nhiều tầng lớp xã hội. Tôi rất mừng là rất nhiều người từng làm cho ngày này trở thành hiện thực đã có thể đến để cùng tôi chia sẻ niềm vui.

Sự hiện diện của những người "Bạn của Bill" thể hiện mức độ mà tôi mang ơn đối với những người bạn của cá nhân tôi: bạn cũ ở Arkansas Marsha Scott và Martha Whetstone, những người đã tổ chức các cuộc vận động tranh cử cho tôi ở nam California; Sheila Bronfman, lãnh đạo của hội Lãng tử Arkansas từng sống gần Hallary và tôi khi tôi làm Bộ trưởng Tư pháp; Dave Matter, lãnh đạò chiến dịch tranh cử của tôi ở tây Pennsylvania và kế nhiệm chức lớp trưởng ở Georgetown; Bob Raymar và Tom Schneider, hai người quyên góp tiền quan trọng nhất của tôi và cũng là bạn học hồi ở trường luật và trong kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng. Còn rất nhiều người như họ đã làm cho ngày hôm nay trở thành hiện thực.

Buổi lễ bắt đầu lúc 11:30. Tất cả các nhân vật quan trọng bước lên sân khấu theo thứ tự lễ tân cùng với tùy tùng của quốc hội. Tổng thống Bush bước ra trước tôi trong khi ban nhạc Thủy quân lục chiến dưới sự chi huy của Đại tá John Bourgeois chơi bài "Hail to the Chief" cho cả hai chúng tôi. Tôi nhìn vào đám đông khổng lồ.

Sau đó Al Gore đọc lời tuyên thệ dưới sự giám sát của Thẩm phán Tòa tối cao Byron White. Đúng ra người giám sát đọc lời thề là Thẩm phán Tòa tối cao đã về hưu Thurgood Marshall, một luật sư vĩ đại đấu tranh cho quyền công dân và là thẩm phán da đen đầu tiên mà Tổng thống Johnson đã bổ nhiệm vào Tòa án tối cao, nhưng ông đang bị bệnh. Kể cũng khác thường nếu một thẩm phán đã về hưu lãnh vinh dự này, nhưng con trai của Marshall Thurgood Jr. là nhân viên của Gore. Người con khác là John, là binh sĩ tiểu bang Virginia, lại dẫn đầu đoàn hộ tống chúng tôi từ Monticello đến Washington. Marshall đã mất sau buổi lễ nhậm chức bốn ngày. Ông được tưởng nhớ và trân trọng bởi rất nhiều thế hệ người Mỹ, những người vẫn còn nhớ nước Mỹ đã như thế nào trước khi ông bước ra và thay đổi nó.

Sau khi Gore tuyên thệ, ca sĩ giọng mezzo-soprano vĩ đại Marilyn Horne, người mà tôi đã gặp lần đầu khi cô đến biểu diễn ở Little Rock vài năm trước, đã hát liên khúc những bài hát kinh điển Mỹ. Sau đó đến lượt tôi. Hillary đứng bên trái tôi, tay giữ cuốn Kinh thánh của gia đình tôi. Với Chelsea đứng bên phải, tôi đặt tay trái lên cuốn Kinh thánh, giơ cao tay phải, và lặp lại lời thề nhậm chức theo viên chức tư pháp Rehnquist, thề "điều hành một cách trung thành" văn phòng của tổng thống, và "tận trung duy trí, bảo vệ và gìn giữ Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, xin Chúa trời giúp con".

Tôi bắt tay viên chức tư pháp và Tổng thống Bush, sau đó ôm hôn Hillary và Chelsea và nói tôi rất yêu họ. Sau đó Thượng nghị sĩ Wendell Ford mời tôi bước lên bục với tư cách "Tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ". Tôi bắt đầu bằng cách đưa những khoảnh khắc hiện tại vào dòng chảy của lịch sử nước Mỹ:

Hôm nay chúng ta chào mừng điều bí ẩn của sự tái sinh của nước Mỵ. Buổi lễ này diễn ra vào giữa mùa đông. Nhưng, bằng những lời chúng ta nói và những khuôn mặt chúng ta thể hiện cho thế giới thấy, chúng ta đã bắt mùa xuân đến sớm. Một mùa xuân tái sinh trong lòng nền dân chủ lâu đời nhất thế giới, mang đến tầm nhìn và dũng khí để tái tạo lại nước Mỹ. Khi cha ông chúng ta mạnh dạn tuyên bố nền độc lập của nước Mỹ với thế giới cũng như ý định của chúng ta với Đấng Toàn năng, họ biết rằng để tồn tại được, nước Mỹ sẽ phải thay đổi... Mỗi thế hệ người Mỹ phải tự xác định cho mình rằng làm một người Mỹ nghĩa là phải như thế nào.

Sau khi nói lời chào mừng tới Tổng thông Bush, tôi mô tả tình hình hiện tại:

Hôm nay, một thê hệ lớn lên trong bóng tối của Chiến tranh Lạnh đang nhận lãnh những trách nhiệm mới trong một thế giới âm áp bởi ánh mặt trời tự do nhưng vẫn bị đe dọa bởi những hận thù xưa cũ và những nạn dịch mới. Lớn lên trong sự âm no không đâu sánh được, chúng ta thừa hưởng một nền kinh tế vẫn là mạnh nhất thế giới, nhưng đang suy yếu... Các lực lượng hùng mạnh và có ảnh hưởng lớn đang làm lung lay và xoay chuyển thế giới của chúng ta, và câu hỏi khẩn thiết của thời đại chúng ta là chúng ta làm cho thay đổi là bạn bè hay trở thành kẻ thù... Không có một rắc rối nào của nước Mỹ lại không thể được giải quyết bằng những thế mạnh của chính nước Mỹ.

Tuy vậy, tôi cảnh báo: "Sẽ không dễ dàng, sẽ cần có hy sinh... Chúng ta phải coi sóc quốc gia của chúng ta như gia đình coi sóc con cái vậy". Tôi kêu gọi đồng bào của tôi nghĩ về hậu thế, "thế giới trong tương lai - cái thế giới của những người mà chúng ta phải gìn giữ tư tưởng cho họ, của những người mà chúng ta mượn tạm hành tinh này của họ, và của những người mà chúng ta mang trách nhiệm cao cả đối với họ. Chúng ta phải làm điều mà nước Mỹ làm tốt nhất: đem lại nhiều cơ hội hơn cho tất cả và đòi hỏi trách nhiệm từ tất cả mọi người".

Tôi nói rằng, vào thời của chúng ta,

Không còn sự phân biệt rõ ràng giữa nước ngoài và nội địa. Nền kinh tế toàn cầu, môi trường toàn cầu, khủng hoảng AIDS toàn cầu, chạy đua vũ trang toàn cầu - tất cả đều ảnh hưởng đến chúng ta... Nước Mỹ phải tiếp tục dẫn đầu thế giới mà chúng ta đã bỏ bao công sức để tạo nên.

Tôi kết thúc bài diễn văn bằng lời thúc giục nhân dân Mỹ, nói với họ rằng, bằng lá phiếu của họ, họ đã "bắt mùa xuân đến sớm", nhưng một mình chính phủ sẽ không thể nào tạo ra quốc gia mà họ mong muốn: "Các bạn cũng phải đảm nhiệm vai trò của mình trong cuộc tái sinh này. Tôi thách thức thế hệ mới của những thanh niên Mỹ bước vào thời kỳ phụng sự... Còn rất nhiều việc phải làm... Từ đỉnh cao chói ngời của buổi lễ hôm nay, chúng ta nghe thấy tiếng kêu gọi phụng sự từ những thung lũng. Chúng ta đã nghe tiếng kèn. Chúng ta đã điểm binh. Và bây giờ, mỗi người, bằng cách riêng của mình và với sự giúp đỡ của Chúa Trời, chúng ta phải đáp lại lời kêu gọi này".

Mặc dù một vài nhà bình luận nói rằng bài diễn văn này thiếu cả những câu nói bóng bảy lẫn những điều cụ thể hấp dẫn nhưng tôi vẫn thấy hài lòng về nó. Nó có những đoạn hùng biện vụt sáng, rõ ràng. Bài nói cũng chỉ ra rằng chúng tôi sẽ giảm thâm hụt trong khi tăng các khoản đầu tư tối quan trọng vào tương lai của chúng ta, và nó thách thức người Mỹ làm nhiều hơn nữa để giúp những người thực sự cần được giúp và hàn gắn sự chia rẽ. Và bài nói cũng ngắn gọn, là bài phát biểu nhậm chức ngắn thứ ba trong lịch sử, sau bài nói nhậm chức lần thứ hai của Lincoln, vốn là một bài diễn văn tuyệt vời nhất mọi thời đại; và sau bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai của Washington vốn chỉ vỏn vẹn chưa tới hai phút. Chủ yếu là Washington chỉ nói, Cảm ơn, tôi sẽ quay lại làm việc, và nếu tôi làm việc không tốt, hãy khiển trách tôi. Ngược lại, William Henry Harrison đọc bài diễn văn dài nhất trong lịch sử, năm 1841, diễn thuyết hơn một tiếng đồng hồ giữa một ngày lạnh giá mà không mặc áo khoác đến mức bị viêm phổi nặng, làm ông mất mạng 33 ngày sau đó. ít ra tôi cũng ngắn gọn, thật may mắn và không đúng với phong cách của tôi, nhưng mọi người biết tôi nhìn thế giới như thế nào và tôi định làm gì.

Nhưng những lời hay nhất trong ngày là của Maya Angelou, một phụ nữ cao có giọng nói mạnh mẽ mà tôi đã đề nghị làm một bài thơ cho dịp đặc biệt này, nhà thơ đầu tiên làm như vậy kể từ khi Robert Frost phát biểu trong buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Kennedy năm 1961. Tôi đã theo dõi nghề nghiệp của Maya từ khi đọc cuốn tự truyện của bà, I Know Why the Caged Bird Sings - Tôi biết tại sao chim trong lồng lại hót, kể về những năm đầu đời bà khi còn là một cô gái câm đau khổ sống trong khu vực dành cho người da đen nghèo ở Stamps, Arkansas.

Bài thơ của Maya, On the Pulse of Morning - Theo Nhịp đập của Buổi sáng làm mê hoặc khán giả. Được viết trên nền tảng như một hòn đá tảng làm chỗ đứng chân, một con sông làm nơi ngơi nghỉ, một cây cao với rễ đâm nguồn từ mọi nền văn hóa và chủng tộc vốn làm nên bức tranh nước Mỹ, bài thơ thể hiện lời cầu xin tha thiết dưới hình thức một lời mời người ngồi bên:

Hãy ngẩng mặt lên, bạn đang cần ghê gớm

Buổi sáng rạng rỡ này sáng soi cho bạn

Lịch sử, dù phải đau quằn quại

Không thể vặn ngược, và khi đối mặt

Với lòng quả cảm thì đâu cần phải vặn ngược lại lần nữa

Hãy ngước mắt nhìn

Ngày mới đang đến vì bạn Lại làm hồi sinh

Những giấc mơ.

...

Nơi đây vào nhịp đập của ngày mới này

Bạn có thể duyên dáng nhìn lên

Đôi mắt của chị gái, và nhìn vào

Khuôn mặt của anh trai, nhìn vào đất nước của bạn

Và nói thật giản dị

Rất giản dị

Với niềm hy vọng

Chào buổi sáng tốt lành.

Billy Graham kết thúc buổi sáng tốt lành của chúng tôi bằng bài kinh chúc phúc ngắn gọn, sau đó Hillary và tôi rời sân khấu cùng với gia đình Bush bước xuống bậc thềm của Điện Capitol, nơi máy bay trực thăng của Tổng thống, Marine One, đang chờ đưa họ vào chặng đầu tiên trên đường về nhà. Chúng tôi quay vào trong ăn trưa với ủy ban Quốc hội, sau đó lái xe dọc theo đại lộ Pennsylvania đến lễ đài trước Nhà Trắng để duyệt buổi diễu hành nhậm chức. Cùng với Chelsea, chúng tôi bước ra khỏi xe và đi qua vài dãy nhà cuối cùng của con đường để có thể vẫy chào đám đông đứng nghẹt hai bên đường.

Sau buổi diễu hành, chúng tôi bước vào ngôi nhà mới của chúng tôi lần đầu tiên, chỉ có hai tiếng đồng hồ để chào hỏi nhân viên, nghỉ ngơi và chuẩn bị sẵn sàng cho buổi tối. Những người chuyển nhà đã đem đến một cách tài tình tất cả đồ đạc của chúng tôi trong thời gian buổi lễ nhậm chức và diễu hành.

Lúc 7 giờ, chúng tôi bắt đầu một buổi tối marathon bằng bữa tối, theo sau là đến dự tất cả 11 bữa tiệc nhậm chức. Em trai tôi hát tặng tôi tại Dạ hội MTV Trẻ, và ở một tiệc khác tôi song tấu saxophone với Clarence Clemons bài Night Train - Chuyến tàu đêm. Tuy nhiên, ở hầu hết các bữa tiệc, Hillary và tôi chỉ nói vài dòng ngắn ngủi lời cảm ơn, sau đó cùng nhau khiêu vũ trong tiếng nhạc ưa thích của tôi, bản "It Had to Be You", khoe bộ áo dạ hội màu tím tuyệt đẹp của cô ấy. Trong khi đó, Chelsea đàn đúm với đám bạn ở Arkansas trong Dạ hội MTV Trẻ, còn Al và Tipper có kế hoạch của riêng họ. Tại bữa tiệc của bang Tennessee, Paul Simon thết đãi khán giả bài hit của anh ấy "Bạn có thể gọi tôi là Al". Ở bữa tiệc Arkansas, tôi giới thiệu mẹ với Barbara Streisand và nói với cả hai rằng tôi nghĩ hai người sẽ hợp nhau. Họ còn hơn cả hợp nhau nữa. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè, và Barbara gọi cho mẹ tôi hàng tuần cho đến khi bà mất. Tôi vẫn giữ bức hình chụp hai người nắm tay nhau bước đi trong buổi tối nhậm chức đó.

Khi chúng tồi quay về Nhà Trắng đã hơn 2 giờ sáng. Chúng tôi phải dậy sớm sáng hôm sau để dự buổi tiếp công chúng, nhưng tôi đang hưng phấn đến mức chưa muốn đi ngủ ngay. Cả nhà đều có mặt: cha mẹ của Hillary, mẹ và Dick, các em của tôi, bạn của Chelsea ở quê, và bạn tôi, Jim và Diane Blair và Harry và Linda Thomason. Chỉ có ba mẹ chúng tôi là mệt.

Tôi muốn đi xem một vòng. Trước đây chúng tôi đã từng đến khu vực nhà ở của tổng thống ở lầu hai, nhưng lần này thì khác. Bây giờ là lúc bắt đầu làm quen với ý niệm rằng chúng tôi sẽ sống ở đây và sẽ phải biến nơi này thành căn nhà êm ấm của mình. Hầu hết các phòng đều có trần cao, nội thất đẹp nhưng tiện lợi. Phòng ngủ và phòng khách của tổng thống quay về hướng nam, một phòng nhỏ kế bên phòng ngủ là phòng khách của Hillary. Chelsea có phòng ngủ và phòng học đối diện qua hành lang, ngay cạnh phòng ăn trang trọng và căn bếp nhỏ. Ở đầu kia của hành lang là các phòng ngủ chính dành cho khách, một trong số đó từng là phòng làm việc của Lincoln và có một bản viết tay bài diễn văn ở Gettysburg của ông.

Bên cạnh Phòng ngủ của Lincoln là Phòng Hiệp ước, có tên như vậy là vì hiệp ước kết thúc cuộc chiến Tây Ban Nha - Mỹ được ký ở đây năm 1898. Trong nhiều năm đây là phòng làm việc riêng của tổng thống, thường được gắn nhiều tivi để người đứng đầu hành pháp có thể xem tất cả các chương trình một lúc. Tôi tin rằng Tổng thống Bush có bốn cái tivi ở đó. Tôi quyết định phải sửa nơi này thành chỗ yên tĩnh để tôi có thể đọc, suy tưởng, nghe nhạc, và tổ chức những buổi gặp mặt nhỏ. Thợ mộc của Nhà Trắng đã đóng cho tôi những giá sách từ sàn nhà lên đến trần, và các nhân viên đem vào cái bàn mà hiệp ước đình chiến Tây Ban Nha - Mỹ được ký kết trên đó. Năm 1869, cái bàn này dùng để họp nội các dưới thời Ulysses Grant, có đủ chỗ cho tổng thống và bảy lãnh đạo các bộ của ông ngồi quanh. Từ năm 1898, bàn này được dùng để ký kết tất cả các hiệp ước, kể cả hiệp ước tạm thời cấm thử vũ khí hạt nhân dưới thời Tổng thống Kennedy và Thỏa ước Trại David dưới thời Tổng thống Carter. Trước khi năm kết thúc, tôi cũng sẽ dùng bàn này.

Tôi lấp đầy phòng bằng một cái sofa Chippendale cuối thế kỷ 18, món đồ nội thất xưa nhất trong bộ sưu tập của Nhà Trắng, và một cái bàn cổ do Mary Todd Lincoln mua, trên đó chúng tôi đặt một cái cúp tưởng niệm hiệp ước 1898. Khi tôi đem sách và CD đến, treo một vài tấm ảnh cũ, có cả bức ảnh năm 1860 chụp Abraham Lincoln và bức hình nổi tiếng của Yousuf Karsh chụp Churchill, nơi này có không khí thoải mái, yên bình mà tôi có thể dành hàng giờ tại đây trong những năm tiếp theo.

Trong ngày đầu tiên làm tổng thống, tôi đưa mẹ đến Vườn Hồng để chỉ cho bà xem chính xác nơi tôi đã đứng bắt tay Tổng thống Kennedy gần 30 năm trước. Sau đó, trái với lệ thường, chúng tôi mở cửa Nhà Trắng cho công chúng, bán vé cho 2.000 người được chọn qua một cuộc xổ số bằng bưu thiếp. Al, Tipper, Hillary và tôi đứng xếp hàng, bắt tay với những người có vé, sau đó bắt tay những người khác đứng dưới mưa lạnh chờ đến lượt mình được bước qua cánh cửa thấp hơn phía nam để vào Phòng Tiếp tân Ngoại giao để nói lời chào. Một thanh niên cương quyết đã đi nhờ xe suốt đêm đến Nhà Trắng, trên tay không có vé mà chỉ có chiếc túi ngủ. Sau sáu tiếng đồng hồ, chúng tôi phải ngưng, vì thế tôi bước ra ngoài và nói chuyện với đám đông còn lại đang tụ tập ở Bãi cỏ phía Nam. Đêm đó, tôi và Hillary đứng thêm vài tiếng nữa để chào những người bạn ở Arkansas và bạn học ở Georgetown, Wellesley và Yale.

Vài tháng sau ngày nhậm chức, một cuôn sách được xuất bản với đầy những bức hình chụp rất đẹp thể hiện được hết sự phân khích và ý nghĩa của tuần nhậm chức đó, với lời tựa ảnh do Rebecca Buffum Taylor viết. Trong lời giới thiệu cuốn sách, Taylor viết:

Phải mất thời gian mới thay đổi được các giá trị chính trị. Ngay cả khi thành công, muốn thấy rõ sự đổi thay ấy cũng phải mất hàng tháng hoặc hàng năm, cho đến khi tầm nhìn được mở rộng và lùi ra xa lần nữa cho đến lúc viễn cảnh và trung cảnh nhập lại với cận cảnh mà chúng ta nhìn thấy ngày hôm nay.

Những lời nhận xét này rất sắc sảo, và có lẽ là đúng. Nhưng tôi không thể chờ hàng năm, hàng tháng, thậm chí hàng ngày để xem liệu cuộc vận động tranh cử và buổi lề nhậm chức có tác động đến việc thay đổi các giá trị, củng cố thêm cội nguồn và vươn tới cộng đồng người Mỹ hay không. Tôi còn quá nhiều việc phải làm, và lại một lần nữa, công việc nhanh chóng chuyển từ thơ sang văn xuôi, và không phải tất cả đều hay.