← Quay lại trang sách

Chương 29 (tt)

Trong ngày 11 và 18 tháng 12, tôi tiến đến gần mục tiêu tuyển chọn một chính quyền đa dạng nhất trong lịch sử. Ngày 11, tôi bổ nhiệm Hiệu trưởng Đại học Wisconsin Donna Shalala làm Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Con người và Carol Browner, giám đốc tiểu bang về môi trường của Florida, làm người đứng đầu Cơ quan Bảo vệ Môi trường. Hillary và tôi đã biết Shalala, một phụ nữ chỉ cao khoảng 1,5m gốc Libăng nhưng hoạt động không biết mệt, trong nhiều năm. Tôi không biết Browner trước khi tôi phỏng vấn bà ấy, nhưng thấy ấn tượng với bà; và Al Gore muốn bà ấy vào chức vụ đó. Cả hai người phụ nữ này đã phục vụ trong suốt tám năm của tôi, đạt được nhiều thành tựu. Ngày 15, tin được tung ra rằng tôi sẽ mời Bác sĩ Joycelyn Elders, phụ trách y tế của Arkansas và là người phụ nữ da đen thứ hai từng tốt nghiệp trường Y Arkansas cũng như một chuyên gia toàn quốc về bệnh tiểu đường ở trẻ em, làm bác sĩ trưởng Hoa Kỳ, quan chức y tế công cộng hàng đầu ở Mỹ.

Ngày 17, tôi tuyên bố chọn Henry Cisneros làm Bộ trưởng Nhà ở và Phát triển đô thị. Với sự kết hợp hiếm thấy giữa tài năng chính trị và một trái tim biết đồng cảm, Henry đã trở thành chính trị gia gốc nổi tiếng Tây Ban Nha được ưa chuộng nhất ở Mỹ. Ông ấy hoàn toàn đủ khả năng cho vị trí đó, với thành tích xuất sắc khi làm thị trưởng San Antonio và khôi phục lại sinh khí cho thành phố này. Tôi còn bổ nhiệm Jesse Brown, một cựu thủy quân lục chiến gốc Phi từng ở Việt Nam và đang là giám đốc điều hành tổ chức Thương binh Mỹ, làm Bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh.

Ngày 21 tháng 12, tôi bổ nhiệm Hazel O'Leary, một giám đốc gốc Phi của Công ty Năng lượng các tiểu bang phía Bắc ở Minnesota, làm Bộ trưởng Năng lượng, và Dick Riley, làm Bộ trưởng Giáo dục. Hazel là một chuyên gia về khí tự nhiên, và tôi muốn ủng hộ phát triển thêm loại năng lượng này vì nó sạch hơn dầu và than, lại có trữ lượng nhiều. Dick và tôi là bạn của nhau trong nhiều năm. Cung cách khiêm tốn của anh ấy dễ làm người ta tưởng lầm. Anh ấy dù bị đau cột sống từ lâu nhưng vẫn xây nên được một sự nghiệp chính trị và luật thành công cũng như một gia đình êm ấm. Ngoài ra, anh ấy cũng từng là một thống đốc rất giỏi về chính sách giáo dục. Trong cuộc vận động tranh cử, tôi thường dẫn ra một bài báo viết rằng Arkansas đã đạt nhiều tiến bộ về giáo dục trong 10 năm qua hơn bất cứ bang nào khác trừ Nam Carolina.

Ngày thứ ba, 22 tháng 12, tôi công bố toàn bộ đội hình an ninh quốc gia của tôi: Warren Christopher làm Bộ trưởng Ngoại giao, Les Aspin làm Bộ trưởng Quốc phòng, Madeleine Albright làm đại sứ ở Liên hiệp quốc, Tony Lake làm Cố vấn An ninh Quốc gia, Jim Woolsey làm Giám đốc Cục tình báo Trung ương, và Đô đốc Bill Crowe làm Giám đốc ủy ban Cố vấn Tình báo Hải ngoại của tổng thống.

Christopher từng là Thứ trưởng Ngoại giao của Tổng thống Carter và đóng vai trò lớn trong việc đàm phán thả con tin Mỹ khỏi Iran. Ông ấy cũng đóng góp tốt cho tôi trong quá trình chọn phó tổng thống và các chức vụ nội các, ngoài ra còn chia sẻ các mục tiêu đối ngoại cơ bản của tôi. Vài người nghĩ rằng tính cách riêng của ông ấy hạn chế sự hiệu quả của ông ấy, nhưng tôi biết ông ấy sẽ làm được việc.

Tôi đề nghị Les Aspin làm Bộ trưởng Quốc phòng sau khi biết rõ rằng Sam Nunn sẽ không chấp nhận bổ nhiệm vào chức vụ này. Là Chủ tịch ủy ban Lực lượng Vũ trang Hạ viện, Aspin có lẽ biết nhiều vê quốc phòng hơn bất kỳ ai trong hạ viện, hiểu các thách thức an ninh trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, và cam kết hiện đại hóa quân đội để đáp ứng các thách thức đó.

Tôi đã rất ấn tượng với Madeleine Albright, một giáo sư được ưa chuộng ở Đại học Georgetown, từ lần đầu tôi gặp bà trong chiến dịch cho Dukakis. Người gốc Tiệp Khắc và là bạn của Václav Havel, bà ấy là một người ủng hộ mạnh mẽ dân chủ và tự do. Tôi cho rằng bà ấy sẽ là một phát ngôn viên lý tưởng cho chúng tôi tại Liên hiệp quốc trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Vì tôi còn muốn bà ấy cố vấn về các vụ việc an ninh quốc gia, tôi nâng hàm đại sứ tại Liên hiệp quốc lên cấp nội các.

Quyết định chọn ai làm cố vấn an ninh quốc gia thật khó đối với tôi, vì cả Tony Lake lẫn Sandy Berger đều rất giỏi trong việc dạy dỗ và cố vấn cho tôi về đối ngoại trong suốt cuộc vận động. Tony lớn tuổi hơn chút ít và Sandy từng làm việc cho ông ấy trong Bộ Ngoại giao dưới thời Carter, nhưng tôi lại quen Sandy lâu hơn và biết rõ anh hơn. Cuối cùng, chuyện này được giải quyết khi Sandy đến gặp tôi và đề nghị tôi bổ nhiệm Tony làm cố vấn an ninh quốc gia, còn chính anh thì làm phó.

Chức vụ ở CIA được bổ nhiệm cuối cùng. Tôi muốn chọn Dân biểu Dave McCurdy của Oklahoma làm Chủ tịch ủy ban Tình báo Hạ viện, nhưng thật thất vọng, ông ấy từ chối. Tôi đã gặp Jim Woolsey, một nhân vật lão làng trong cơ câu đối ngoại của Washington, vào cuối năm 1991 tại một cuộc thảo luận về an ninh quốc gia mà Sandy Berger tổ chức với một nhóm đa dạng những người Dân chủ cũng như phe độc lập có quan điểm mạnh mẽ hơn về an ninh quốc gia và quốc phòng hơn là đảng chúng tôi đưa ra. Woolsey rõ ràng là thông minh và quan tâm đến vị trí này. Sau một lần phỏng vấn, tôi đề nghị ông ấy vào việc đó.

Sau khi tuyên bố các chức vụ an ninh quốc gia, cũng gần sát đến thời hạn tôi tự đặt ra cho mình là phải bổ nhiệm xong nội các trước giáng sinh. Vào ngày giáng sinh, chúng tôi làm xong: ngoài việc chính thức công bố bổ nhiệm Mickey Kantor, tôi đề cử Dân biểu Mike Epsy của Mississippi làm Bộ trưởng Nông nghiệp; Federico Pena, cựu Thị trưởng Denver, làm Bộ trưởng Giao thông; cựu Thống đốc Arizona Bruce Babbitt làm Bộ trưởng Nội vụ; và Zoe Baird, luật sư trưởng Công ty Aetna Life and Casualty, làm Bộ trưởng tư pháp nữ đầu tiên.

Epsy hoạt động tích cực trong DLC, hiểu các vấn đề nông nghiệp, và, cùng với Dân biểu Bill Jefferson của New Orleans và John Lewis của Atlanta, là một trong những lãnh đạo da đen nổi trội bên ngoài Arkansas tuyên bố ủng hộ tôi. Tôi không biết rõ Pena lắm, nhưng ông ấy từng là một thị trưởng giỏi và dẫn đầu trong việc xây dựng sân bay mới khổng lồ của Denver. Ngành hàng không đang gặp khó khăn và cần một bộ trưởng giao thông hiểu biết các rắc rối ấy. Bruce Babbitt là một trong những bạn đồng nghiệp thống đốc ưa thích của tôi. Sáng láng, phá cách, và khôn ngoan, ông ấy đã thắng cử ở nơi theo truyền thống thuộc phe Cộng hòa là Arizona và đã thành công trong vai trò một thống đốc hành động, tiến bộ. Tôi hy vọng ông ấy sẽ tiến hành nghị trình về môi trường của chúng tôi mà ít bị các bang miền tây tẩy chay hơn so với Tổng thống Carter.

Ban đầu, tôi hy vọng bổ nhiệm Vernon làm Bộ trưởng Tư pháp. Anh ấy là một luật sư về dân quyền tài giỏi và được giới kinh doanh Mỹ coi trọng. Nhưng cũng như James Carville, Vemon không muốn làm việc trong chính quyền. Khi anh ấy rút lui đầu tháng 12, trong một lần nói chuyện ở hiên sau của dinh thống đốc, tôi xem xét nhiều người trước khi cuối cùng chọn Zoe Baird.

Tôi không biết Zoe cho tới khi phỏng vấn cô ấy. Ngoài việc làm ở công ty Aetna, cô từng phục vụ trong Nhà Trắng thời Carter, từng là một người ủng hộ người nghèo, và dù mới 40 tuổi, cô ấy có vẻ như hiểu biết già dặn kỳ lạ về vai trò của bộ trưởng tư pháp cũng như các thách thức và cô ấy phải đối mặt.

Dù sau này tôi còn nâng cấp nhiều vị trí lên hàng nội các, bao gồm vị trí vua ma túy, giám đốc Cơ quan doanh nghiệp nhỏ, và giám đốc Cơ quan liên bang xử lý tình trạng khẩn cấp (FEMA), tôi đã đạt được thời hạn bổ nhiệm trước giáng sinh một nội các có năng lực không thể phủ nhận và một sự đa dạng chưa từng có.

Đó là chuyện hay, nhưng không phải là chuyện lớn nhất lúc đó. Tổng thống Bush đã tặng một món quà giáng sinh hậu hĩnh cho vài cộng sự cũ của ông, và có thể là cho chính mình, khi ông ân xá Caspar Weinberger và năm người khác lúc đó bị kết án trong vụ xìcăngđan Iran-Contra mà Công tô viên độc lập Lawrence Walsh phụ trách. Vụ xử Weinberger sắp sửa tiến hành, và Tổng thống Bush có thể sẽ bị gọi ra làm chứng. Walsh giận dữ chỉ trích quyết định ân xá là sự che đậy kéo dài sáu năm, tuyên bố rằng nó "làm nguy hại cho nguyên tắc không ai được đứng trên pháp luật. Nó cho thấy rằng giới có quyền lực và có đồng minh quyền lực có thể phạm những tội ác nghiêm trọng ở chức vụ cao - cố tình lạm dụng lòng tin của công chúng - mà không chịu hậu quả". Vì sẽ không có nhân chứng nào bị lôi ra nữa nên giả sử nếu có thêm thông tin tình tiết gì thì bây giờ chúng cũng sẽ không được làm sáng tỏ nữa. Mới hai tuần trước, Walsh phát hiện ra rằng tổng thống và luật sư của ông là Boyden Gray đã không chịu đưa ra các ghi chép của tổng thống vào thời điểm diễn ra và liên quan đến vụ Iran-Contra, dù nhiều lần được yêu cầu.

Tôi không đồng ý với các quyết định ân xá đó và có thể làm lớn chuyện hơn nhưng đã không làm vì ba lý do. Thứ nhất, Hiến pháp quy định quyền ân xá của tổng thống là tuyệt đối. Thứ hai, tôi muốn đất nước đoàn kết hơn chứ không phải bị chia rẽ hơn, ngay cả khi sự chia rẽ đó là lợi thế chính trị cho tôi. Cuối cùng, Tổng thống Bush đã phục vụ đất nước hàng chục năm, và tôi nghĩ chúng ta nên cho ông ấy yên bình về hưu, để chuyện kia cho lương tâm ông tự phán xét.

Vào ngày sau giáng sinh, tôi nhận được một bất ngờ thú vị khi người ta thông báo rằng tạp chí Time sẽ bầu tôi là "Người của năm", viết rằng tôi đã được trao cho cơ hội "để cầm quyền ở một trong những chu kỳ tái sáng tạo lại đất nước - thời điểm mà người Mỹ vượt ra khỏi những vấn đề rối rắm nhất của mình bằng cách tự nhìn mình theo một cách mới". Khi được hỏi về vinh dự này, tôi nói tôi cảm thấy rất vui sướng nhưng lo lắng về một thế giới đang cam go, về chuyện có thể bị sa lầy vì có quá nhiều việc phải làm, và về việc liệu chuyển tới Washington có tốt cho Chelsea hay không. Chelsea sau này hoà nhập được, nhưng những nỗi lo còn lại của tôi sau này chứng tỏ rằng chúng hoàn toàn có cơ sở.

Hillary, Chelsea và tôi đón năm mới ở Hilton Head trong kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng, như chúng tôi vẫn làm hàng năm trong gần một thập niên. Tôi thích gặp bạn cũ, chơi bóng đá chạm trên bãi biển với bọn nhóc và vài lượt golf bằng bộ gậy mới mà Hillary tặng. Tôi thích tham dự các ban tranh luận, nơi lúc nào tôi cũng học được nhiều từ mọi người khi họ nói về đủ thứ từ chuyện khoa học đến chính trị đến tình yêu. Năm đó, tôi đặc biệt thích chủ đề "Nếu ăn trưa với tổng thống, bạn sẽ nói gì với ông ấy?".

Trong khi đó, Tổng thống Bush đang đi công cán rộng khắp nơi. Ông thăm binh sĩ của chúng ta ở Somalia, sau đó gọi điện cho tôi nói ông đang sang Nga để ký một hiệp ước giới hạn vũ khí chiến lược, START II, với Boris Yeltsin. Tôi ủng hộ hiệp ước và nói tôi sẵn sàng đưa hiệp ước ra trước thượng viện để phê chuẩn. Bush cũng giúp tôi khi nói với các lãnh đạo thế giới rằng ông ấy muốn tôi "kế nhiệm làm tổng thống" và rằng họ sẽ thấy "có thể làm việc được với tôi" về các vấn đề quan trọng.

Ngày 5 tháng 1, Hillary và tôi tuyên bố chúng tôi sẽ ghi danh cho Chelsea học một trường tư, Sidwell Friends. Cho tới lúc đó, Chelsea vẫn luôn học trường công, và ở quận Columbia cũng có vài trường công tốt. Sau khi bàn với Chelsea, chúng tôi quyết định chọn Sidwell chủ yếu vì trường này đảm bảo sự riêng tư cho con bé. Chelsea sắp 13 tuổi, Hillary và tôi muốn con bé có cơ hội sống những năm thiếu niên của mình một cách bình thường nhất có thể. Chelsea cũng muốn như vậy.

Ngày 6 tháng 1, chỉ còn hai tuần trước ngày nhậm chức, và là ngày trước khi tôi họp lần đầu với bộ phận phụ trách kinh tế của mình, giám đốc OMB của chính quyền Bush là Richard Darman tuyên bố mức thâm thủng ngân sách trong năm tới còn cao hơn ước tính trước đây. (Nhân viên của tôi tin rằng Darman biết trước chuyên này nhưng đã trì hoãn việc công bố tin xấu này cho đến sau cuộc bầu cử). Dù gì đi nữa, giờ đầy sẽ khó khăn hơn khi xem xét các ưu tiên: cắt giảm một nửa thâm thủng ngân sách mà không làm yếu đi sự phục hồi kinh tế vốn dễ tổn thương trong ngắn hạn; tìm ra sự kết hợp giữa cắt giảm chi tiêu và tăng các khoản thuế cần thiết để giảm thâm thủng và tăng chi tiêu trong các lĩnh vực tối quan trọng cho sự thịnh vượng kinh tế dài hạn; và đảm bảo công bằng về thuế cho dân chúng lao động trung lưu và thu nhập thấp.

Ngày hôm sau, bộ phận kinh tế họp lại trong phòng ăn ở dinh thống đốc để bàn bạc tình trạng khó xử này và xem xét các lựa chọn chính sách nhằm tạo ra tăng trưởng nhiều nhất. Theo thuyết kinh tế của Keynes truyền thống, chính phủ phải giữ mức thâm hụt ngân sách trong thời kỳ kinh tế khó khăn, và giữ ngân sách cân bằng hoặc thặng dư trong thời kinh tế phát triển tốt. Do đó, việc kết hợp cắt giảm chi tiêu và tăng thuế cần thiết để giảm một nửa thâm thủng ngân sách có vẻ không phải là liều thuốc đúng đắn trong thời điểm hiện nay. Đó chính là lý do tại sao FDR, sau khi trúng cử với lời hứa cân bằng ngân sách, đã phải từ bỏ việc giảm thẵm thủng và chuyển sang tăng chi tiêu để tạo thêm công ăn việc làm và kích thích khu vực kinh tế tư nhân.

Khó khăn của việc áp dụng cách phân tích thông thường vào tình trạng hiện thời là ở chỗ dưới thời Reagan và Bush, chúng ta đã gây ra một kiểu thâm hụt mang tính cấu trúc lớn và tồn tại ngay cả khi kinh tế phát triển tốt lẫn khi suy thoái. Khi Tổng thống Reagan nắm quyền, nợ quốc gia là 1.000 tỷ đôla. Khoản nợ này tăng gấp ba lần trong tám năm ông cầm quyền, nhờ vào các khoản giảm thuế lớn năm 1981 và việc tăng chi tiêu. Dưới thời Tổng thống Bush, nợ tiếp tục tăng thêm 1/3 nữa, chỉ trong bốn năm. Bây giờ thì nó đạt mức 4.000 tỷ đôla. Khoản trả lãi hàng năm của số nợ này là mục chi lớn thứ ba trong ngân sách liên bang sau quốc phòng và bảo hiểm xã hội.

Thâm thủng ngân sách là kết quả tất yếu của cái gọi là thuyết kinh tế dựa trên mặt cung, vốn cho rằng càng cắt giảm thuế thì nền kinh tế càng tăng trưởng, và sự tăng trưởng này tạo ra khoản thu các mục thuê thấp nhiều hơn là ít mục thuế cao trước đây. Tất nhiên thuyết này không hiệu quả, và mức thâm thủng bùng nổ trong suốt thời kỳ hồi phục thập niên 1980. Dù thuyết này là một thuyết kinh tế dở, phe Cộng hòa vẫn bám víu vào nó vì thái độ chống thuế truyền thống của họ, và vì trong ngắn hạn, thuyết này có lợi về mặt chính trị. "Chi tiêu nhiều hơn, đánh thuế ít hơn" nghe êm tai và thực sự cảm thấy dễ chịu, nhưng nó đã kéo đất nước sa xuống hố sâu và tạo nên một áng mây đen che phủ tương lai của con cháu chúng ta.

Cùng với thâm hụt thương mại lớn của chúng ta, thâm hụt ngân sách buộc chúng ta phải vay mượn những khoản vốn khổng lồ từ nước ngoài mỗi năm để lấy tiền cho kiểu chi vượt mức của chúng ta. Để có thể thu hút được khoản tiền đó và tránh mất giá đồng đôla chúng ta đã phải giữ cho mức lãi suất cao hơn mức thỏa đáng trong thời kỳ kinh tế xuống dốc trước khi tôi được bầu làm tổng thống. Mức lãi suất cao đó làm cản trở tăng trưởng kinh tế và biến thành một mức thuế gián tiếp khổng lồ đè lên vai người Mỹ trung lưu, phải trả nhiều hơn tiền góp nhà, góp xe, và tất cả các giao dịch khác bắt nguồn từ vay ngân hàng.

Khi chúng tôi ngồi lại với nhau, Bob Rubin điều hành cuộc họp và đề nghị Leon Panetta phát biểu trước. Leon nói mức thâm hụt ngày càng tệ hại vì tiền thu từ thuế giảm xuống do nền kinh tế chật vật, trong khi chi tiêu lại tăng, khi số người đủ tiêu chuẩn nhận trợ giúp của chính phủ tăng cộng thêm chi phí y tế nhảy vọt. Laura Tyson nói nếu tình trạng hiện thời tiếp diễn, nền kinh tế có lẽ sẽ tăng trưởng từ 2,5 đến 3% trong vài năm tới, không đủ để giảm thất nghiệp hoặc đảm bảo sự hồi phục bền vững. Tiếp đó chúng tôi bàn đến vấn đề hóc búa nhất, khi một trong các cố vấn kinh tế của tôi là Alan Blinder được yêu cầu phân tích xem liệu một kế hoạch giảm thâm hụt mạnh mẽ có thể kích thích tăng trưởng và tạo việc làm hay không bằng cách giảm lãi suất xuống, vì chính phủ sẽ không cạnh tranh nhiều với khu vực tư nhân trong vay ngân hàng. Blinder nói rằng điều đó sẽ xảy ra, nhưng các tác động tích cực sẽ bị ảnh hưởng trong vài năm bởi tác động kinh tế tiêu cực của việc giảm chi chính phủ hoặc tăng thuế, trừ khi Fed (Federal Reserve) và thị trường trái phiếu đáp ứng kế hoạch của chúng tôi bằng cách hạ đáng kể lãi suất xuống. Blinder cho rằng sau quá nhiều lời hứa rỗng tuếch về giảm thâm thủng trong vài năm qua, một phản ứng tích cực và mạnh mẽ của thị trường trái phiếu có lẽ hiếm khi xảy ra. Larrỵ Summers không đồng tình, nói rằng một kế hoạch hay có thể thuyết phục thị trường đó hạ lãi suất vì khi nền kinh tế hồi phục thì sẽ không còn nguy cơ lạm phát. Anh ấy dẫn ra trường hợp vài nước châu Á để làm chứng cho quan điểm của mình.

Đây là lần đầu trong số nhiều lần trao đổi sau này của chúng tôi về quyền lực của các tay buôn bán trái phiếu 30 tuổi đối với đời sống của người dân Mỹ bình thường. Những lời kêu ca to tiếng của tôi và của Bob Rubin về những người này nghe thì có vẻ buồn cười, nhưng đây là vấn đề cực kỳ nghiêm túc. Tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc vẫn ở mức hơn 7%, chúng tôi phải làm một điều gì đó. Tyson và Blinder có vẻ như đề xuất rằng để đảm bảo sự lành mạnh dài hạn của nền kinh tế, chúng tôi phải cắt giảm thâm hụt, nhưng làm như vậy sẽ làm chậm tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Bentsen, Altman, Summers và Panetta đồng tình với lập luận về thị trường trái phiếu và tin rằng giảm thâm hụt sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Rubin chỉ điều hành cuộc họp, nhưng tôi biết anh ấy đồng ý với họ. Al Gore cũng vậy.

Bob Reich không dự họp nhưng gửi tôi một báo cáo vào hôm sau, lập luận rằng trong khi tỷ lệ phần trăm nợ trong GDP cao hơn thỏa đáng, các khoản đầu tư vào giáo dục/ đào tạo, nghiên cứu không liên quan đến quốc phòng và phát triển đều chiếm tỷ lệ thấp trong GDP so với thời kỳ trước thời Reagan, và việc thiếu đầu tư này cũng làm hại cho nền kinh tế như thâm hụt vậy. Anh ấy nói mục tiêu không phải là giảm thâm hụt một nửa mà là phải đẩy mức thâm hụt cũng như mức đầu tư bằng tỷ lệ trong GDP từ thời trước Reagan. Anh ấy lập luận rằng đầu tư sẽ tăng năng suất, tạo tăng trưởng và công ăn việc làm khiến chúng tôi có thể giảm mức thâm hụt, nhưng nếu chúng tôi chỉ chăm chú vào giảm thâm hụt thì với một nền kinh tế trì trệ và số thu nhỏ giọt, chúng tôi sẽ không thể giảm nửa thâm hụt được. Tôi nghĩ Gene Sperling đồng ý với Reich.

Khi tôi xem xét tất cả những thứ này, chúng tôi tiếp tục bàn luận xem dùng cách nào để có được giảm thâm hụt mà chúng tôi cần. Trong kế hoạch tranh cử của tôi, có tên Putting People First - Đặt người dân lên trước, tôi từng đề nghị cắt giảm ngân sách hơn 140 tỷ đôla. Nay thì mức thâm thủng đã cao hơn, chúng tôi sẽ phải cắt giảm ngân sách hơn nữa để đạt được mục tiêu giảm nửa thâm hụt trong vòng bốn năm. Việc này dẫn đến thảo luận xem cắt ngân sách trong lĩnh vực nào. Ví dụ như ta có thể tiết kiệm khá nhiều nếu giảm bớt tiền trợ cấp sinh hoạt, được gọi là COLA, trong các khoản bảo hiểm xã hội. Nhưng như Hillary chỉ cho tôi thấy, gần một nửa người Mỹ trên 65 tuổi trông cậy vào tiền bảo hiểm xã hội để sống trên mức nghèo khổ; cắt giảm COLA sẽ làm hại họ. Chúng tôi chưa phải đưa ra quyết định cuối cùng, và cũng chưa thể vì chưa được quốc hội chấp thuận, nhưng dù quyết định như thế nào đi nữa thì rõ là sẽ không dễ dàng.

Trong khi vận động tranh cử, ngoài cắt giảm ngân sách, tôi còn đề nghị tăng thêm các khoản thu mới, tất cả lấy từ các công ty và cá nhân giàu có. Bây giờ, để cắt giảm một nửa thâm hụt, chúng tôi cũng sẽ phải tăng thêm nguồn thu. Và gần như chắc chắn chúng tôi sẽ phải bỏ việc giảm thuế rộng rãi cho giới trung lưu, dù tôi vẫn quyết tâm giảm thuế cho các gia đình lao động có thu nhập dưới hoặc bằng 30.000 đôla/năm bằng cách tăng gấp đôi khoản nợ thuế thu nhập. Thu nhập của những người này trong 20 năm qua ngày càng giảm, và họ cần được trợ giúp; hơn nữa, chúng tôi phải làm cho các việc làm lương thấp trở nên hấp dẫn hơn là ngồi nhà nhận trợ cấp của chính phủ nếu chúng tôi muốn thành công trong việc khuyến khích người ta bỏ nhận trợ cấp và đi làm. Lloyd Bentsen xem xét danh sách các khoản thuế có thể tăng, và nói rằng bất cứ khoản nào củng khó mà được thông qua nhưng điều quan trọng nhất vẫn là phải thành công. Nếu kế hoạch của chúng tôi thất bại ở quốc hội, nó có thể gây nguy hiểm cho quyền tổng thống của tôi. Bentsen bảo chúng tôi nên trình ra một vài phương án lựa chọn cho quốc hội, để nếu tôi không được thông qua một hay hai lựa chọn nào đó thì tôi vẫn có thể tuyên bố thành công và tránh bị tổn thương về chính trị.

Sau lần trình bày về thuế, Roger Altman và Larry Summers lập luận ủng hộ cho một kế hoạch kích thích ngắn hạn đi kèm với kế hoạch giảm thâm hụt. Họ đề nghị cắt giảm chi phí và thuế doanh nghiệp khoảng 20 tỷ đôla, mà trong trường hợp tốt nhất sẽ thúc đẩy nền kinh tế, và trong trường hợp xấu nhất - khả năng này theo họ khoảng 20% - thì cũng ngăn nó không trượt trở lại suy thoái. Sau đó Gene Sperling trình lên các lựa chọn đầu tư mới, cố thúc đẩy lựa chọn nhiều tiền nhất, khoảng 90 tỷ đôla và sẽ giúp tôi hoàn tất mọi cam kết khi tranh cử của mình ngay lập tức.

Sau các lần đệ trình trên, tôi quyết định rằng những người ủng hộ cắt giảm thâm hụt có lý. Nếu chúng tôi không giảm đáng kể thâm hụt, mức lãi suất sẽ vẫn cao và ngăn không cho nền kinh tế hồi phục mạnh mẽ và bền vững. Al Gore cũng rất đồng thuận việc này. Nhưng, khi bàn đến cần giảm thâm hụt bao nhiêu, tôi lại e ngại về khả năng trì trệ ngắn hạn mà Laura Tyson và Alan Blinder dự đoán trước - khả năng mà Roger Altman và Gene Sperling lo sợ - có thể xảy ra. Sau gần sáu giờ, chúng tôi đã bắt đầu nghiêng về hướng giảm thâm hụt. Rõ ràng là việc hoạch định chính sách kinh tế, ít ra là trong môi trường này, không phải là khoa học, và nếu nó là nghệ thuật thì nó phải làm sao vừa mắt người xem trong thị trường trái phiếu.

Một tuần sau, chúng tôi họp lần thứ hai, trong đó tôi bỏ cắt giảm thuế cho tầng lớp trung lưu; đồng ý xem xét tiết kiệm trong bảo hiểm xã hội, chương trình Medicare và Medicaid; và ủng hộ đề xuất của Al Gore đặt mức thuế năng lượng, gọi là thuế BTU, đánh trên mức nhiệt của năng lượng ở cấp độ bán sỉ. Al nói rằng tuy BTU sẽ gây tranh cãi ở các bang có sản xuất than, dầu và khí tự nhiên, nó sẽ đánh vào tất cả các khu vực của nền kinh tế, làm giảm gánh nặng trên vai người tiêu dùng thông thường, và sẽ khuyến khích tiết kiệm năng lượng, một việc chúng tôi rất cần.

Trong nhiều giờ nữa, chúng tôi lại tranh luận xem chúng tôi phải giảm bao nhiêu trong số thâm hụt, xem xét bắt đầu từ năm năm trước cho tới thời điểm hiện tại. Gore rất cứng rắn, nói rằng nếu chúng tôi nhắm giảm càng nhiều thâm hụt càng tốt, chúng tôi sẽ được uy tín là dũng cảm và tạo ra một thực tại mới mà có thể làm được những việc trước đây cho là không thể, như buộc những ai nhận bảo hiểm xã hội mà có thu nhập trên một mức nhất định nào đó phải đóng thuế thu nhập. Rivlin đồng ý với Gore. Blinder nói như thế cũng có thể được nếu Fed và thị trường trái phiếu tin tưởng chúng tôi. Tyson và Altman thì nghi ngờ việc tránh được các hậu quả kinh tế ngắn hạn. Sperling và Reich, cả hai đều dự lần họp này, thì ủng hộ tăng đầu tư.

Đó cũng là ý của Greenberg, Mandy Grunwald, và Paul Begala - những người không dự họp nhưng sợ rằng tôi đang hy sinh mọi thứ tôi từng tin tưởng dưới sức ép của những người không tham gia gì vào chiến dịch tranh cử và không quan tâm gì đến những người Mỹ bình thường đã bầu tôi làm tổng thống. Cuối tháng 11, Stan gửi tôi một bản ghi nhớ nói rằng tuần trăng mật của tôi với cử tri sẽ rất ngắn ngủi trừ phi tôi hành động nhanh chóng nhằm đáp ứng các vấn đề việc làm và thu nhập giảm. 60% số người nói tài chính của họ tồi tệ đi từ năm 1992, tức khoảng 1/3 số cử tri, đã bỏ phiếu cho tôi. Anh ấy cho rằng tôi có thể đánh mất sự ủng hộ của họ bằng kế hoạch này. George Stephanopoulos, người có dự họp, phải cố giải thích cho Stan và đồng minh của anh này rằng việc thâm hụt ngân sách đang giết chết nền kinh tế, và nếu chúng tôi không giải quyết thì sẽ chẳng còn hồi phục kinh tế nào cả và cũng không còn khoản thu từ thuế để chi vào giáo dục, cắt giảm thuế cho lớp trung lưu, hoặc bất cứ thứ gì khác. Bentsen và Panetta muốn quốc hội thông qua mức giảm thâm hụt càng nhiều càng tốt, không nhiều đến mức mà Gore và Rivlin muốn, nhưng vẫn khá nhiều. Rubin, với tư cách người chủ trì, vẫn giữ nguyên lập trường, nhưng tôi cảm thấy ông ấy đồng ý với Bentsen và Panetta. Sau khi nghe hết ý kiến mọi người, tôi cũng đồng ý như vậy.

Một lần, tôi hỏi Bentsen chúng tôi phải giảm thâm hụt bao nhiêu thì mới được thị trường trái phiếu ủng hộ. Anh ấy bảo khoảng 140 tỷ đôla trong năm thứ năm, và tổng cộng năm năm là 500 tỷ đôla. Tôi quyết định sẽ giữ con số 500 tỷ này, nhưng ngay cả khi đã cắt giảm chi ngân sách và tăng thu, chúng tôi vẫn có thể không tài nào đạt được mục tiêu cắt giảm một nửa thâm hụt trước cuối nhiệm kỳ thứ nhất của tôi. Tất cả đều phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng.

Vì chiến lược của chúng tôi có thể gây ra một giai đoạn trì trệ ngắn hạn, chúng tôi tìm cách thúc đẩy thêm tăng trưởng. Tôi gặp lãnh đạo của các hãng sản xuất xe hơi Big Three và Owen Bieber, chủ tịch Nghiệp đoàn công nhân xe hơi. Ông này nói dù xe hơi Nhật chiếm gần 30% thị trường Mỹ, Nhật Bản vẫn là thị trường đóng đối với xe hơi và các nhà cung cấp phụ tùng xe hơi Mỹ. Tôi đề nghị Mickey Kantor tìm cách mở cửa thêm thị trường Nhật. Đại diện của các ngành công nghệ sinh học tăng trưởng nhanh nói với tôi rằng khoản tín dụng thuế dành cho nghiên cứu và phát triển của chúng tôi cần được mở rộng và làm sao cho có thể hoàn thuế được với các công ty non trẻ, thường chưa đủ tiền để xin tín dụng toàn phần theo quy định hiện nay. Họ còn muôn có sự bảo hộ mạnh mẽ hơn đối với các bằng sáng chế của họ trước cạnh tranh không công bằng, và các sửa đổi khác cũng như đẩy nhanh quá trình Cơ quan An toàn Thực và Dược phẩm thẩm định và cấp phép sản phẩm của họ. Tôi nói với bộ phận lo về kinh tế phân tích các đề nghị của họ và đề xuất. Cuối cùng, tôi ra lệnh tiến hành nghiên cứu một đề xuất kích thích trị giá 20 tỷ đôla nhằm tăng các hoạt động kinh tế trong ngắn hạn.

Tôi không ưa gì việc phải bỏ không giảm thuế cho tầng lớp trung lưu, nhưng với mức thâm hụt càng tồi tệ hơn, tôi không còn chọn lựa nào khác. Nếu chiến lược của chúng tôi thành công, tầng lớp trung lưu sẽ được hưởng lợi trực tiếp hơn nhiều giảm thuế - dưới dạng tiền góp nhà thấp hơn và lãi suất thấp hơn trong các khoản góp tiền xe, mua bằng thẻ tín dụng và vay tiền học đại học. Chúng tôi cũng sẽ không thể tăng chi tiêu nhiều như tôi đề nghị hồi tranh cử, ít nhất là trong giai đoạn đầu. Nhưng nếu việc giảm mức thâm hụt làm hạ lãi suất xuống và tăng tốc độ phát triển, nguồn thu từ thuế sẽ tăng lên, và tôi vẫn có thể đạt được các mục tiêu đầu tư của tôi trong bốn năm. Đó là một chữ "nếu" khá lớn.

Ngoài ra còn một chữ "nếu" lớn khác nữa. Chiến lược của tôi chỉ thành công nếu quốc hội phê chuẩn. Sau thất bại của Bush, phe Cộng hòa còn chống tăng thuế hơn lúc nào hết, và hầu như không có hoặc có rất ít trong số họ sẽ bỏ phiếu thuận cho bất cứ kế hoạch nào tôi đưa ra mà có thuế mới trong đó. Nhiều người phe Dân chủ đến từ các khu vực bảo thủ cũng sẽ mệt mỏi với việc bỏ phiếu cho thuế, và phe Dân chủ cấp tiến có ngôi vị yên ổn cũng có thể không ủng hộ nếu cắt giảm ngân sách quá nhiều trong các chương trình mà họ tin tưởng vào.

Sau một cuộc vận động mà các vấn đề kinh tế của nước Mỹ là chủ đề chính, vào thời điểm trên toàn thế giới tốc độ tăng trưởng chỉ nhích lên từng chút, tôi bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống của mình với một chiến lược kinh tế vô tiền khoáng hậu. Nó có thể đem lại những lợi ích khổng lồ nếu tôi có thể thuyết phục quốc hội thông qua ngân sách, và nếu nó được sự đáp ứng đầy kỳ vọng của Quỹ Dự trữ Liên bang và thị trường trái phiếu. Các lập luận ủng hộ nó khá thuyết phục, nhưng quyết định đối nội quan trọng nhất trong kỳ tổng thống của tôi vẫn là một canh bạc lớn.

Trong khi phần lớn thời gian bàn giao bận bịu với việc bổ nhiệm nội các và các vị trí khác, cũng như đưa ra chiến lược kinh tế, một số việc khác cũng xảy ra vào lúc này. Ngày 5 tháng 1, tôi tổ chức họp và tuyên bố tôi sẽ tạm thời tiếp tục chính sách của Tổng thống Bush là ngăn chặn và cho hồi hương người Haiti tìm cách đến Mỹ bằng thuyền, một chính sách tôi từng chỉ trích mạnh mẽ hồi tranh cử. Sau khi trung tướng Raoul Cedras và đồng minh lật đổ tổng thống được bầu của Haiti là Jean-Bertrand Aristide năm 1991, những người Haiti ủng hộ Aristide bắt đầu bỏ đảo quốc này ra đi. Khi chính quyền Bush, có vẻ ủng hộ Cedras hơn tôi, bắt đầu trả dân tị nạn lại, cộng đồng nhân quyền bắt đầu phản đối ồn ào. Tôi muốn làm sao cho người Haiti dễ tìm kiếm tị nạn chính trị ở Mỹ hơn, nhưng lo rằng số lượng lớn người tị nạn sẽ chết trong khi cố đến Mỹ bằng những chiếc thuyền rách nát tạm bợ trên biển lớn, chỉ một tuần trước khoảng 400 người đã vượt biển như vậy. Vì vậy, theo lời khuyên của bộ phận an ninh của chúng tôi, tôi nói rằng thay vì nhận hết những người Haiti nào sống sót sau chuyến vượt biển sang Mỹ, chúng tôi sẽ tăng cường sự hiện diện chính thức của Mỹ ở Haiti và tăng tốc xem xét các yêu cầu tị nạn ở đấy. Trong lúc đó, vì các lý do an toàn, chúng tôi sẽ tiếp tục ngăn chặn tàu thuyền và trả hành khách về Haiti. Trớ trêu thay, trong khi các nhóm nhân quyền chỉ trích tuyên bố này thì báo giới lại coi đây là sự trung thành với lời hứa khi tranh cử, và Tổng thống Aristide ủng hộ quan điểm của tôi. Ông ấy biết chúng tôi sẽ đem thêm nhiều người Haiti tới Mỹ hơn chính quyền Bush, và ông ấy không muốn đồng bào mình chết chìm.

Ngày 8 tháng 1, tôi bay xuống Austin, Texas, nơi tôi từng sống và làm việc cho McGovern hơn 20 năm trước. Sau một bữa ăn trưa đoàn tụ với bạn cũ từ hồi đó ở quán Beer Garden của Scholtz, tôi có cuộc họp đầu tiên với một lãnh đạo nước ngoài: Tổng thống Mexico Carlos Salinas de Gortari. Salinas rất gắn bó với Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) mà ông từng thương thuyết với Tổng thống Bush. Chúng tôi được chiêu đãi bởi người bạn lâu năm, Thống đốc Ann Richards, cũng là một ủng hộ viên đắc lực cho NAFTA. Tôi muốn gặp sớm với Salinas để làm rõ rằng tôi quan tâm đến sự thịnh vượng và ổn định của Mexico, để đưa ra ý kiến của mình về tầm quan trọng của các thỏa thuận phụ về môi trường và lao động nhằm tăng cường cho hiệp định, và để có sự phối hợp nhiều hơn trong việc chống vận chuyển ma túy.

Ngày 13, đề cử cho chức bộ trưởng tư pháp của tôi là Zoe Baird gặp rắc rối khi chuyện vỡ lở ra rằng cô ấy đã thuê hai người nhập cứ lậu làm người giúp việc, và chỉ đến khi được xem xét làm ở bộ tư pháp thì cô ấy mới đóng tiền bảo hiểm xã hội cho hai người làm công này. Việc thuê dân nhập cư bất hợp pháp làm việc thời điểm đó cũng không phải hiếm hoi gì, nhưng đối với Zoe thì nó là một chuyên rắc rối, vì bộ trưởng tư pháp quản lý Sở Di trú. Vậy là khó có cơ Zoe được chuẩn y vào chức vụ này, nên thứ trưởng tư pháp tại vị phụ trách dân sự vụ là Stuart Gerson tạm thời giữ quyền bộ trưởng. Chúng tôi cũng cử Webb Hubbell, trợ lý bộ trưởng chỉ định, sang Bộ Tư pháp để phụ giúp mọi việc.

Trong hai ngày kê tiếp, chúng tôi công bố bổ nhiệm thêm các vị trí nhân viên Nhà Trắng. Ngoài George Stephanopoulos làm giám đốc thông tin, tôi còn bổ nhiệm Dee Dee Myers làm bí thư báo chí nữ đầu tiên của Nhà Trắng; đưa Eli Segal phụ trách việc thiết lập chương trình dịch vụ toàn quốc mới; và bổ nhiệm Rahm Emanuel làm giám đốc phụ trách chính trị, và Alexis Herman làm giám đốc liên lạc công cộng. Tôi còn đem nhiều người từ Arkansas lên: Bruce Lindsey sẽ phụ trách nhân sự, bao gồm cả các ủy ban bể nhiệm; Carol Rasco sẽ là trự lý của tôi về chính sách đối nội; Nancy Hernreich, người lên lịch làm việc của tôi ở văn phòng thống đốc, sẽ coi sóc hoạt động của Văn Phòng Bầu dục, phòng của bà ấy nằm ngay ngoài phòng tôi; David Watkins sẽ quản lý các chức năng hành chính của Nhà Trắng; Ann McCoy, quản lý hành chính dinh thống đốc, đến làm việc ở Nhà Trắng; và người bạn thân lâu đời Vince Foster của tôi đồng ý đến làm ở văn phòng luật sư tư vấn.

Trong số những người không tham gia chiến dịch tranh cử là Bemie Nussbaum, đồng nghiệp của Hillary trong trong cuộc điều tra truất phế tổng thông Nixon năm 1974 - anh này được chọn làm luật sư của Nhà Trắng; Ira Magaziner, bạn học cùng lớp ở Oxford, đến làm việc về cải cách y tế; Howard Paster, một tay vận động hành lang đầy kinh nghiệm ở Washington, sẽ nắm giữ các mối quan hệ với quốc hội của chúng tôi; Katie McGinty, lựa chọn của Al Gore cho vị trí chính sách môi trường; và Betty Currie, thư ký của Warren Christopher trong thời kỳ bàn giao, cũng sẽ làm thư ký cho tôi. Andrew Friendly, một thanh niên Washington trẻ sẽ làm phụ tá tổng thống, cùng đi khắp nơi với tôi và đảm bảo sao cho tôi đọc các báo cáo chuẩn bị và giữ liên lạc với Nhà Trắng khi chúng tôi đi vắng. Al cũng có nhân viên riêng, với người cùng quê Tennessee Roy Neel làm chánh văn phòng. Hillary cũng vậy, và chánh văn phòng của cô ấy là Maggie Williams, bạn cũ của cô ấy.

Tôi cũng tuyên bố ủng hộ đối với việc David Wilhelm, Quản lý chiến dịch tranh cử của tôi, kế nhiệm Ron Brown làm Chủ tịch ủy ban Dân chủ. David còn trẻ và không có được danh tiếng công chúng như Ron Brown, nhưng hầu như chẳng ai có thể có danh tiếng bằng Ron Brown cả. Thế mạnh của David là tổ chức cấp cơ sở, và đảng của chúng tôi rất cần xốc lại ở cấp địa phương và tiểu bang. Bây giờ chúng tôi đã nắm Nhà Trắng, tôi nghĩ Al Gore và tôi đằng nào cũng sẽ phải gánh vác phần to lớn trong việc gây quỹ và các công tác quần chúng khác.

Ngoài việc bổ nhiệm, tôi còn đưa ra tuyên bố ủng hộ hành động quân sự mà Tổng thống Bush đã tiến hành ở Iraq, và lần đầu tiên nói rằng tôi sẽ tiếp tục thúc đẩy đưa tổng thống Serbia Slobodan Milosevic ra xét xử vì tội ác chiến tranh. Việc này sẽ còn tốn rất nhiều thời gian.

Trong thời gian này, tôi còn tổ chức một tiệc trưa cho các mục sư Tin Lành tại dinh thống đốc. Mục sư của tôi, Rex Horne, gợi ý tôi làm việc này, và đưa ra danh sách khách mời. Rex cho rằng thảo luận thân mật với họ sẽ giúp ích để tôi ít ra thì cũng có vài kênh liên lạc qua lại với cộng đồng Cơ đốc. Khoảng 10 mục sư tới dự, trong đó có các nhân vật nổi tiếng toàn quốc như Charles Swindoll, Adrian Rogers, và Max Lucado. Chúng tôi cũng mời mục sư của Hillary ở Nhà thờ Giám lý Đệ nhất Little Rock là Ed Matthews, một người tuyệt vời mà chúng tôi biết sẽ trung tín với chúng tôi nếu như bữa tiệc trưa đó biến thành một cuộc cãi vã. Tôi đặc biệt ấn tượng với vị mục sư trẻ và có tài ăn nói của Nhà thờ Cộng đồng Willow Creek gần Chicago là Bill Hybels. Anh ấy xây dựng nhà thờ của mình từ con số không và phát triển nó thành một trong những hội thánh lớn nhất ở Mỹ. Như những người khác, anh ấy không đồng ý với tôi về việc phá thai và quyền của giới đồng tính, nhưng anh còn quan tâm đến các vấn đề khác nữa, và quan tâm đến việc cần phải có ê kíp lãnh đạo như thế nào mới có thể chấm dứt thế bế tắc đảng phái và chấm dứt sự cay cú ở Washington. Trong 8 năm, Bill Hybels thường xuyên đến thăm tôi, để cầu nguyện cùng tôi, tư vấn cho tôi, và kiểm tra cái mà anh gọi là "sức khỏe tâm hồn" của tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cãi nhau. Đôi khi, chúng tôi thậm chí còn đồng ý với nhau. Nhưng anh ấy luôn là một phước lành đối với tôi.

Đầu tuần cuối cùng ở Arkansas của tôi, khi xe tải chuyển nhà đậu đầy sân, tôi dành cho báo giới Arkansas một cuộc phỏng vấn chia tay, thú nhận cảm giác lẫn lộn vừa tự hào vừa nuối tiếc khi phải rời xa quê nhà: "Tôi đã hạnh phúc, tự hào và buồn đến phát khóc lên vài lần... Tôi yêu cuộc sống của mình ở đây". Một trong những việc cuối cùng trước khi rời đi Washington là chuyện cá nhân. Chelsea có một con ếch mà con bé nuôi ban đầu chỉ để học ở trường. Chúng tôi đem chú mèo Socks theo cùng, nhưng Chelsea quyết định muốn thả con ếch để nó có được "một cuộc sống bình thường". Chelsea nhờ tôi làm việc đó, nên vào ngày cuối cùng ở Arkansas, tôi chạy bộ xuống sông Arkansas, lấy cái hộp giày trong có đựng con ếch, trèo ra một bờ dốc đứng và thả con ếch đi. ít ra một trong số chúng tôi được trở về với đời sống bình thường.

Thời gian còn lại chúng tôi phấn khích về cuộc phiêu lưu mới, nhưng cũng lo ngại nữa. Chelsea không thích phải xa bạn bè và thế giới mà con bé đã biết rõ, nhưng chúng tôi bảo con bé sẽ được mời bạn đến thăm thường xuyên. Hillary thì phân vân không biết sẽ cảm thấy ra sao nếu không còn sự độc lập của việc tự đi làm kiếm tiền, nhưng cô ấy cũng hăm hở trở thành một đệ nhất phu nhân toàn thời gian, vừa để theo đuổi công tác chính sách mà cô ấy yêu thích, vừa để hoàn tất các trách nhiệm thông thường của vị trí này. Cô ấy làm tôi ngạc nhiên với lượng thời gian cô dành để nghiên cứu lịch sử Nhà Trắng, các vai trò khác nhau mà cô ấy sẽ phải đảm nhiệm ở đó, và những đóng góp quan trọng của những người tiền nhiệm của cô ấy. Mỗi lần Hillary chuẩn bị bước vào một thách thức mới, cô ấy luôn thấy bứt rứt lúc đầu, nhưng khi đã nắm được rồi thì cô ấy thoải mái hơn và trở lại vui vẻ. Tôi không thể trách cô ấy vì đã cảm thấy hơi lo lắng. Chính tôi cũng vậy.

Thời kỳ bàn giao thật cực kỳ bận rộn và khó khăn. Nhìn lại, chúng tôi đã chọn lựa nội các và các quan chức dưới nội các khá tốt, những người có khả năng và phản ánh được sự đa dạng của nước Mỹ. Nhưng tôi đã phạm sai lầm khi không bổ nhiệm một nhân vật Cộng hòa nổi bật nào vào vị trí trong nội các nhằm thể hiện ước nguyện xây dựng sự phối hợp lưỡng đảng của tôi. Tôi cũng giữ được cam kết ià sẽ đặt kinh tế lên hàng đầu, với một đội ngũ phụ trách kinh tế hạng nhất, tổ chức một hội nghị cấp cao về kinh tế, và có một quá trình đưa ra quyết định với đầy đủ thông tin và hoàn toàn được phép tranh luận kỹ càng. Và như tôi đã hứa, Al Gore là một đồng sự đầy đủ trong chính quyền mới, tham gia vào tất cả các cuộc họp chiến lược và việc lựa chọn thành viên nội các cũng như nhân viên Nhà Trắng, trong khi vẫn duy trì hoạt động công chúng thường xuyên.

Trong và sau thời gian bàn giao, tôi bị chỉ trích vì đã không đáp ứng đúng cam kết khi tranh cử là cắt giảm thuế cho tầng lớp trung lưu, giảm một nửa thâm hụt ngân sách trong bốn năm, và nhận thuyền nhân Haiti. Ở hai vấn đề đầu, khi tôi trả lời tôi chẳng qua chỉ đáp ứng trước các con số thâm hụt cao hơn mong đợi, một số nhà phê bình nói chắc chắn tôi phảĩ biết chính quyền Bush đã nói bớt đi con số thâm hụt cho đến sau cuộc bầu cử, và do đó tôi lẽ ra đã không nên dùng các số thống kê chính thức trong khi hoạch định kế hoạch kinh tế. Tôi không coi trọng mấy lời phê phán đó lắm. Ngược lại, tôi nghĩ vài chỉ trích về vụ thuyền nhân Haiti là có cơ sở, nếu xét đến những tuyên bố của tôi trong thời gian tranh cử. Dù vậy, tôi vẫn quyết tâm đem nhiều người muốn tỵ nạn đến Mỹ an toàn, và sau đó là khôi phục lại quyền lực cho Tổng thống Aristide. Nếu tôi thành công, cam kết của tôi sẽ được hoàn thành.

Tôi còn bị chỉ trích vì bổ nhiệm Zoe Baird, vì xu hướng của tôi muốn biết mọi thứ đang xảy ra, và vì dùng quá nhiều thời gian vào việc ra quyết định. Những chỉ trích đó có phần nào sự thật. Zoe đã không che giấu gì vụ thuê người làm đó, chẳng qua là chúng tôi đã không đánh giá đúng tầm quan trọng của nó. Còn về cách quản lý của tôi, tôi biết mình còn phải học nhiều, và tôi đã dùng thời gian bàn giao để hấp thu càng nhiều càng tốt về càng nhiều khía cạnh càng tốt trong công việc của một tổng thống. Ví dụ như tôi không hối tiếc một phút giây nào dành để tìm hiểu nền kinh tế trong thời kỳ này. Nó đã giúp tôi đứng vững trong tám năm tiếp theo. Mặt khác, tôi vẫn luôn có xu hướng làm quá nhiều thứ, việc này góp phần làm tôi kiệt sức, cáu bẳn và danh tiếng lề mề thật xứng của mình.

Tôi biết giai đoạn bàn giao chỉ là món khai vị của ngôi vị tổng thống: mọi việc xảy ra cùng một lúc. Tôi sẽ còn phải trao quyền nhiều hơn và lập được một quá trình ra quyết định hợp lý hơn thời làm thống đốc. Tuy nhiên, chuyện nhiều vị trí nội các chưa được lựa chọn xong liên quan nhiều đến chuyện phe Dân chủ đã mất quyền trong 12 năm liền. Chúng tôi phải thay thế rất nhiều'người, chúng tôi muốn dang tay ra để tìm được nhiều người với thành phần đa dạng, và có rất nhiều ứng viên để chọn. Hơn nữa, quá trình tìm người đã trở nên phức tạp đến mức nó làm tốn quá nhiều thời gian, vì các nhân viên điều tra liên bang soi mói từng mẩu giấy một và dò tìm theo từng lời đàm tiếu một để tìm cho được những người không bị chính giới và báo giới làm thịt.

Nhìn lại, tôi nghĩ các thiếu sót chính của thời kỳ bàn giao có hai việc: tôi dành quá nhiều thời gian để chọn nội các nên không còn thời gian để chọn nhân viên Nhà Trắng, và tôi hầu như không suy nghĩ gì về việc làm sao để giữ cho công chúng tiếp tục tập trung vào các ưu tiên quan trọng nhất của tôi, chứ không phải vào các chuyện đồn đãi, mà trong trường hợp tốt nhất cũng làm lạc hướng chú ý của công chúng khỏi các vấn đề lớn, và trong trường hợp xấu nhát thì tạo ra ấn tượng rằng tôi đang bỏ bê các ưu tiên đó.

Vấn đề thực sự với đội ngũ nhân viên là ở chỗ phần lớn họ đến từ chiến dịch tranh cử hoặc Arkansas, và không có kinh nghiệm làm việc trong Nhà Trắng hoặc ứng xử trong văn hóa chính trị ở Washington. Các nhân viên trẻ của tôi có tài, trung thực, và tận tụy, và tôi cảm thấy mình nợ nhiều người trong số họ cơ hội được phục vụ đất nước bằng cách làm việc ở Nhà Trắng. Dần dà, họ sẽ dày đạn lên và sẽ thành công. Nhưng trong những tháng đầu quan trọng ấy, cả đội ngũ nhân viên lẫn tôi đều vừa làm vừa học, và một số bài học đã được học một cách khá đắt giá.

Chúng tôi cũng không chú ý đến việc đưa ra thông điệp như hồi còn tranh cử, dù chính quyền, thậm chí tổng thống, cũng khó đưa ra các thông điệp mà ta muốn hàng ngày. Như tôi đã nói, mọi việc diễn ra cùng một-lúc, và bất cứ chuyện gây tranh cãi nào cũng có thể chiếm cứ tin tức truyền thông hơn một quyết định về chính sách, dù là quan trọng đến đâu. Đó chính là trường hợp Zoe Baird và vấn đề người đồng tính trong quân đội. Dù những chuyện này chỉ chiếm ít thời gĩàn của tôi, nếu dân chúng coi bản tin tối mà cho là tôi không dành thời gian vào việc gì khác ngoài mấy việc đó thì cũng có thể hiểu được. Nếu chúng tôi cố gắng nhiều hơn để xử lý thách thức này trong thời gian bàn giao, tôi chắc là chúng tôi đã có thể xoay xở tốt hơn.

Dù có những vấn đề như vậy, tôi nghĩ việc bàn giao đã diễn ra khá trôi chảy. Và có vẻ như người dân Mỹ cũng nghĩ vậy. Trước khi tôi đến Washington, một cuộc thăm dò do truyền hình NBC News và tạp chí Wall Street Journal thực hiện cho thấy 60% ủng hộ tôi, tăng lên từ chỉ có 32% vào tháng 5. Hillary còn được nhận xét tốt hơn; có 66% người được hỏi thấy cô ấy là "một hình mẫu tích cực cho phụ nữ Mỹ", tăng lên từ 39% trong cuộc trưng cầu trước đó. Một cuộc thăm dò khác do một tổ chức lưỡng đảng tiến hành cho thấy 84% dân chúng đồng tình với hoạt động của tôi kể từ sau khi được bầu. Tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Bush cũng tăng lên, gần 20 điểm, đạt 59%. Những đồng bào của tôi đã lấy lại được sự lạc quan vào nước Mỹ, và họ đang cho tôi một cơ hội thành công.

Ngày 16 tháng 1, khi Hillary, Chelsea và tôi nói lới tạm biệt những người bạn ra tiễn chúng tôi ở sân bay Little Rock, tôi nghĩ đến lời chia tay cảm động của Abraham Lincoln tới dân chúng Springfield, Illinois, khi ông lên tàu để đến Nhà Trắng: "Các bạn của tôi - Không một ai chưa từng ở tình cảnh của tôi hiện nay có thể hiểu nổi tâm trạng buồn bã trong lần giã biệt này. Tôi mang nợ tất cả với nơi này, với sự tốt bụng của những người dân ở đây... Với niềm tin vào [Chúa trời], người đi cùng với tôi, ở lại với các bạn và hiện diện khắp mọi nơi đời đời, hãy cùng hy vọng rằng mọi việc sẽ tốt lành". Tôi thì không nói hay được như Lincoln, nhưng tôi cố hết sức để chuyển tải thông điệp đó đến đồng hương Arkansas của tôi. Khôrig có họ, tôi đã chẳng thể nào bước chân lên chuyến bay đó.

Chúng tôi bay đến Virginia, nơi chúng tôi bắt đầu các sự kiện nhậm chức tại Monticello, quê hương của Thomas Jefferson. Trên chuyến bay, tôi nghĩ về tầm vóc lịch sử của kỳ bầu cử của tôi và những thách thức lớn lao nằm ở phía trước. Việc tôi trúng cử đại diện cho một sự chuyển giao thế hệ ở Mỹ, từ thế hệ cựu binh Thế chiến hai sang thế hệ baby-boom, thế hệ vừa bị chê là hư hỏng và tự kỷ, vừa được khen là có lý tưởng và muốn hy sinh cho sự nghiệp chung. Dù là cấp tiến hay bảo thủ, thái độ chính trị của chúng tôi được hình thành bởi Việt Nam, dân quyền, và sự hỗn độn của năm 1968 với những cuộc biểu tình, bạo loạn và ám sát. Chúng tôi cũng là thế hệ đầu tiên cảm thấy toàn bộ sức mạnh của phong trào phụ nữ mà người sắp thấy tác động của nó trong Nhà Trắng. Hillary sẽ là Đệ nhất phu nhân thành công về mặt nghề nghiệp chuyên môn nhất trong lịch sử. Vì cô ấy đã ngưng hành nghề luật và ngưng làm ở các ủy ban, lần đầu tiên thu nhập của tôi sẽ là nguồn hỗ trợ duy nhất cho gia đình chúng tôi kể từ khi cưới nhau, và cô ấy sẽ tự do sử dụng tài năng dồi dào của mình như một cộng sự toàn thời gian trong công việc của chúng tôi. Theo tôi, cô ấy có thể tạo ra tác động tích cực hơn bất cứ Đệ nhất phu nhân nào từ thời Eleanor Roosevelt. Tất nhiên, hoạt động như vậy sẽ gây nhiều tranh cãi về cô ấy hơn đối với những ai vốn cho rằng đệ nhất phu nhân nên tránh xa chuyên chính trị, hoặc với những người khác thái độ chính trị với chúng tôi. Nhưng chính điều đó cũng là một phần của ý nghĩa cuộc chuyển giao thế hệ của chúng tôi.

Rõ ràng, chúng tôi đại diện cho một cuộc đổi gác, nhưng liệu chúng tôi có thể vượt qua được thử thách của thời kỳ nhiễu loạn này không? Liệu chúng tôi có thê phục hồi được nền kinh tế, tiến bộ xã hội và vai trò chính đáng của chính quyền? Liệu chúng tôi có thể chặn được những xung đột tôn giáo, chủng tộc và màu da đang ngày càng nổi lên trên toàn thế giới? Và theo lời xưng tụng "Người của năm" trên báo Time, liệu chúng tôi có thể dẫn dắt nhân dân Mỹ "vượt ra khỏi những vấn đề rối rắm nhất của mình bằng cách tự nhìn mình theo một cách mới"? Bất chấp thắng lợi của chúng tôi trong Chiến tranh Lạnh và sự nổi lên của phong trào Dân chủ trên thế giới, những thế lực mạnh mẽ vẫn đang chia rẽ người dân và xé tan những hạt nhân dễ vỡ của các cộng đồng, cả trong lẫn ngoài nước. Trước những thách thức đó, nhân dân Mỹ đã thử vận hội của họ với tôi.

Khoảng ba tuần sau cuộc bầu cử, tôi nhận được một lá thư đáng lưu ý từ Robert McNamara, người với từ cách là bộ trưởng quốc phòng dưới thời Kennedy và Johnson, tiến hành cuộc chiến Việt Nam. Ông ấy đã vì cảm động mà viết cho tôi sau khi đọc một bài báo về tình bạn của tôi với bạn cùng phòng ở Oxford là Frank Aller, người từng chống quân dịch và sau đó tự sát vào năm 1971. Ông ấy viết thế này:

Đối với tôi - và tôi tin rằng với cả đất nước nữa - cuộc chiến Việt Nam cuối cùng đã kết thúc vào ngày mà anh được bầu làm tổng thống. Bằng lá phiếu, nhân dân Mỹ cuối cùng đã nhận ra rằng những người như Aller và Clinton khi họ đặt câu hỏi về sự khôn ngoan và đạo đức trong quyết định của chính phủ liên quan đến Việt Nam đã không hề kém yêu nước hơn những người mang quân phục. Nỗi đau khổ khi anh cùng những người bạn của anh mổ xẻ xem xét những hành động của chúng tôi năm 1969 là rất đau đớn đối với anh lúc đó, và tôi chắc rằng những vấn đề được khơi lại trong chiến dịch tranh cử cũng làm động đến các vết thương cũ. Nhưng với danh dự anh có khi đáp trả các cú tấn công ấy, và việc anh từ chối rút lui khỏi niềm tin rằng mỗi công dân đều có trách nhiệm đặt câu hỏi về cơ sở cho bất cứ quyết định nào gửi con em mình ra trận, đã truyền sức mạnh cho dân tộc này mãi mãi.

Tôi cảm động vì lá thư của McNamara, và bởi nhiều lá thư tương tự mà tôi nhận được từ các cựu binh cuộc chiến Việt Nam.

Ngay trước cuộc bầu cử, Bob Higgins, một cựu thủy quân lục chiến quê ở Hillsboro, Ohio, gửi cho tôi Huân chương phục vụ ở Việt Nam của ông ấy vì quan điểm chống chiến tranh của tôi và vì "cách anh hành xử trong một cuộc vận động thật khó khăn". Vài tháng trước đó, Ronald Murphy ở Las Vegas đã tặng tôi Huân chương Trái tim màu tím của ông ấy, còn Charles Hampton ở Marmaduke, Arkansas thì gửi cho tôi Huân chương Sao đồng ông được tặng thưởng ở Việt Nam. Tính tổng cộng, trong năm 1992, các cựu binh cuộc chiến Việt Nam gửi cho tôi năm trái tim màu tím, ba huân chương phục vụ ở Việt Nam, một phù hiệu bộ binh chiến đấu, và Huân chương Sao đồng của người đồng hương Arkansas. Tôi đóng khung phần lớn số này và treo lên sảnh riêng của tôi bên ngoài Phòng Bầu dục.

Khi máy bay của tôi hạ xuống vùng đất phong cảnh đẹp tươi của Virginia, nơi sản sinh ra bốn trong năm tổng thống đầu tiên của chúng tôi, tôi nghĩ về những cựu binh đó và huân chương của họ, hy vọng rằng cuối cùng chúng ta cũng có thể hàn gắn được những vết thương của thập niên 60, và cầu nguyện tôi sẽ chứng tỏ mình xứng đáng với sự hy sinh, ủng hộ và ước mơ của họ.