Chương 32
Dù phần lớn các tin tức chính về vài tháng đầu trong nhiệm kỳ của tôi đều nói đến nỗ lực hoạch định, bảo vệ và thông qua kế hoạch kinh tế của tôi; việc cho phép đồng tính phục vụ trong quân đội; và các công việc trong lĩnh vực y tế của Hillary, chính sách đối ngoại vẫn là công việc thường xuyên, một phần lúc nào cũng hiện diện trong công việc và môl quan tâm thường nhật. Các nhà quan sát ở Washington nhìn chung có ấn tượng rằng tôi không quan tâm lắm đến chuyện đối ngoại và dành thời gian cho nó càng ít càng tốt. Đúng là trọng tâm lớn của chiến dịch tranh cử chính là các vấn đề đối nội; các rắc rối kinh tế của chúng tôi đòi hỏi như vậy. Nhưng, như tôi vẫn nhắc đi nhắc lại, sự phụ thuộc lẫn nhau mang tính toàn cầu ngày càng tăng đang xóa dần sự tách bạch chính sách đối ngoại và đối nội. Và cái "trật tự thế giới mới" mà Tổng thống Bush tuyên bố sau khi Bức tường Berlin sụp đổ đang đầy rẫy những hỗn loạn và những câu hỏi lớn chưa có lời đáp.
Ngay từ đầu, cố vấn an ninh quốc gia của tôi, Tony Lake, đã tuyên bố rằng thành công trong mặt đối ngoại thường được định nghĩa là ngăn chặn hoặc tháo ngòi các rắc rối trước khi chúng trở thành chuyện rầy rà hoặc gây ầm ĩ dư luận. "Nếu chúng ta làm tốt", anh nói, "công chúng có thể chẳng bao giờ biết đến, vì mọi sự êm ái hết, chẳng có tiếng chó sủa gì cả". Khi tôi nhậm chức, nói theo kiểu Tony thì chúng tôi gặp một đàn chó sủa ầm ĩ, nào là từ chuyện Bosnia đến Nga - ầm ĩ nhất - cho đến nhiều nơi khác, trong đó có Somalia, Haiti, Bắc Triều Tiên, và chính sách thương mại của Nhật - vẫn gầm gừ ở phía sau.
Liên Xô tan rã và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản trong các nước khối Hiệp ước Warsaw đưa ra triển vọng rằng châu Âu có thể trở nên thống nhất, dân chủ và hòa bình lần đầu tiên trong lịch sử. Liệu việc đó có xảy ra hay không lại phụ thuộc vào bốn câu hỏi: Liệu Đông và Tây Đức có thống nhất hay không; liệu Nga có trở thành một quốc gia thực sự dân chủ, bình ổn, và phi đế chế hay không; điều gì sẽ xảy ra với Nam Tư, một tập hợp của các tỉnh với dân số khác nhau về sắc tộc được rèn dính lại với nhau dưới ý chí sắt đá của Thống chế Tito; và liệu Nga và các nước cựu cộng sản có hội nhập vào Liên minh châu Âu và liên minh NATO với Mỹ và Canada hay không?
Cho đến khi tôi làm tổng thống, nước Đức đã được thống nhất dưới sự lãnh đạo nhìn xa trông rộng củạ Thủ tướng Helmut Kohl, có sự ủng hộ mạnh mẽ của Tổng thống Bush cũng như bất chấp những quan ngại ở châu Âu về quyền lực kinh tế và chính trị của một nước Đức hồi phục. Ba câu hỏi kia vẫn còn bỏ ngỏ, và tôi biết rằng một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của tôi với tư cách tổng thống là làm sao để có được câu trả lời đúng.
Trong chiến dịch tranh cử, cả Tổng thống Bush lẫn tôi đều ủng hộ viện trợ cho Nga. Ban đầu tôi quả quyết hơn ông ấy, nhưng sau khi được thúc giục bởi cựu tổng thống Nixon, Bush tuyên bố rằng nhóm G-7, bảy nước công nghiệp lớn nhất gồm Mỹ, Đức, Pháp, Ý, Anh, Canada và Nhật, sẽ chi 24 tỷ đôla để ủng hộ cải cách kinh tế và dân chủ ở Nga. Khi Yeltsin đến Washington vào tháng 6 năm 1992, ông ấy rất biết ơn và công khai ủng hộ Bush tái cử. Như tôi đã nói, Yeltsin cũng đồng ý gặp xã giao tôi ở nhà khách Blair House ngày 18 tháng 6 nhờ tình bạn giữa Ngoại trưởng Andrei Kozyrev và Tobi Gati, một trong các cố vấn đối ngoại của tôi. Tôi không thấy khó chịu gì khi Yeltsin ủng hộ Bush; tôi chỉ muốn ông ấy biết rằng nếu tôi thắng, tôi sẽ ủng hộ ông ấy.
Tháng 11, vài ngày sau cuộc bầu cử, Yeltsin gọi điện chúc mừng tôi và thúc giục tôi sang Moscow càng sớm càng tốt để tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với các cải tổ của ông ấy trước sự chống đối trong nước ngày càng tăng. Yeltsin đúng là gặp khó khăn lớn. Ông ấy được bầu làm tổng thống Nga tháng 6 năm 1991, khi Nga vẫn còn là một phần của Liên Xô đang rệu rã. Vào tháng 8, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev bị những người muốn đảo chính giam lỏng ở nhà nghỉ mùa hè của ông ta bên Biển Đen. Các công dân Nga xuống đường biểu tình. Giờ khắc quyết định của tấn tuồng này là khi Yeltsin, lúc này mới nhậm chức được hai tháng, trèo lên một chiếc xe tăng ngay trước tòa Nhà Trắng của Nga, tòa nhà quốc hội đang bị phe đảo chính bao vây. Ông ấy kêu gọi người dân Nga hãy bảo vệ nền dân chủ phải khó nhọc mới có được của họ. Trên thực tế, ông ấy nói với phe phản cách mạng: "Các người có thể lấy cắp tự do của chúng tôi, nhưng muốn vậy hãy bước qua xác tôi". Lời kêu gọi anh dũng của Yeltsin đã gầy dựng lại được sự ủng hộ trong và ngoài nước, và cuộc đảo chính thất bại. Đến tháng 12, Liên Xô đã rã thành các quốc gia độc lập, và Nga tiếp quản ghế thành viên thường trực Hội đồng Bảo an của Liên Xô.
Nhưng các rắc rối của Yeltsin vẫn chưa hết. Các phần tử phản cách mạng, tức tối từ khi mất quyền lực, bắt đầu chống đối việc ông ấy muốn rút binh sĩ Liên Xô khỏi các nước vùng Baltic là Estonia, Lithuania và Latvia. Thảm họa kinh tế tới gần, khi những tàn tích của nền kinh tê Xô Viết bị phơi ra trước các cải cách kinh tê thị trường, khiến lạm phát bùng lên, còn tài sản nhà nước bị bán với giá rẻ mạt cho một tầng lớp những kẻ siêu giàu mới gọi là "obligarchs". Những người này giàu đến mức khiến cho những tên trùm cướp ở Mỹ cuối thế kỷ 19 nhìn họ có vẻ như những thầy tu Thanh giáo vậy. Các mạng lưới tội phạm có tổ chức còn trám vào khoảng trống mà nhà nước Xô Viết tạo ra, vươn vòi khắp nơi trên toàn cầu. Yeltsin đã tiêu 'diệt hệ thống cũ, nhưng chưa thể xây được hệ thống mới. Ông ấy cũng chưa có được mối quan hệ làm việc tốt với Viện Duma, tức quốc hội Nga, một phần vì bản chất của ông là dị ứng với các thỏa hiệp, một phần vì Viện Duma đầy những người hoài tiếc trật tự cũ hoặc lại bị ám ảnh sâu nặng bởi một trật tự mới bắt nguồn từ chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Yeltsin nguy ngập đến nơi, và tôi muốn giúp ông ấy. Bob Strauss, người mà Tổng thống Bush bổ nhiệm làm đại sứ tại Moscow dù ông ấy là một người Dân chủ và là cựu chủ tịch ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ, cũng khuyến khích tôi làm vậy. Strauss nói tôi có thể làm việc với Yeltsin và khuyên ông ấy về mặt chính trị, và Strauss khuyên tôi nên làm cả hai việc.
Tôi cũng muốn nhận lời mời của Yeltsin sang Moscow, nhưng Tony Lake nói chuyến xuất ngoại đầu của tôi không nên là Moscow, và những người còn lại trong nhóm thân cận tôi cũng nói làm vậy sẽ phân tán sự chú ý khỏi chương trình nghị sự đối nội. Hộ lập luận rất chặt chẽ, nhưng Hoa Kỳ cũng chịu ảnh hưởng nhiều vào thành công của Nga, và chúng tôi không muốn những kẻ cứng rắn, dù là cộng sản hay dân tộc cực đoan, kiểm soát Nga. Boris cũng tạo điều kiện dễ dàng hơn khi đề nghị gặp nhau ở một nước thứ ba.
Vào khoảng thời gian này, tôi thuyết phục được bạn cũ cùng phòng ở Oxford Strobe Talbott, rời báo Time đến làm việc ở Bộ Ngoại giao để giúp chúng tôi trong chính sách đối với Liên Xô cũ. Tính tới lúc đó, Strobe và tôi đã thảo luận lịch sử và chính trị Nga trong gần 25 năm. Từ khi anh ấy dịch và biên tập hồi ký của Khrushchev, Strobe đã trở nên hiểu biết và quan tầm đến Nga và nhân dân Nga hơn bất kỳ ai tôi biết. Anh ấy có óc phân tích tốt và một trí tưởng tượng phong phú trong vỏ ngoài giáo sư đạo mạo, và tôi tin suy xét cũng như ý muốn nói cho tôi biết sự thật của anh ấy. Trong Bộ Ngoại giao chẳng có vị trí nào đúng như việc mà tôi cần Strobe làm, thế là anh ấy tạo ra một vị trí, với sự đồng thuận của Warren Christopher và sự giúp đỡ của Dick Holbrooke, một doanh nhân ngân hàng đầu tư và một tay tổ chính sách đối ngoại từng tư vấn tôi trong chiến dịch tranh cử và sau này trở thành một trong những nhân vật quan trọng nhất trong chính quyền của tôi.
Cuối cùng, Strobe cũng có được một vị trí: đại sứ lưu động và cố vấn đặc biệt cho ngoại trưởng về các quốc gia mới độc lập khỏi Liên Xô cũ. Sau này anh trở thành thứ trưởng ngoại giao. Tôi nghĩ rất ít ai có thể nhớ được tên gọi chức vụ của Strobe, nhưng ai cũng biết anh ấy đã làm gì: anh ấy là người hễ ai cần gì về Nga thì đến gặp. Trong tám năm, anh ây ở cạnh tôi trong tất cả các cuộc gặp với Yeltsin và Vladimir Putin, gặp riêng với Yeltsin 18 cuộc. Vì Strobe nói tiêng Nga trôi chảy và ghi chép gần như nguyên bản, việc anh ấy tham gia với tôi trong công việc thật vô giá. Strobe ghi lại sự hợp tác ấy của chúng tôi trong cuốn sách của anh, The Russian Hand - Con bài Nga, nó đáng lưu ý không chỉ vì những phân tích thấu đáo mà còn vì chuyện kể bằng lời những cuộc nói chuyện sinh động giữa tôi và Yeltsin. Không giống như những cuốn sách khác cùng thể loại, các câu trích dẫn không phải bằng từ ngữ tái hiện, mà chính xác là những gì đã được nói ra, dù xấu hay tốt. Ý chính của Strobe là tôi đã trở thành "con bài Nga" của chính mình vì, dù không phải là chuyên gia về Nga, tôi biết "một điều lớn rằng: trong vấn đề kép nền tảng của Chiến tranh Lạnh - dân chủ chống lại độc tài trong đối nội, hợp tác thay vì cạnh tranh trong đối ngoại" - Yeltsin và tôi, "về nguyên tắc, là ở cùng một phe".
Trong thời kỳ bàn giao, tôi nói chuyện nhiều với Strobe về tình hình ngày càng tồi tệ ở Nga và tầm quan trọng củà việc ngăn chặn thảm họa. Tại kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng, Strobe và vợ là Brooke, người từng vận động tranh cử cùng Hillary và cũng chuẩn bị làm giám đốc Chương trình Những người bạn Nhà Trắng, chạy bộ cùng tôi trên bãi biển Hilton Head. Chúng tôi muốn nói chuyên về Nga, nhưng người trưởng nhóm tôi là vận động viên Olympic tài ba Edwin Moses, chạy nhanh đến mức tôi không thể vừa chạy vừa nói chuyện được. Chúng tôi chạy ngang chỗ Hillary đang đi dạo buổi sáng, nên ba chúng tôi có cớ để chạy chậm lại. Tổng thống Bush lúc đó đang ở Moscow ký hiệp ước START II với Yeltsin. Đó là tin tốt lành, dù như mọi thứ tiến bộ mà Yeltsin làm, việc này cũng gặp phải sự chống đối mạnh ở Viện Duma. Tôi bảo Strobe rằng mọi việc ờ Nga thay đổi nhiều đến mức chúng ta không thể giữ chiến lược phòng thủ được; chúng ta phải củng cố và kích thích các tiến triển tích cực, đặc biệt là những việc có thể cải thiện nền kinh tế Nga.
Vào tháng 2, tôi sang nhà Strobe để gặp gia đình anh ấy và nói chuyện về Nga. Strobe kể tôi nghe cuộc gặp gần đây giữa anh và Richard Nixon; cựu tổng thống khuyên chúng tôi nên ủng hộ mạnh mẽ Yeltsin. Khoản viện trợ 24 tỷ đôla mà Tổng thống Bush tuyên bô mùa xuân năm trước chưa đủ, vì các cơ quan tài chính quốc tế không giải ngân chừng nào Nga còn chưa tái cơ cấu nền kinh tế. Chúng tôi phải làm một điều gì đó ngay.
Đầu tháng 3, Yeltsin và tôi đồng ý gặp nhau vào ngày 3 và 4 tháng 4 ở Vancouver, Canada. Ngày 8 tháng 3, Richard Nixon đến Nhà Trắng để thúc giục tôi ủng hộ Yeltsin. Sau khi ghé thăm Hillary và Chelsea, ông nói với họ rằng chính ông ấy cũng từng được nuôi dạy như một người Quaker và các con gái của ông cũng học trường Sidwell như Chelsea, ông ấy bắt đầu vào việc chính và nói rằng người ta sẽ nhớ đến tôi với tư cách tổng thống vì việc tôi làm với Nga nhiều hơn là với chính sách kinh tế. Tối hôm đó, tôi gọi Strobe kể lại cuộc chuyện trò với Nixon và nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trọng của việc chúng tôi phải làm gì đó ở Vancouver để giúp nước Nga, sau đó phải gây tác động mạnh tại hội nghị thượng đỉnh G-7 ở Tokyo vào tháng 7. Trong suốt tháng 3, mỗi lần được nghe tin cập nhật từ bộ phận đối ngoại của tôi và Larry Summers cũng như phụ tá của anh ấy là David Lipton ở Bộ Ngân khố, tôi thúc đẩy họ phải nghĩ rộng và làm nhiều hơn.
Trong khi đó, ở Moscow, Viện Duma đang giảm dần quyền lực của Yeltsin và phê chuẩn các chính sách kiềm chế lạm phát không có hiệu quả của Ngân hàng Trung ương Nga. Ngày 20 tháng 3, Yeltsin đập lại bằng một bài diễn văn tuyên bố trưng cầu dân ý ngày 25 tháng 4 để xem ông ấy hay Viện Duma sẽ điều hành đất nước; cho tới lúc đó, ông ấy nói, các mệnh lệnh tổng thống vẫn có hiệu lực, dù Viện Duma có làm gì đi nữa. Tôi xem bài diễn văn này trên hai cái tivi trong phòng ăn riêng của tôi ở bên ngoài Phòng Bầu dục. Chiếc tivi kia đang chiếu trận đấu giải vô địch bóng rổ NCAA giữa đội Arkansas Razorback và Đại học St. John. Tôi muốn thắng cả hai việc.
Bộ phận phụ trách đối ngoại của tôi tranh cãi kịch liệt với tôi xem tôi nên phản ứng ra sao trước bài diễn văn của Yeltsin. Họ đều khuyến cáo nên kiềm chế, vì Yeltsin đang đi đến tận cùng những giới hạn hiến đinh trong thẩm quyền của ông ấy, và vì ông ấy có thể thất bại. Tôi không đồng ý. Yeltsin đang đấu tranh trong trận sống còn chống lại những người cựu Cộng sản và những thành phân phản cách mạng khác. Ông ấy đang vươn tay ra nhân dân bằng một cuộc trưng cầu dân ý. Và tôi không quan tâm đến nguy cơ thất bại tôi nhắc cho bộ phận đối ngoại của tôi nhớ rằng chính tôi cũng từng thua nhiều lần. Tôi không có lợi gì khi chần chừ, và đề nghị Tony Lake thảo một tuyên bố ủng hộ mạnh mẽ. Khi anh ấy đưa bản nháp cho tôi, tôi còn sửa lại cho nó mạnh mẽ hơn và đưa ra cho báo chí. Trong trường hợp này, tôi đã hành động theo bản năng của mình và đặt cuộc nước Nga sẽ vẫn trung thành với Yeltsin, và đứng về phía chính nghĩa của lịch sử. Sự lạc quan của tôi càng được cổ vũ khi đội Arkansas chiến thắng lội ngược dòng trong trận đấu kia.
Cuối cùng, vào tháng 3, tôi có được một chương trình hỗ trợ mà tôi có thể ủng hộ: 1,6 tỷ đôla viện trợ trực tiếp cho Nga nhằm giúp ổn định nền kinh tế bao gồm cả tiền để xây nhà cho các sĩ quan ra quân, các chương trình việc làm tích cực cho các khoa học gia hạt nhân nghèo túng và hiện nay đã thất nghiệp, và trợ giúp thêm nhằm giải giáp các vũ khí hạt nhân trong khuôn khổ chương trình Nunn-Lugar mới hoạt động; thực phẩm và thuốc men cho những người thiếu thốn; viện trự nhằm khuyến khích doanh nghiệp nhỏ, truyền thông độc lập, các tổ chức phi chính phủ, đảng phái chính trị, và các nghiệp đoàn; cũng như một chương trình trao đổi nhằm đưa hàng chục ngàn sinh viên và chuyên viên trẻ sang Mỹ. Viện trợ cả gói này lớn gấp bốn lần chính quyền trước ở Mỹ từng duyệt chi và gấp ba lần chương trình tôi đề nghị ban đầu.
Dù một cuộc thăm dò cho thấy 75% người Mỹ chống lại việc cho Nga thêm tiền, và chúng tôi đã đang chật vật vì kế hoạch kinh tế của mình, tôi thấy chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục tiến tới. Nước Mỹ đã chi hàng ngàn tỷ đôla cho quốc phòng nhằm chiến thắng Chiến tranh Lạnh; chúng ta không thể để chuyện ấy đảo ngược vì tiếc chưa tới hai tỷ đôla và vì một cuộc thăm dò tồi. Nhân viên của tôi ngạc nhiên rằng các lãnh đạo quốc hội, có cả phe Cộng hòa, đồng ý với tôi. Tại một cuộc họp tôi triệu tập nhằm thúc đẩy kê hoạch này, Thượng nghị sĩ Joe Biden, Chủ tịch Uy ban Đối ngoại, mạnh mẽ ủng hộ chương trình viện trợ. Bob Dole cũng thuận với lập luận rằng chúng tôi không muốn làm hỏng thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh như những nước chiến thắng sau Thế chiến thứ nhất từng làm. Sự thiển cận của họ góp phần gây ra Thế chiến hai, chính là thời kỳ mà Dole từng chiến đấu anh dũng. Newt Gingrich thì cực kỳ nhiệt tình muốn giúp Nga, nói đó là "một thời khắc quyết định" với nước Mỹ và chúng ta phải làm điều phải. Như tôi từng nói với Strobe, Newt đang cố "ủng hộ Nga" hơn tôi, điều mà tôi sẵn lòng để ông ấy làm.
Khi Yeltsin và tôi gặp nhau ngày 3 tháng 4, cuộc gặp bắt đầu hơi sượng sùng. Yeltsin giải thích rằng ông ấy phải khéo léo trong việc vừa nhận viện trợ của Mỹ để giúp Nga chuyển đổi sang nền dân chủ vừa tránh tạo ra ấn tượng rằng ông ấy bị Mỹ sai khiến. Khi bàn về chi tiết chương trình viện trợ, ông ấy nói ông thích, nhưng muốn có thêm nhiều nhà ở cho các quân nhân mà ông sẽ đưa về từ các nước vùng Baltic - nhiều người trong số này đang phải sống trong lều. Sau khi chúng tôi giải quyết vấn đề đó, Yeltsin bỗng nhiên chuyển sang tấn công, đòí tôi phải dẹp bỏ tu chính án Jack- son-Vanik, một điều luật từ năm 1974 ràng buộc thương mại của Mỹ với việc cho di dân tự do khỏi Nga, chấm dứt việc tiến hành Captive Nations Week (điều luật thông qua năm 1959 của Mỹ quy định tổ chức tuần này vào tuần thứ 3 của tháng 7 nhằm nhắc công chúng nhớ đến các quốc gia dưới sự kiểm soát của các chính quyền Cộng sản và phi dân chủ - ND), một hoạt động nêu rõ việc Liên Xô khống chế các nước như Ba Lan và Hungary hiện nay đã được tự do. Những điều luật này chủ yếu mang tính biểu tượng, không có tác động thực sự đối với quan hệ của chúng tôi, và tôi không thể dùng vốn liếng chính trị của mình để vừa thay đổi những luật ấy và vừa thành công trong việc tìm được sự giúp đỡ thực sự cho Nga.
Sau phiên họp đầu, người của tôi lo rằng tôi đã để Yeltsin lấn lướt tôi như Khrushchev từng "lên lớp" Kennedy trong cuộc gặp gỡ nổi tiếng của họ ở Vienna năm 1961. Họ không muốn trông tôi có vẻ yếu thế. Tôi thì không lo chuyện đó, vì hoàn cảnh lịch sử đã khác. Yeltsin đâu có muốn làm tôi trông có vẻ thảm hại như Khrushchev từng làm với Kennedy; ông ta chỉ muốn trông mình có vẻ oai hùng trước những kẻ thù quốc nội của ông ấy, những người đang cố kết liễu ông ấy. Vào tuần trước hội nghị của chúng tôi, họ đã cố truất phế ông ấy ở Viện Duma. Họ không thành công, nhưng nghị quyết đòi truất phê cũng được khá nhiều phiếu. Tôi có thể chịu bị dội bom chút ít nếu điều đó giúp Nga đi đúng đường.
Vào buổi chiều, chúng tôi thỏa thuận được mệt cách thể chế hoá sự hợp tác bằng cách thiết lập một ủy ban, đứng đầu là Phó tổng thống Gore và Thủ tướng Nga Viktor Chernomyrdin. Ý tưởng này là của Strobe và thứ trưởng ngoại giao Nga Georgi Mamedov đưa ra, và nó đem lại hiệu quả tốt hơn bất cứ ai trong chúng tôi có thể lường trước, chủ yếu là nhờ vào các nỗ lực liên tục và tập trung trong nhiều năm tiếp đó của Al Gore và những đối tác Nga trong việc giải quyết hàng loạt các vấn đề khó khăn.
Vào ngày chủ nhật, 4 tháng 4, chúng tôi họp lại một cách trang trọng hơn, Yeltsin và các cố vấn của ông ta ngồi đối diện tôi và các cố vấn của tôi. Cũng như trước đó, Yeltsin mở đầu rất hăng, đòi chúng tôi phải thay đổi quan điểm kiểm soát vũ khí và mở cửa thị trường Mỹ cho các sản phẩm Nga như các bệ phóng tên lửa vệ tinh mà không được cấm Nga xuất khẩu kỹ thuật quân sự cho những nước đối nghịch với Mỹ như Iran và Iraq. Được vị chuyên gia cứng rắn Lynn Davis của chúng tôi trợ giúp, tôi đã đứng vững không lùi về các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và đối phó với các đòi hỏi về kiểm soát vũ khí bằng cách chuyển chúng qua cho nhân viên để nghiên cứu thêm.
Không khí cuộc họp sáng lên khi chúng tôi chuyển sang đề tài kinh tế. Tôi mô tả chương trình viện trợ kinh tế của mình là "sự hợp tác", chứ không phải "viện trợ", và đề nghị Lloyd Bentsen nói tóm tắt các đề xuất mà chúng tôi sẽ đưa ra cho nhóm G-7 ở Tokyo. Yeltsin cảm thấy lo lắng khi hiểu rằng chúng tôi không thể giúp đỡ được khoản tiền nào cho ông ấy trước cuộc trứng cầu ngày 25 tháng 4. Dù tôi không thể cho Boris khoản tiền 500 triệu đôla mà ông ấy muốn, tại cuộc họp báo sau phiên họp cuối, tôi nói rõ rằng sắp tới sẽ có nhiều tiền, vì Mỹ ủng hộ nền dân chủ, các cải cách và người lãnh đạo của nước Nga.
Tôi rời Vancouver càng tin tưởng Yeltsin hơn và hiểu rõ hơn tầm vóc của các thách thức mà ông ấy đối diện cũng như quyết tâm to lớn của ông ấy nhằm vượt qua chúng. Và tôi thích ông ấy. Ông ấy là một người to lớn như gấu, và đầy những mâu thuẫn. Ông từng lớn lên trong những điều kiện rất khổ cực khiến thời thơ ấu của tôi sang trọng như con tỷ phú, và có thể là ông ấy cục mịch, nhưng lại có một trí óc minh mẫn biết nắm bắt thực chât của vân đề. Ông mới vừa hung dữ đấy nhưng phút sau ông đã lại biết mềm mỏng. Ông ấy có vẻ như vừa biết tính toán lạnh lùng vừa xúc cảm thực sự, vừa khôn ranh vừa rộng lượng, vừa căm hận thế giới vừa tràn đầy hài hước. Một lần chúng tôi đang đi cùng nhau trong khách sạn của tôi, một phóng viên Nga hỏi ông ấy xem ông có hạnh phúc với cuộc họp của chúng tôi không. Ông ấy đáp ngay: "Hạnh phúc? Xung quanh không có phụ nữ đẹp nào thì làm sao hạnh phúc được. Nhưng tôi hài lòng". Như mọi người đều biết, Yeltsin thích vodka, nhưng nhìn chung, trong tất cả các công việc giữa chúng tôi, ông ấy tỉnh táo, được chuẩn bị kỹ càng và hữu hiệu trong việc đại diện cho đất nước mình. Nếu so với những lựa chọn thực tế khác, nước Nga thật may đã có người lãnh đạo như ông ấy. Ông ấy yêu nước, ghét chủ nghĩa cộng sản, và muốn nước Nga trở nên vĩ đại và tốt đẹp. Mỗi lần có ai nhận xét chê bai về thói nhậu nhẹt của Yeltsin, tôi lại nhớ đến điều mà Lincoln được cho là đã nói khi vài người rởm đời ở Washington cũng nhận xét tương tự về tướng Grant, vị chỉ huy thành công và hăng hái nhất trong Nội chiến: "Tìm hiểu xem ông ấy uống cái gì, rồi đem cho mấy ông tướng kia uống luôn đi".
Khi trở về Washington, tôi lại tăng chương trình viện trợ kinh tế, đề nghị 2,5 tỷ đôla cho tất cả các nước thuộc Liên Xô cũ, với 2/3 số tiền này cho Nga. Ngày 25 tháng 4, đa số các cử tri Nga ủng hộ Yeltsin, những chính sách của ông ấy, và ý muốn có một Viện Duma mới của ông ấy. Chỉ sau hơn 100 ngày làm tổng thống, chúng tôi đã tiến những bước dài trong việc ủng hộ Yéltsin và nền dân chủ Nga. Thật không may, chúng tôi không thể nói như vậy về các nỗ lực của mình nhằm chấm dứt giết chóc và thanh trừng sắc tộc ở Bosnia.
Năm 1989, khi Liên Xô bắt đầu rệu rã và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu diễn ra ngày càng nhanh, mỗi nước có một câu trả lời riêng cho câu hỏi học thuyết chính trị nào sẽ thay thế nó. Phần cực tây của đế chế Xô Viết trước đây thích xây dựng nền dân chủ, sự nghiệp mà phần lớn các di dân đến Mỹ từ Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc và các quốc gia Baltic coi là số một trong hàng chục năm trời. Ở Nga, Yeltsin và những người dân chủ khác thì phải chống đỡ với những người Cộng sản và những kẻ dân tộc cực đoan. Ở Nam Tư, khi đất nước này tìm cách dung hòa những ý muốn của các khối dân chúng khác nhau về chủng tộc và tôn giáo, cuối cùng chủ nghĩa dân tộc Serbia chiến thắng dưới sự lãnh đạo của nhân vật chính trị nổi bật nhất nước là Slobodan Milosevic.
Cho tới năm 1991, các tỉnh cực tây của Nam Tư là Slovenia và Croatia, cả hai chủ yếu theo Công giáo, đã tuyên bô độc lập khỏi Nam Tư. Sau đó xung đột bùng nổ giữa Serbia và Croatia lan sang Bosnia, tỉnh đa dạng về chủng tộc nhất của Nam Tư, nơi tín đồ Hồi giáo chiếm 45% dân số, người Serbia chiếm hơn 30%, và người Croatia chiếm khoảng 17%. Cái gọi là những khác biệt chủng tộc ở Bosnia thực ra mang tính chất chính trị và tôn giáo. Bosnia là nơi gặp nhau của ba cuộc bành trướng đế chế: Đế chế La Mã theo Công giáo từ phía tây, phong trào Cơ đốc chính thống từ phía đông, và Đế chế Ottoman theo Hồi giáo từ phía nam. Năm 1991, người Bosnia nằm dưới sự cai trị của một liên minh dân tộc thống nhất đứng đầu là chính trị gia Hồi giáo số một Alija Izetbegovic, trong liên minh này có cả viên chỉ huy quân sự người Serbia theo chủ nghĩa dân tộc là Radovan, Karadzic, từng là một bác sĩ tâm lý ở Sarajevo.
Đầu tiên Izetbegovic muốn Bosnia trở thành một tỉnh tự trị đa chủng tộc, đa tôn giáo của Nam Tư. Khi Croatia và Slovenia được cộng đồng quốc tế công nhận là các quốc gia độc lập, Izetbegovic quyết định rằng cách duy nhất Bosnia có thể thoát khỏi sự thống trị của Serbia là cũng phải được độc lập.. Karadzic và các đồng minh của ông ta, vốn quan hệ gần gũi với Milosevic, thì lại có ý khác. Họ ủng hộ mong muốn của Milosevic đưa càng nhiều lãnh thổ mà ông ta có thể nắm giữ được, trong đó có Bosnia, vào một nước Đại Serbia. Ngày 1 tháng 3 năm 1992, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức để xem Bosnia nên trở thành quốc gia độc lập, trong đó tất cả các công dân và nhóm sẽ được bình đẳng với nhau, hay không. Kết quả là dân chúng ủng hộ tuyệt đối việc độc lập, nhưng chỉ có 2/3 cử tri đi bầu. Karadzic đã ra lệnh người Serbia không được đi bầu và phần lớn họ nghe theo. Cho tới lúc đó, các nhóm bán quân sự người Serbia đã bắt đầu giết những người Hồi giáo không vũ trang, xua đuổi họ ra khỏi các khu vực đông người Serbia với hy vọng hình thành bằng vũ lực trong Bosnia những khu vực thuần về chủng tộc, những "biệt khu". Chính sách tàn bạo này sau này được biết đến với cái tên được mỹ miều hóa gây tò mò: thanh lọc sắc tộc.
Đặc sứ của Cộng đồng châu Âu, Ngài Carrington, cố thuyết phục các bên đồng ý chia đất nước một cách hòa bình ra thành các khu vực theo chủng tộc nhưng không được, vì không có cách nàa làm như vậy mà không buộc một số lớn chủng tộc này trên đất của chủng tộc kia kiểm soát, và vì nhiều người Bosnia muốn giữ cho đất nứớc mình liền lạc, với các nhóm khác nhau chung sống hòa bình với nhau như họ từng sống trong phần lớn 500 năm qua.