← Quay lại trang sách

Chương 32 (tt)

Vào tháng 4 năm 1992, Cộng đồng châu Âu công nhận Bosnia là quốc gia độc lập lần đầu tiên kể từ thế kỷ 15. Trong khi đó, các nhóm bán vũ trang người Serbia tiếp tục khủng bố các cộng đồng Hồi giáo và giết hại dân thường, trong khi đó lại dùng các phương tiện truyền thông để thuyết phục những người Serbia ở đây rằng chính họ mới là những người bị phía Hồi giáo tấn công và cần phải tự vệ. Ngày 27 tháng 4, Milosevic tuyên bố nước Nam Tư mới bao gồm Serbia và Montenegro. Sau đó ông ta dựng lên màn kịch rút quân ra khỏi Bosnia, nhưng để lại vũ khí, quân nhu và binh lính người Bosnia gốc Serbia lại cho vị chỉ huy được ông ta đích thân chọn lựa là Ratko Mladic. Xung đột và giết chóc tiếp tục điên cuồng trong suốt năm 1992, trong khi các lãnh đạo Cộng đồng châu Âu rất chật vật trong việc kiềm chế và chính quyền Bush thì do dự không biết phải làm thế nào và cũng không muốn phải gặp rắc rối thêm trong năm bầu cử nên đã để yên chuyên ấy cho châu Âu giải quyết.

Tuy vậy, chính quyền Bush cũng thúc giục Liên hiệp quốc áp dụng cấm vận kinh tế với Serbia, một biện pháp lúc đầu bị Tổng thư ký Boutros Boutros-Ghali, Pháp, Anh phản đối. Họ nói muôn cho Milosevic một cơ hội để chấm dứt bạo lực mà ông ta đã kích động nên. Cuối cùng, cấm vận cũng được áp dụng vào cuối tháng 5, nhưng rất ít hiệu quả, vì người Serbia vẫn nhận được hàng hóa từ những người hàng xóm thân thiện với họ. Liên hiệp quốc cũng tiếp tục giữ lệnh cấm vận vũ khí đối với chính quyền Bosnia, lệnh này vốn được áp dụng với Nam Tư từ cuối năm 1991. Vân đề với lệnh câm vận này là ở chỗ người Serbia có đủ vũ khí và đạn dược để đánh nhau nhiều năm nữa; do đó, hậu quả duy nhât của việc duy trì cấm vận là làm cho người Bosnia không thể tự vệ. Bằng cách nào đó họ cố cầm cự được trong suốt năm 1992, dùng một số vũ khí cướp được của phe Serbia, hoặc từ số ít ỏi vũ khí từ Croatia lọt qua được hàng rào phong tỏa của NATO ngoài bờ biển Croatia.

Hè năm 1992, khi cuối cùng truyền hình và báo giấy cũng đưa những hình ảnh kinh hoàng của" các trại tập trung do người Serbia điều hành ở bắc Bosnia vào màn hình từng nhà người dân châu Âu và Mỹ, tôi tuyên bố ủng hộ các cuộc oanh kích của NATO với sự tham dự của Mỷ. Sau đó, khi rõ ràng là người Serbia bắt đầu giết hại một cách có hệ thống người Hồi giáo Bosnia, đặc biệt là tiêu diệt các lãnh đạo địa phương, tôi đề nghị bãi bỏ cấm vận vũ khí. Nhưng, phía châu Âu thì tập trung vào việc chấm dứt bạo lực. Thủ tướng Anh John Major cố thuyết phục người Serbia ngưng phong tỏa các thành phố Bosnia và đặt vũ khí nặng của họ dưới sự giám sát của Liên hiệp quốc. Trong lúc đó, nhiều đoàn cứu trợ của chính phủ cũng như của tư nhân được phái đến để cung cấp thực phẩm thuốc men, còn Liên hiệp quốc thì gửi 8.000 quân đến để bảo vệ các đoàn xe cứu trợ.

Cuối tháng 10, ngay trước kỳ bầu cử, Ngài David Owen, nhà thương thuyết châu Âu mới, và nhà thương thuyết của Liên hiệp quốc, chính là cựu ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance, đưa ra một đề xuất biến Bosnia thành một loạt các tỉnh tự trị, có chính quyền riêng phụ trách mọi mặt, trừ quốc phòng và ngoại giao trực thuộc quyền của một chính phủ trung ương yếu. Số lượng các "biệt khu" đủ nhiều, với các nhóm sắc dân được phân chia về mặt địa lý theo một cách mà Vance và Owen cho rằng sẽ khiến các khu vực dơ người Serbia kiểm soát không thể sát nhập với Nam Tư của Milosevic để tạo nên Đại Serbia. Kế hoạch của họ có nhiều điểm không ổn. Hai điểm lớn nhất là việc trao quyền hành lớn cho các chính quyền biệt khu cho thấy người Hồi giáo sẽ không thể trở về nhà họ trong các khu vực do người Serbia kiểm soát, và sự mơ hồ trong việc chia biên giới các biệt khu chỉ mời gọi thêm sự lấn chiếm của các nhóm người Serbia nhằm mở rộng lãnh thổ, cũng như cuộc xung đột dù không quá dữ dội nhưng vẫn đang diễn ra lúc đó giữa người Croatia và người Hồi giáo.

Cho tới lúc tôi trở thành tổng thống, lệnh cấm vận vũ khí và sự ủng hộ của châu Âu đối với kế hoạch Vance-Owen đã làm yếu đi sức kháng cự của người Hồi giáo trước người Serbia, ngay cả khi bằng chứng về những giết chóc dân thường Hồi giáo và vi phạm nhân quyền trong các trại tập trung tiếp tục được phơi bày. Đầu tháng 2, tôi quyết định không ủng hộ kế hoạch Vance - Owen. Ngày 5 tôi gặp Thủ tướng Canada Brian Mulroney và hài lòng khi nghe ông nói ông cũng không thích kế hoạch đó. Vài ngày sau, chúng tôi hoàn tất báo cáo chính sách về Bosnia, và Warren Christopher tuyên bố rằng Mỹ muốn đàm phán một thỏa thuận mới và sẵn lòng giúp chế tài thỏa thuận ấy.

Ngày 23 tháng 2, Tổng thư ký Liên hiệp quốc Boutros-Ghali đồng ý với tôi về một kế hoạch khẩn cấp thả cứu trợ nhân đạo bằng đường không cho người Bosnia. Ngày hôm sau, trong lần gặp John Major đầu tiên của tôi, ông ấy cũng ủng hộ việc này. Việc thả viện trợ bằng đường không sẽ giúp ích rất nhiều để người ta có thể sống sót, nhưng sẽ không có tác dụng trị tận gốc rễ cuộc khủng hoảng.

Tới tháng 3, chúng tôi có vẻ như đạt được một số tiến bộ. Các biện pháp trừng phạt kinh tế được tăng cường và có vẻ bắt đầu có tác dụng với người Serbia, lúc này bắt đầu lo ngại về khả năng NATO hành động quân sự. Nhưng chúng tôi vẫn còn xa mới có được một chính sách nhất quán. Ngày 9, trong cuộc gặp đầu tiên của tôi với Tổng thống Pháp Francois Mitterrand, ông ấy nói rõ với tôi rằng dù ông ấy đã gửi 5.000 binh sĩ Pháp đến Bosnia trong khuôn khổ lực lượng nhân đạo của Liên hiệp quốc nhằm chuyển cứu trợ và kiềm chế bạo lực, ông ấy thông cảm với người Serbia hơn tôi, và không muốn thấy một nước Bosnia thống nhất do người Hồi giáo lãnh đạo.

Ngày 26, tôi gặp Helmut Kohl. Ông ấy cũng không ưa gì tình hình hiện tại, và cũng như tôi, ủng hộ việc bỏ cấm vận vũ khí. Nhưng chúng tôi không ép được người Anh và Pháp. Họ cảm thấy bỏ cấm vận vũ khí sẽ kéo dài thêm chiến tranh và gây nguy hiểm cho lực lượng Liên hiệp quốc tại chỗ, trong đó có binh sĩ của họ nhưng không có binh sĩ của chúng tôi. Ngày 26, Izetbegovic cũng đến Nhà Trắng để gặp Al Gore - trợ lý về an ninh quốc gia của Gore là Leon Fuerth đã rất thành công trong việc làm cho việc trừng phạt kinh tế hiệu quả hơn. Cả Kohl lẫn tôi đều nói với Izetbegovic rằng chúng tôi đang cố hết sức để thuyết phục châu Âu có quan điểm mạnh mẽ hơn để ủng hộ ông ta. Năm ngày sau, chúng tôi thành công trong việc khiến Liên hiệp quốc đưa ra một "vùng cấm bay" trên khắp Bosnia, nhằm ít nhất thì cũng tước đi lợi thế độc quyền không quân của người Serbia. Đó là một động thái tốt, nhưng không trì hoãn được những giết chóc là mấy.

Vào tháng 4, một nhóm nhân viên quân sự, ngoại giao và trợ cấp nhân đạo của Mỹ trở về từ Bosnia và thúc giục chúng tôi phải can thiệp quân sự nhằm chấm dứt những thống khổ ở đó. Ngày 16, Liên hiệp quốc chấp nhận đề nghị của chúng tôi nhằm thiết lập "khu an toàn" xung quanh Srebrenica, một thành phố ở đông Bosnia nơi chuyện giết chóc và thanh lọc sắc tộc do người Serbia tiến hành diễn ra đặc biệt kinh hoàng. Ngày 22, tại lễ khai trương Bảo tàng tưởng niệm cuộc tàn sát người Do Thái trong Thế chiến hai (Holocaust) tại Mỹ, Elie Wiesel, một người sống sót qua Holocaust, công khai thỉnh cầu tôi phải hành động hơn nữa nhằm chấm dứt bạo lực. Tới cuối tháng, đội ngũ về đối ngoại của tôi đề xuất rằng nêu chúng tôi không thể có được một lệnh ngừng bắn từ phía Serbia, chúng tôi nên bỏ cấm vận vủ khí đối với người Hồi giáo và tiến hành oanh kích các mục tiêu quân sự Serbia. Khi Warren Christopher đi châu Âu để tìm kiếm sự ủng hộ cho chính sách này, lãnh đạo người Serbia ở Bosnia là Radovan Karadzic cuối cùng cũng ký thỏa thuận kế hoạch hoà bình của Liên hiệp quốc với hy vọng tránh được các cuộc oanh kích, dù phía ông ta đã bác bỏ nó chỉ mới sáu ngày trước đó. Tôi không hề tin tưởng dù chỉ một phút rằng chữ ký của ông ta cho thấy có sự thay đổi nào trong các mục tiêu lâu dài của ông ta.

Vào cuối 100 ngày đầu tiên của chúng tôi, chúng tôi vẫn chưa đạt được một giải pháp cho cuộc khủng hoảng Bosnia. Người Anh và Pháp phản đối các nỗ lực của Warren Christopher và tái khẳng định quyền dẫn đầu trong việc xử lý tình hình này của họ. vấn đề trong quan điểm của họ, tất nhiên, là ở chỗ nếu người Serbia có thể cố gắng chịu đựng được những biện pháp trừng phạt nặng nề về kinh tế, họ có thể tiếp tục sự thanh lọc sắc tộc mà không sợ bị trừng phạt gì thêm. Thảm kịch Bosnia sẽ còn dây dưa ra thêm hơn hai năm, với hơn 250 ngàn người chết và 2,5 triệu người phải ly tán, cho đến khi NATO oanh kích, và các tổn thất của phe người Serbia trên chiến trường tăng thêm, dẫn tới một sáng kiến ngoại giao của Mỹ kết thúc chiến tranh.

Tôi đã bước vào cái mà Dick Holbrooke gọi là "thất bại về an ninh tập thể lớn nhất của phương Tây từ thập niên 30". Trong cuốn sách To End a War - Để chấm dứt một cuộc chiến của mình, Holbrooke đưa ra năm yếu tố dẫn đến thất bại này: (1) hiểu sai lịch sử vùng Balkan, cho rằng căng thẳng chủng tộc đã có từ lâu đời và không thể giải quyết bằng can thiệp từ bên ngoài; (2) việc Nam Tư mất đi vị trí chiến lược quan trọng sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc; (3) việc chủ nghĩa dân tộc thắng thế đối với nền dân chủ và trở thành chủ thuyết chính ở Nam Tư hậu Cộng sản; (4) việc lực lượng của chính quyền Bush trước khả năng phải tham gia một chiến dịch quân sự quá sớm như vậy sau cuộc chiến Iraq năm 1991; và (5) quyết định của Mỹ giao lại việc này cho châu Âu thay vì cho NATO, cũng như sự đáp ứng thụ động và bối rôi của châu Âu. Tôi muốn thêm một yếu tố thứ sáu vào danh sách này: một số lãnh đạo châu Âu không muốn có một nhà nước Hồi giáo ngay giữa vùng Balkan vì sợ rằng nó sẽ trở thành căn cứ của chủ nghĩa cực đoan tràn vào châu Âu. Thực ra chính sự lơ là của họ đã làm cho việc đó trở nên có thể hơn chứ không phải giảm đi.

Các lựa chọn của tôi lại bị bó buộc bởi quan điểm mà tôi đưa ra khi nắm quyền. Ví dụ như, tôi không muốn đồng ý với Thượng nghị sĩ Dole trong việc đơn phương dỡ bỏ cấm vận vũ khí, vì sợ làm yếu đi Liên hiệp quốc (dù sau đó chúng tôi cũng làm vậy trên thực tế bằng cách từ chối không chế tài lệnh cấm vận này). Tôi cũng không muốn gây chia rẽ NATO bằng việc đơn phương ném bom các vị trí quân sự của người Serbia, đặc biệt là vì trên chiến trường thực thi nhiệm vụ của Liên hiệp quốc chỉ có binh sĩ châu Âu nhưng không có binh sĩ Mỹ. Và tôi không muốn gửi binh sĩ Mỹ đến nơi nguy hiểm đó thi hành một nhiệm vụ của Liên hiệp quốc mà tôi cho rằng sẽ chắc chắn thất bại. Vào tháng 5 năm 1993, chúng tôi còn xa mới đạt được một giải pháp.

Vào cuối kỳ 100 ngày của nhiệm kỳ tổng thống, báo chí luôn tiến hành đánh giá xem chính quyền mới có giữ lời hứa khi tranh cử và xử lý các thách thức mới xuất hiện ra sao. Các bản đánh giá này đều có điểm chung rằng 100 ngày đầu của tôi có tốt có xấu. về mặt tích cực, tôi đã tạo ra một Hội đồng Kinh tế Quốc gia trong Nhà Trắng và đưa ra một kế hoạch kinh tế đầy tham vọng nhằm đảo ngược kiểu kinh tế ưu đãi các tập đoàn lớn trong 12 năm qua, và kế hoạch này đượe quốc hội ủng hộ. Tôi ký luật Nghỉ phép y tế và việc gia đình, cũng như một đạo luật nữa làm cho việc đăng ký cử tri dễ dàng hơn. Ngoài ra tôi còn đảo ngược chính sách về phá thai của chính quyền Reagan và Bush vốn cấm nghiên cứu mô bào thai và quy định cấm dùng quỹ liên bang cho các công việc Ịiên quan đến phá thai. Tôi giảm số lượng nhân viên Nhà Trắng, dù công việc ở đây tăng lên; ví dụ như trong ba tháng rưỡi đầu chúng tôi nhận được nhiều thư từ gửi tới Nhà Trắng hơn cả năm 1992. Tôi cũng ra lệnh giảm 100.000 nhân viên liên bang, và đưa Phó tổng thống Gore phụ trách việc tìm ra thêm các cách tiết kiệm mới và các phương pháp hoàn thiện hơn nhằm phục vụ công chúng bằng một sáng kiến "tái tạo lại chính quyền" mà kết quả của nó sau này đã chứng tỏ những người nghi ngờ nó đã sai lầm. Tôi gửi luật sang quốc hội nhằm thiết lập chương trình dịch vụ toàn quốc của tôi, tăng gấp đôi khoản Tín dụng thuế thu nhập thực tế và tạo ra các khu vực trợ giúp trong các cộng đồng nghèo, cũng như giảm đáng kể chi phí vay tiền học đại học, tiết kiệm hàng tỷ đôla cho sinh viên và những người đóng thuế. Tôi thúc đẩy nhanh cải cách y tế và đã hành động mạnh mẽ nhằm tăng cường dân chủ và cải cách ở Nga. Và tôi còn có được một đội ngũ nhân viên cần mẫn và có năng lực, cộng thêm một nội các làm việc ăn ý với nhau, ngoài vài lần sơ hở, mà không có chuyên nói xấu sau lưng nhau hoặc lục đục như nhiều chính quyền trước. Sau khi khởi đầu chậm chạp, tôi đã bổ nhiệm nhiều chức vụ theo quy định tổng thống phải làm trong 100 ngày đầu tiên hơn Tổng thống Reagan hay Bush từng làm - không tệ lắm nếu xét đến quá trình bổ nhiệm này cồng kềnh và chịu nhiều sức ép như thế nào. Có lúc, Thượng nghị sĩ Alan Simpson, thành phần lãnh đạo phe Cộng hòa trong quốc hội quê ở Wyoming, đùa với tôi rằng quá trình bổ nhiệm bị lợi dụng đến mức ông ấy "thậm chí sẽ không ăn tối với bất kỳ ai có khả năng được đưa ra cho thượng viện phê chuẩn".

Về mặt tiêu cực, tôi đã tạm thời bỏ kế hoạch giảm thuế cho giới trung lưu vì mức thâm thủng tăng cao; không thể thông qua được một chương trình kích thích do phe Cộng hòa cản trở; giữ chính sách củạ Bush là buộc những người tị nạn Haiti phải quay về, dù chúng tôi lại nhận nhiều người Haiti hơn qua các cách thức khác; thua cuộc tranh chấp về chuyện dân đồng tính trong quân đội; trì hoãn việc đưa ra kế hoạch y tế quá thời hạn 100 ngày tự đặt ra; không xử lý đụng ít nhất là phần công khai của cuộc tập kích vào trang trại Waco; và thất bại trong việc thuyết phục châu Âu cùng với Mỹ đưa ra quan điểm mạnh mẽ hơn về Bosnia, dù chúng tôi đã tăng viện trợ nhân đạo, tăng cường cấm vận đối với Serbia, và tạo ra một khu vực cấm bay và có thể quản lý được nó.

Một lý do bảng thành tích đó của tôi lẫn lộn tốt xấu là vì tôi cố làm quá nhiều điều trước sự chống đối rất quyết tâm của phe Cộng hòa cũng như những tình cảm lẫn lộn của nhân dân Mỹ về việc chính quyền nên và có thể có vai trò đến đâu. Suy cho cùng, dân chúng trong 12 năm liền được nghe rằng chính quyền chính là nguyên nhân cội rễ của mọi rắc rối của chúng ta, và chính quyền kém cỏi đến mức không thể tổ chức nổi một cuộc diễu hành chỉ có hai chiếc xe hơi. Rõ ràng là, tôi đã đánh giá quá cao khối lượng công việc tôi có thể làm một cách vội vàng. Đất nước này đã quen đi một chiều trong hơn một thập niên, sống chung với kiểu chính trị triệt hạ nhau, cũng như sự êm ái ảo tưởng của việc chi tiêu nhiều hơn và giảm thuế vào ngày hôm nay mà bỏ qua những hậu quả xảy đến trong ngày mai. Sẽ phải mất hơn 100 ngày để xoay chuyển mọi chuyên.

Ngoài tốc độ thay đổi, tôi có lẽ cũng đã đánh giá quá cao mức độ thay đổi tôi có thể đạt được, cũng như việc nhân dân Mỹ có thể tiêu hóa được bao nhiêu trong những thay đổi ấy. Trong một bản phân tích về 100 ngày cầm quyền, một nhà chính trị học của Đại học Vanderbilt là Erwin Hargrove quan sát: "Tôi tự hỏi không biết tổng thống có đang chia năm xẻ bảy thân mình ra quá không". Có lẽ ông ây đúng, nhưng có rất nhiều việc phải làm, và tôi không chịu dừng, cô để làm tất cả mọi việc ấy cho đến khi các cử tri đập cho tôi tỉnh ra trong kỳ bầu cử giữa kỳ năm 1994. Tôi dã để cho cảm giác thúc giục gấp gáp che lấp mất một trong những quy luật về chính trị của mình: tất cả mọi người đều ủng hộ thay đổi nói chung, nhưng chống lại những thay đổi cụ thể, khi chính bản thân họ phải thay đổi.

Những cuộc vật lộn trước công chúng trong 100 ngày đầu của tôi không diễn ra riêng lẻ; cùng lúc đó, gia đình tôi cũng đang tự điều chỉnh mình trước sự thay đổi lớn trong lối sống của mình cũng như phải chịu thêm cái chết của cha Hillary. Tôi thích làm tổng thống và Hillary thì quan tâm sâu sắc đến công việc y tế của cô ấy. Chelsea thích trường mới và bắt đầu có bạn mới. Chúng tôi thích sống trong Nhà Trắng, tổ chức các buổi giao tiếp xã hội, và mời bạn bè đến thăm.

Nhân viên Nhà Trắng cũng bắt đầu quen với một gia đình tổng thống thức khuya và sinh hoạt dài hơn. Dù tôi sau này trông cậy vào họ và đánh giá cao sự phục vụ của họ, tôi cũng phải mất một thời gian mới quen được chăm chút như vậy trong Nhà Trắng. Khi làm thống đốc, tôi đã sống trong dinh thống đốc với một đội ngũ nhân viên tốt, và được cảnh sát tiểu bang lái xe chở đi khắp nơi. Nhưng vào dịp cuối tuần, Hillary và tôi thường tự nấu ăn, và vào các chủ nhật tôi tự lái xe đi lễ nhà thờ. Bây giờ thì tôi có người giúp việc chuẩn bị sẵn quần áo mỗi sáng, sắp xếp hành lý cho các chuyến đi, rồi đi theo để dỡ hành lý ra và ủi đồ; các quản gia đến sớm về trễ và làm việc cả trong dịp cuối tuần, đem đồ ăn và thức uống kiêng cữ và cà phê cho tôi; các phục vụ của hải quân và những việc đó khi tôi ở Phòng Bầu dục và khi đi công tác; một đội ngũ nấu bếp nấu ăn cho chúng tôi cả trong dịp cuối tuần; các nhân viên khác đưa tôi lên và xuống thang máy, mang giấy tờ cho tôi ký và các báo cáo cho tôi đọc vào đủ mọi lúc; chăm sóc y tế 24/24; và cả Mật vụ nữa - họ thậm chí còn không cho tôi ngồi lên ghê trước chứ đừng nói đến chuyện tự lái xe.

Một trong những điều tôi thích nhất về chuyện sống trong Nhà Trắng là những đoá hoa tươi trong khu nhà ở và văn phòng. Nhà Trắng luôn có những bó hoa được cắm đẹp mắt. Đó là một trong những điều tôi nhớ nhiều nhất sau khi tôi rời khỏi đó.

Khi chúng tôi dọn đến, Hillary đã làm lại căn bếp nhỏ để chúng tôi có thể ăn tối ở đó vào những tối chỉ có ba chúng tôi. Phòng ăn trên lầu đẹp, nhưng quá lớn và quá trang trọng đối với gu của chúng tôi, trừ khi có khách. Hillary còn sửa lại phòng đón nắng trên tầng ba, một căn phòng sáng sủa dẫn ra ban công và mái của Nhà Trắng. Chúng tôi biến nó thành phòng sinh hoạt gia đình. Mỗi khi chúng tôi có họ hàng hoặc bạn bè đến ở cùng, chúng tôi lúc nào cũng tập trung ở phòng này để nói chuyện, xem tivi và đánh bài hoặc chơi các trò chơi khác. Tôi sau này trở nên nghiện trò Master Boggle và một trò khác - UpWords; trò này cơ bản là một trò xếp chữ ba chiều trong đó bạn được nhiều điểm hơn không phải bằng cách dùng được các từ lạ hoặc đặt chữ vào một số ô nào đó mà bằng cách dùng từ chồng lên từ. Tôi cố mời gọi gia đình và bạn bè tôi choi trò UpVVords, nhưng chỉ thành công với một số người. Em rể Hugh của tôi chơi không biết bao nhiêu ván UpWords với tôi, và Roger cũng thích trò này. Nhưng Hillary, Tony và Chelsea thì thích chơi trò bài 48 lá hơn. Tôi vẫn hay chơi bài Hearts với nhân viên và tất cả chúng tôi đều mê kiểu chơi bài mà Steven Spielberg và Kate Capshaw dạy chúng tôi khi họ đến thăm. Trò này có một cái tên cho đời sống chính trị ở Washington: Oh Hell! (Ôi địa ngục!).

Mật vụ đã ở cùng tôi kể từ kỳ bầu sơ bộ ở New Hampshire, nhưng khi tôi vào Nhà Trắng, tôi khiến họ có thêm một thách thức nữa vì thói quen chạy bộ buổi sáng của mình. Tôi chạy theo nhiều lộ trình khác nhau. Đôi khi tôi lái xe ra Haines Point, ở đó có một con đường dài ba dặm xung quanh một sân golf. Ở đó đất bằng, nhưng về mùa đông khi gió từ sông Potomac thổi vào khá mạnh thì cũng hơi khó khăn chút ít. Thỉnh thoảng tôi còn chạy trong trại Fort McNair, nơi đây có một đường chạy hình oval trong khu vực Đại học Quốc phòng. Tuy nhiên đường chạy ưa thích nhất của tôi là ra ngoài cổng Tây Nam của Nhà Trắng đến khu Mali, sau đó chạy lên Đài tưởng niệm Lincoln, ngược về Điện Capitol, rồi về nhà. Tôi gặp rất nhiều người dân lý thú trong những lần chạy theo đường này, và không bao giờ thấy chán chạy ngược theo những tưởng niệm về lịch sử Mỹ. Khi Mật vụ cuối cùng đề nghị tôi phải ngưng chạy đường này vì lý do an ninh, tôi nghe theo, nhưng tôi thấy nhớ nó. Đôi với tôi, những lần chạy giữa công chúng này là một cách tiếp cận với thế giới bên ngoài Nhà Trắng. Còn đối với Mật vụ, trong óc vẫn luẩn quẩn lần John Hinckley định ám sát Tổng thống Reagan và toàn bộ những lá thư hằn học mà tôi nhận được, thì những tiếp xúc với công chúng của tôi là một mối nguy hiểm đáng lo ngại cần phải được kiểm soát.

Al Gore giúp tôi nhiều trong những ngày đầu tiên đó, khuyến khích tôi tiếp tục đưa ra những quyết định khó khăn và sau đó bỏ chúng lại sau lưng, cũng như tiếp tục dạy tôi một khóa ngắn hạn về cách thức mọi sự diễn tiến ở Washington. Một trong những việc chúng tôi thường xuyên làm là ăn trưa cùng nhau trong phòng ăn riêng của tôi mỗi tuần một lần. Chúng tôi thay phiên nhau đọc kinh cầu nguyện, rồi nói chuyện về mọi thứ từ gia đình, thể thao, sách vở, phim ảnh cho đến những chuyện mới nhất trong công việc của anh ấy và của tôi. Chúng tôi ăn trưa với nhau như vậy trong tám năm, trừ những lúc một trong hai chúng tôi phải đi công tác nhiều ngày. Dù chúng tôi cũng có nhiều điểm chung, nhưng chúng tôi rất khác nhau, và những lần ăn trưa ấy giữ cho chúng tôi gần gũi nhau hơn trong bầu không khí nồi áp suất ở Washington, và giúp tôi hòa nhập dễ dàng hơn với đời sống mới.

Xét về tổng thể, tôi cảm thấy khá hài lòng, cả về mặt cá nhân lẫn chính trị, về 100 ngày đầu tiên cầm quyền. Tuy nhiên, tôi vẫn phải chịu nhiều căng thẳng. Hillary cũng vậy. Dù rất phấn khích và quyết tâm, trước khi bước vào cuộc sống tổng thống, chúng tôi đã mệt mỏi sẵn vì chưa thực sự nghỉ ngơi chút nào sau kỳ bầu cử. Thế rồi chúng tôi cũng không có được tuần trăng mật mà các tổng thống tân cử thường có, một phần vì vấn đề đồng tính trong quân đội nổi lên khá sớm, có lẽ vì chúng tôi làm báo giới giận dữ bằng việc hạn chế họ đi lại trong Cánh Tây. Cái chết của cha Hillary là một mất mát đau đớn với cô ấy. Tôi cũng nhớ Hugh, và cả hai chúng tôi phải loay hoay khi chơi các trò chơi mất một thời gian. Dù chúng tôi rất thích thú với công việc, sự mệt mỏi về thể xác lẫn tinh thần của 100 ngày đầu tiên là rất đáng kể.