← Quay lại trang sách

Chương 42

Trong vòng một tuần sau ngày bầu cử, tôi lại lao đầu vào công việc, và phe Cộng hòa cũng thế. Ngày 10 tháng 11, tôi chỉ định Patsy Fleming làm giám đốc cơ quan hoạch định chính sách quốc gia phòng chống AIDS. Đây là một sự thừa nhận những đóng góp xuất sắc của bà trong việc phát triển chính sách chống bệnh AIDS của chúng tôi, bao gồm tăng 30% toàn bộ các chi phí hoạt động, và tôi cũng vạch ra một loạt những sáng kiến mới để chiến đấu chống lại bệnh AIDS. Bổ nhiệm này cũng nhằm để tôn vinh cho một gương sáng của cuộc chiến chống AIDS, bà Elizabeth Glaser, người đã chiến đấu một cách tuyệt vọng với cơn bệnh này và đã mất trong ba tuần.

Cùng ngày hôm đó, tôi thông báo Hoa Kỳ sẽ không còn chế tài lệnh cấm vận vũ khí với Bosnia. Động thái này được sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc hội và rất cần thiết vì người Serbia đã tiếp tục tấn công bằng cách đánh vào thành phố Bihac; vào cuối tháng 11, NATO tiến hành ném bom các vị trí tên lửa của Serbia trong vùng. Vào ngày 12, tôi lên đường sang Indonesia dự hội nghị thường niên lãnh đạo APEC, nơi mà 18 quốc gia châu Á Thái Bình Dương đã hứa với nhau tạo ra một thị trường châu Á tự do vào năm 2020, với việc đi trước của những nước giàu vào năm 2010.

Tại chính trường quốc nội, Newt Gingrich, tắm mình trong ánh hào quang của chiến thắng vang dội, vẫn tiếp tục những lời đả kích trịch thượng đã giúp cho ông ta đạt được thắng lợi trong chiến dịch tranh cử vừa qua. Ngay trước khi cuộc bầu cử bắt đầu, ông ta đã trích một trang từ trong cuốn sách nhỏ của ông ta gồm toàn những lời bôi nhọ, và gọi tôi là "kẻ thù của người Mỹ bình thường". Một ngày sau ngày bầu cử, ông ta gọi Hillary và tôi là những "kẻ phản văn hóa theo kiểu McGovern", là những lời lên án không còn gì tồi tệ hơn.

Những lời mà Gingrich ném vào mặt chúng tôi cũng đúng ở một vài khía cạnh. Chúng tôi đã từng ủng hộ McGovern, và chúng tôi không thuộc nền văn hóa mà Gingrich muốn áp đặt lên toàn bộ nước Mỹ: tư tưởng cái gì cũng cho mình đúng, hay chỉ trích người khác, chỉ cho có một cái đúng tuyệt đối - là những tư tưởng mặt trái của những người bảo thủ da trắng miền nam nước Mỹ. Tôi là một người Baptist da trắng miền Nam, tự hào về nguồn gốc và tin tưởng vững chắc vào tín ngưỡng của mình. Nhưng tôi cũng hiểu rất rõ về mặt trái của chính nguồn gốc mình. Khi còn là một cậu bé, tôi đã chứng kiến người ta khăng khăng rằng lòng mộ đạo và sự vượt trội về tinh thần của họ là đủ để nắm quyền lực chính trị, và gán cho những người có quan điểm khác với mình là quỷ dữ, thường là trên lĩnh vực dân quyền. Tôi thì cho rằng ý tưởng chính của nước Mỹ là phải làm sao xây dựng một liên bang hoàn chỉnh hơn nữa, mở rộng hơn nữa các quan điểm tự do và cơ hội, và củng cố thêm những mối liên hệ giữa các cộng đồng vượt khỏi những lằn ranh cách biệt còn chia rẽ chúng ta.

Cho dù tôi thấy thú vị và ấn tượng với Gingrich và kỹ năng chính trị của ông ta, nhưng tôi không quan tâm nhiều về việc ông ta tuyên bố rằng quan điểm chính trị của ông ta là đại diện cho các giá trị tốt đẹp nhất của nước Mỹ. Tôi đã được giáo dục là không được coi thường bất cứ một người nào hoặc là không được trách cứ người khác vì các khó khăn hay những mặt hạn chế của chính mình. Phe "Tân cánh hữu" thì lại muốn chuyển tải một thông điệp ngược lại. Nhưng nó có một sức hút chính trị vô cùng to lớn vì nó tạo điều kiện cho sự an tâm về mặt tâm lý và một sự né tránh về mặt trách nhiệm: "họ" luôn luôn đúng, "chúng tôi" luôn luôn sai; "chúng tôi" phải chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề, ngay cả khi "họ" kiểm soát chức vụ tổng thống trong tất cả 26 năm trừ 6 năm vừa qua. Tất cả chúng tôi đều có thể bị các luận cứ chỉ trích làm mất đi những công lao đóng góp, và vào năm bầu cử 1994, trong một nước Mỹ mà các gia đình trung lưu luôn phải làm việc một cách cật lực, gặp khó khăn kinh tế, tội ác và nạn ma túy lan tràn, giá trị gia đình thì xuống cấp, thông điệp đó của họ vẫn có những người lắng nghe, đặc biệt khi mà chúng tôi lại không có một thông điệp đáp trả.

Gingrich và cánh hữu của đảng Cộng hòa đã đưa chúng tôi trở lại những năm 1960 một lần nữa; Newt cho rằng nước Mỹ là một quốc gia vĩ đại cho đến trước những năm I960, khi đảng Dân chủ lên nắm quyền và thay đổi các khái niệm tuyệt đối về cái đúng và cái sai bằng các giá trị tương đối. Ông ta hứa đưa chúng ta trở lại nền đạo lý của những năm 1950, nhằm "tái sinh nền văn minh Mỹ".

Tất nhiên cũng có những sự thái quá về chính trị cũng như lối sống trong những năm I960, nhưng thập niên này và những phong trào mà nó'San sinh ra cũng tạo ra những sự tiến bộ về dân quyền, quyền của phụ nữ, một môi trường trong sạch, môi trường làm việc an toàn, và cơ hội cho những người nghèo. Phe Dân chủ tin tưởng và làm việc vì những giá trị này. Và rất nhiều thành viên truyền thống của đảng Cộng hòa, kể cả một số thống đốc mà tôi đã phục vụ vào cuối những năm 1970 và 1980 cũng làm như vậy. Bằng cách chỉ tập trung vào một số những sự thái quá của những năm I960, phe Cánh hữu mới làm tôi nhớ rất nhiều đến sự soi mói của những người da trắng phía nam nhắm vào thời kỳ Tái thiết cách đây một thế kỷ sau cuộc nội chiến của nước Mỹ. Khi tôi bắt đầu lớn lên, chúng tôi vẫn còn được nhồi vào đầu rằng phe miền Bắc khốn nạn với chúng tôi ra sao trong thời kỳ Tái thiết, và miền Nam đã cao cả ra sao, ngay cả khi thua trận. Cũng có một phần sự thật, nhưng những kẻ kêu gào to tiếng nhất luôn bỏ qua một bên những gì tốt đẹp mà Tổng thông Lincoln và những người quốc gia Cộng hòa đã làm khi hủy bỏ chế độ nô lệ và giữ vững sự thống nhất của đất nước. Đối với các vấn đề lớn như chế độ nô lệ và sự thống nhất của đất nước, miền Nam hoàn toàn sai.

Bây giờ việc đó lại tái diễn, khi cánh hữu sử dụng những sự thái quá của những năm 60 để làm lu mờ những việc làm tốt trong lĩnh vực dân quyền và nhiều lĩnh vực khác. Việc lên án mọi thứ của họ làm tôi nhớ đến một câu chuyện mà Thượng nghị sĩ David Pryor thường kể về một lần nói chuyện của ông với một ông lão 85 tuổi. Ông lão nói là ông đã sống qua hai cuộc chiến tranh thế giới, thời kỳ Đại khủng hoảng, chiến tranh Việt Nam, phong trào đòi các quyền dân sinh, và tất cả sự xáo trộn khác của thế kỷ thứ 20. Pryor nói: "Thế thì cụ đã chứng kiến nhiều sự thay đổi". Ông cụ trả lời: "Đúng vậy, và sự thay đổi nào tôi cũng chống lại cả".

Thế nhưng, tôi không muốn "ác quỷ hóa" Gingrich và những người đi theo ông ta như là ông ta đối xử với chúng tôi. Ông ta có một số ý tưởng lý thú, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và kinh doanh, và ông là một con người theo chủ nghĩa quốc tế nhiệt thành trong chính sách đối ngoại. Hơn nữa, trong nhiều năm tôi cũng suy nghĩ là đảng Dân chủ cũng nên hiện đại hóa quan điểm của họ, nên bớt tập trung vào việc bảo tồn những thành quả của đảng đạt được trong thời đại công nghiệp, mà quan tâm nhiều hơn đến việc đối phó với những thách thức của thời đại thông tin, và làm sáng tỏ những cam kết của chúng ta đối những giá trị và mối quan tâm của giai cấp trung lưu. Tôi hoan nghênh cơ hội để so sánh những ý tưởng Dân chủ Mới trong các vấn đề kinh tế và xã hội với các quan điểm được trình bày trong "Bản hợp đồng với nước Mỹ". Chính trị ở đỉnh cao của nó là phải cạnh tranh ý tưởng và chính sách.

Nhưng Gingrich không dừng lại ở đây. Cốt lõi lập luận của ông ta không chỉ là ý tưởng của ông ấy hay hơn ý tưởng của chúng tôi; ông ta cho rằng các giá trị của ông ta tốt đẹp hơn của chúng tôi, bởi vì phe Dân chủ là những con người yếu kém trong gia đình, trong công việc, sự thịnh vượng, tội ác, và quốc phòng, và do đã tự hại mình với cách sống tự nuông chiều thời thập niên 60, chúng tôi không thể phân biệt cái đúng và cái sai.

Sức mạnh chính trị của lý thuyết của ông ta nằm ở chỗ nó nhấn mạnh đến mẫu người tiêu cực của đảng Dân chủ mà các thành viên của đảng Cộng hòa đã tìm cách áp đặt lên suy nghĩ của dân chúng từ năm 1968. Nixon đã làm việc này; Reagan cũng thế; và George Bush cũng đã áp dụng phương cách này khi ông biến cuộc bầu cử năm 1988 trở thành một cuộc trưng cầu ý dân về vụ án Willie Horton và Tuyên thệ Trung thành. Và ngày nay thì Newt đã sử dụng nghệ thuật "phẫu thuật thẩm mỹ ngược" để đả phá chúng tôi một cách tinh vi và khốc liệt hơn.

Cái không ổn của lý thuyết của ông ta nằm ở chỗ nó không đúng với sự thực. Hầu hết các thành viên đảng Dân chủ đều rất kiên quyết trong việc chống lại tội ác, ủng hộ các cuộc cải cách để mang lại thinh vượng cho dân chúng và một nền quốc phòng hùng mạnh, và có trách nhiệm rất nhiều hơn các thành viên cánh hữu mới của đảng Cộng hòa Hầu hết trong số họ là những con người Mỹ làm việc một cách cật lực tôn trọng luật pháp, rất yêu nước, làm việc cho các cộng đồng, và nuôi dạy con cái rất tốt. Mặc kệ các sự thật rành rành như thế, Gingrich vẫn xác định quyết tâm bôi xấu chúng tôi, và ông tranh thủ ra tay ngay khi có cơ hội.

Thế rồi ông ta tiếp tục buộc tội, mà không có một bằng chứng nào, rằng 25% các trợ lý của tôi làm việc tại Nhà Trắng là những người sử dụng ma túy. Sau đó ông nói rằng chính các giá trị của đảng Dân ghủ là nguyên nhân đưa đến tình trạng có có thai ở tuổi vị thành niên, sinh con ngoài giá thú, và những đứa con được sinh ra nên được tách ra khỏi người mẹ và đưa vào các nhà nuôi trẻ mồ côi. Khi Hillary đặt vấn đề liệu việc tách trẻ em khỏi người mẹ, có thực sự tốt hơn cho chúng không, ông ta liền trả lời, bà nên xem bộ phim Boys Town - Thành phố của những cậu bé được sản xuất vào năm 1938, theo đó các trẻ em nghèo đã được nuôi dạy trong những trường Thiên Chúa giáo rất tốt trước khi bị những năm 1960 khủng khiếp làm hỏng đi tất cả chúng ta.

Gingrich thậm chí coi phe Dân chủ phải chịu trách nhiệm rằng những giá trị "buông thả" của mình tạo ra một môi trường đạo đức đã khuyến khích một bà mẹ ở bang Nam Carolina có tâm lý mất ổn định, Susan Smith, dìm chết hai người con trai của bà vào năm 1994. Khi điều tra ra bà Smith đã bị mất cân bằng tâm lý vì bà đã bị người cha kế là một người cực bảo thủ, một người nằm trong Ban điều hành của Hội đồng tôn giáo địa phương lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu của bà, thì Gingrich vẫn không bị bối rối, ông vẫn giữ thái độ dửng dưng. Tất cả mọi tội lỗi, cho dù đó là những tội lỗi của người bảo thủ, vẫn xuất phát từ nền đạo đức theo chủ nghĩa tương đối mà đảng Dân chủ đã áp đặt lên nước Mỹ vào năm 1960.

Tôi cứ mãi chờ xem Gingrich giải thích sự phá sản về đạo đức do đảng Dân chủ tạo ra đã có thể làm hư hỏng các Chính phủ Nixon và Reagan dẫn đến các vụ tai tiếng Watergate và Iran-Contra ra sao. Tôi chắc chắn là nếu muốn thì ông ta thế nào cũng tìm ra cách. Một khi đã phóng lao, thì Newt khó mà dừng lại được.

Khi chuẩn bị bước sang tháng 12, một chút tỉnh táo nhỏ nhoi quay lại với đời sống chính trị khi cả hạ viện và thượng viện thông qua Thỏa thuận toàn cầu về Thuế quan và Thương mại (GATT), với tuyệt đối đa số phiếu ủng hộ từ cả hai đảng. GATT giảm thuế nhập khẩu trên phạm vi toàn cầu tương đương một số tiền khổng lồ là 740 tỷ đôla, mở ra các thị trường trước đó bị đóng cửa với các sản phẩm và dịch vụ của nước Mỹ, tạo cơ hội cho các quốc gia nghèo bán sản phẩm của họ cho những người tiêu dùng bên ngoài biên giới, tạo tiền đề cho việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) để thiết lập những qui chế thương mại đồng bộ và phân xử các vụ tranh chấp thương mại. Raph Nader và Ross Perot đã mạnh mẽ vận động chống lại hiệp ước này, cho rằng nó sẽ tạo ra những ảnh hưởng khủng khiếp, từ việc để mất chủ quyền của nước Mỹ, đến việc gia tăng khai thác lao động trẻ em. Sự chống đối của họ chỉ thu được những kết quả không đáng kể; các nghiệp đoàn lao động chống đối hiệp ước GATT ít quyết liệt hơn hiệp ước NAFTA, và Mickey Kantor đã hoàn thành tốt công việc này khi đưa hiệp ước ra quốc hội thông qua.

Có một đạo luật được thông qua cùng với hiệp ước GATT và gần như không được chú ý là đạo luật Bảo vệ người về hưu năm 1994. vấn đề lương hưu ít ỏi lần đầu tiên thu hút được sự chú ý của tôi từ một công dân tại một cuộc tranh luận ở Richmond vào thời gian vận động tranh cử của tôi. Đạo luật này đòi hỏi các công ty phải gia tăng đóng góp, đồng thời ổn định hóa hệ thống bảo hiểm trợ cấp lương hưu quốc gia và bảo hộ tốt hơn cho 40 triệu người Mỹ. Luật bảo hộ người về hưu và GATT là những thành quả lập pháp quan trọng cuối cùng của hai năm đầu làm tổng thống của tôi, và nếu đặt trong hoàn cảnh các kết quả bầu cử, thì đó là những thành quả vừa đắng vừa ngọt.

Đầu tháng 12, Lloyd Bentsen từ chức Bộ trưởng Ngân khố, và tôi chỉ định Bob Rubin lên thay ông. Bentsen đã hoàn tất công việc một cách tuyệt vời, và tôi vẫn muốn ông tiếp tục công việc, nhưng ông và vợ muốn trở về cuộc sống riêng tư. Việc lựa chọn người kế nhiệm là một công việc dễ dàng; Bob Rubin đã biến việc xây dựng Hội đồng Kinh tế Quốc gia trở thành sự đổi mới quan trọng nhât trong các quyết định của Nhà Trắng trong nhiều thập kỷ, được Phố Wall nể phục; ông muốn nền kinh tế đem lại lợi ích cho tất cả mọi người Mỹ. Không lâu sau, tôi đề cử Laura Tyson kế nhiệm Bob tại Hội đồng Kinh tê Quốc gia.

Sau khi chiêu đãi tổng thống mới của Ukraina, Leonid Kuchma tôi đến Budapest, Hungary chỉ ở lại trong tám tiếng đồng hồ để dự hội nghị về An ninh và Hợp tác châu Âu và ký những thỏa thuận phi hạt nhân hóa với Tổng thống Yeltsin, Thủ tướng John Major, và các Tổng thống của Ukraina, Kazakhstan, và Belarus. Việc này lẽ ra đã phải tạo nên những tin tức tốt lành trên các phương tiện thông tin đại chúng về quyết tâm của chúng ta cắt giảm hàng nghìn đầu đạn hạt nhân và ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hạt nhân đến những quốc gia khác. Thế nhưng, tin tức về Budapest lại là bài diễn văn của Tổng thống Yeltsin chỉ trích tôi đang thay thế cuộc Chiến tranh Lạnh bằng một nền "Hòa bình lạnh" khi vội vàng thúc đẩy việc mở rộng NATO sang các quốc gia Trung Âu. Trên thực tế là tôi đang làm một việc ngược lại, bằng cách đưa ra một bước chuyển tiếp thông qua thiết lập tổ chức Đối tác Hòa bình bao gồm nhiều quốc gia hơn; bằng một tiến trình mở rộng có cân nhắc các thành viên NATO mới; và bằng nỗ lực để thiết lập một mối quan hệ đối tác NATO-Nga.

Bởi vì tôi không được cảnh báo trước về bài diễn văn của Yeltsin, và ông ta đọc lời tuyên bố này sau bài diễn văn của tôi, tôi rất bị bất ngờ và bực bội, vì không biết tại sao ông lại phát biểu như thế, và vì tôi không có cơ hội để trả lời. Hình như, các cố vấn của Yeltsin đã thuyết phục ông ta rằng NATO sẽ kết nạp Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Séc vào năm 1996, đúng vào năm ông phải tham gia cuộc tuyển cử chống lại những kẻ theo đường lối quốc gia quá khích, là những người rất căm ghét sự mở rộng của NATO, và tôi thì lại phải đối đầu với phe Cộng hòa vốn ủng hộ việc này.

Sự cố ở Budapest là đáng phiền trách, một thời điểm hiếm có khi mà cả hai bên đều bỏ bóng xuống, nhưng tôi cho rằng mọi việc sẽ qua. Một vài ngày sau, Al Gore đến gặp Yeltsin khi anh sang Moscow tham dự hội nghị lần thứ tư của ủy ban Gore-Chemomyrdin về Hợp tác Kinh tế, Khoa học, và Kỹ thuật. Boris nói với Al Gore rằng ông ta với tôi vẫn là đối tác với nhau, và Al trấn an Yeltsin rằng chính sách NATO của chúng tôi đã không có sự thay đổi. Tôi không muốn trách cứ ông vì các lý do chính trị đối nội, cũng như tôi chẳng muốn để ông ngăn cản mãi mãi NATO kết nạp thành viên mới.

Ngày 9 tháng 12, tôi đến Miami để khai mạc Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia châu Mỹ, cuộc gặp gỡ đầu tiên của toàn bộ lãnh đạo Tây Bán Cầu từ năm 1967. Ba mươi ba nguyên thủ quốc gia được bầu chọn một cách dân chủ, từ Canada, Trung và Nam Mỹ, vùng Caribe đều có mặt, kể cả vị tổng thống 41 tuổi Aristide của nước Haiti, và người láng giềng của ông là Tổng thống Joaquin Balaguer của nước Cộng hòa Dominica lúc đó đã 88 tuổi, mù và ốm yếu, nhưng vẫn còn rất sáng suốt về tinh thần.

Tôi là người đưa ra sáng kiến cuộc họp thượng đỉnh này để thúc đẩy một khu vực thương mại tự do trên toàn bộ châu Mỹ, từ Cực Bắc xuống đến quần đảo Tierra Del Fuego; để củng cố nền dân chủ và hiệu quả hoạt động của các chính phủ trên toàn bộ khu vực; và để chứng tỏ rằng Hoa Kỳ quyết tâm là một người láng giềng tốt. Cuộc họp là một sự thành công toàn diện. Chúng tôi cam kết thiết lập một vùng thương mại tự do trên toàn châu Mỹ vào năm 2005, và để lại một cảm giác rằng chúng tôi cùng nhau đi đến tương lai, một tương lai mà theo cách nói của một nhà thơ lớn người Chi Lê Pablo Neruda, "Không có một cuộc đấu tranh cô đơn nào, cũng không có một niềm hy vọng cô đơn nào".

Ngày 15 tháng 12, tôi lên truyền hình đọc một thông điệp để khái quát các đề nghị giảm thuế cho tầng lớp trung lưu vào những năm tài khóa sắp tới. Chương trình này gặp sự chống đối của một số người trong chính phủ và một số báo chí chỉ trích xem đây như là một sự bắt chước việc làm của đảng Cộng hòa, hoặc là một nỗ lực trở về những lời hứa vào năm 1992 trong chiến dịch tranh cử mà các cử tri đã trừng phạt khi tôi không giữ đúng chúng. Vì cả các lý do chính sách lẫn chính trị, tôi cố gắng trở lại việc cắt giảm thuế với các đảng viên đảng Cộng hòa trước khi quốc hội mới nhóm họp. Bản hợp đồng của đảng Cộng hòa bao gồm các đề nghị về thuế khóa mà tôi cho là không khả thi và quá nặng đối tầng lớp có thu nhập cao của nước Mỹ. Mặt khác nước Mỹ vẫn đang trong tình trạng gánh chịu hậu quả của hai thập kỷ trì trệ về chính sách thuế đối với giai cấp trung lưu, và đó là lý do chính mà người dân không cảm thấy được nền kinh tế đang được cải thiện. Chúng tôi thực hiện một bước đột phá trong vấn đề này bằng việc hoàn gấp đôi thuế thu nhập. Và việc cắt giảm thuế đúng đắn có thể làm tăng thu nhập của giai cấp trung lưu mà không làm ảnh hưởng đến việc giảm thâm thủng hoặc khả năng của chúng ta trong việc đầu tư cho tương lai, và sẽ thực hiện đúng những cam kết của tôi trong thời gian chiến dịch tranh cử.

Trong bản thông điệp nàỵ, tôi đề nghị một bản tuyên ngôn dân quyền của giai cấp trung lưu, bao gồm một khoản hoàn thuế nuôi con 500 đôla cho các gia đình với thu nhập từ 75.000 đôla/năm trở xuống giảm thuế cho học phí đại học; mở rộng đạo luật về ưu đãi thuế đối với các lương hưu tiết kiệm được (IRA); chuyển đổi các khoản ngân sách mà chính phủ chi cho các chương trình dạy nghề cho người lao động thành những khoản trợ cấp bằng tiền trực tiếp cho họ để họ lựa chọn chương trình học nghề phù hợp. Tôi thông báo với nhân dân Mỹ là chúng tôi có thể tài trợ cho việc giảm thuế cả gói thông qua những sự tiết kiệm của Sáng kiến Cải cách Chính phủ của Phó tổng thống Al Gore, trong khi vẫn giữ được việc giảm thâm thủng ngân sách.

Ngay trước giáng sinh, Al Gore và tôi thông báo việc chỉ định các thành phố và cộng đồng nông thôn đầu tiên là các "vùng tạo điều kiện" đầu tiên, theo kế hoạch năm 1993, được hưởng những chính sách ưu đãi thuế và trợ cấp của chính phủ liên bang để thúc đẩy phát triển ở những nơi đã bị tụt lại trong những lần phục hồi kinh tế gần đây

Ngày 22 tháng 12 là ngày làm việc cuối cùng của Dee Dee Mye với tư cách thư ký báo chí. Cô đã hoàn tất công việc một cách xuất sắc trong những hoàn cảnh khó khăn. Dee Dee đã cộng tác với tôi từ thời kỳ khó khăn ở New Hampshire. Từ đó chúng tôi đã chế ngự nhiều bão tố và chơi vô số những ván bài với nhau. Tôi nghĩ rằng cô ấy sẽ còn thăng tiến nữa sau khi không còn làm thư ký tại Nhà Trắng, và thực 1 đúng như vậy.

Sau chuyến du lịch hằng năm vào năm mới của chúng tôi với kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng, Hillary và tôi nghỉ thêm hai ngày để trở về nhà, để thăm mẹ vợ tôi và Dick Kelley, và tôi đến săn vịt cùng bạn bè ở Arkansas. Mỗi năm, khi các đàn vịt bay từ Canada về phía nam để tránh đông, một trong hai hành lang bay của chúng là bay dọc the sông Mississippi. Rất nhiều đàn vịt dừng lại trên các cánh đồng lúa gạo và ao hồ của vùng lưu vực Arkansas, và trong những năm gần đây nhiều nông dân đã dựng những trại săn vịt trên đồng ruộng của họ, vừa để giải trí và vừa để tăng thu nhập.

Thật là tuyệt vời khi được xem các đàn vịt bay đến vào lúc rạng đông. Chúng ta có thể thấy chúng bay thật cao, theo đội hình chữ V. Chỉ có hai con vịt bay vào tầm bắn vào buổi sáng nhiều mây ngày hôm ấy. Những thanh niên cùng đi với tôi dành cho tôi cơ hội để nhắm bắn chúng. Họ còn ở đây nhiều ngày nữa để săn bắn. Tôi chỉ cho các phóng viên cùng đi với tôi thây là các khẩu súng của chúng tôi được luật chống tội ác bảo vệ và chúng tôi không cần những khẩu súng tấn công để săn vịt, và khẩu súng tôi sử dụng vừa bắn hạ một con vịt cách xa khoảng 70 mét, cũng được đạo luật này bảo vệ.

Ngày hôm sau, tôi và Hillary dự buổi lễ thể hiện lòng kính trọng với gia đình của ngôi trường tiểu học công lập mang tên tôi, William Jefferson Clinton ở Sherwood, ngay bên ngoài bắc Little Rock. Đây là một cơ sở tráng lệ, với một phòng học đa chức năng mang tên mẹ tôi và một thư viện mang tên Hillary. Thú thật là tôi rất thích khi thấy tên mình được đặt cho một trường học mới; không ai mắc nhiều nợ với các thầy giáo như tôi.

Tôi rất cần chuyến về thăm quê nhà này. Tôi đã làm việc quần quật suốt hai năm qua. Tôi đã làm rất nhiều việc, nhưng thường là "không thể thấy được khu rừng vì có quá nhiều cây che khuất nó". Năm mới sắp đến sẽ đặt ra nhiều sự thử thách. Để đối phó với chúng, tôi cần thêm các cơ hội để sạc lại năng lượng và tưới thêm nước vào gốc rễ của chính mình.

Khi tôi trở về Washington, tôi chờ đợi để xem phe Cộng hòa giữ lời hứa của họ trong chiến dịch tranh cử như thế nào, và đồng thời để chiến đấu giữ gìn và thực hiện đầy đủ tất cả các đạo luật đã được thông qua trong hai năm vừa qua. Khi quốc hội thông qua một đạo luật mới, thì công việc của Hành pháp chỉ mới bắt đầu. Ví dụ như, luật chống tội ác cho phép cung cấp kinh phí cho việc tuyển thêm 100.000 nhân viên cảnh sát mới làm việc ở các cộng đồng dân cư. Chúng tôi phải thành lập một văn phòng tại Bộ Tư pháp để phân phối kinh phí, xây dựng các tiêu chuẩn để tuyển dụng, quản lý việc tuyển dụng, và giám sát việc sử dụng số kinh phí này, để có thể báo cáo tiến độ việc thực thi đạo luật này cho quốc hội và nhân dân Hoa Kỳ.

Ngày 5 tháng giêng, tôi có cuộc họp đầu tiên với các lãnh đạo mới của quốc hội. Bên cạnh Bob Dole và Newt Gingrich, nhóm nghị sĩ của đảng Cộng hòa bao gồm Thượng nghị sĩ Trent Lott của bang Missisippi, và hai của Texas, dân biểu Dick Armey, lãnh đạo phe đa số tại hạ viện, và dân biểu Tom DeLay, thành viên ban lãnh đạo phe đa số tại hạ viện. Các lãnh đạo Dân chủ là Thượng nghị sĩ Tom Daschle của bang Nam Dakota, dân biểu Dick Gephardt cùng với Thượng nghị sĩ Wendell Ford của bang Kentucky, thành viên ban lãnh đạo đảng Dân chủ tại thượng nghị viện, và người đồng nghiệp của ông tại hạ viện David Bonior của bang Michigan.

Cho dù cuộc gặp mặt với các lãnh đạo quốc hội rất thân mật, và chúng tôi có thể cùng nhau làm việc trong một vài lĩnh vực của bản hợp đồng của đảng Cộng hòa, song tôi vẫn biết trước sẽ không thể tránh được những cuộc đấu rất căng thẳng với nhau đối với những vấn đề quan trọng mà chúng tôi có những khác biệt rất lớn với nhau. Rõ ràng là tôi và toàn bộ ê kíp phải làm việc một cách hết sức tập trung và tuân thủ cao tính kỷ luật trong mọi hoạt động cũng như trong chiến lược thông tin. Khi một phóng viên hỏi tôi là các mối quan hệ giữa chúng tôi sẽ được dựa trên "sự thỏa hiệp hay sự đối đầu", câu trả lời của tôi là như sau: "Ngài Gingrich sẽ thì thầm bên tai phải của ông còn tôi sẽ thì thầm bên tai trái của ông".

Khi các vị nghị sĩ rời buổi gặp mặt, tôi bước vào phòng họp báo để thông báo người thư ký báo chí mới của tôi là Mike McCurry. Chỉ đến lúc này, Mike là phát ngôn viên của Ngoại trưởng Warren Chris topher tại Bộ Ngoại giao. Trong chiến dịch tranh cử tổng thông, với tư cách là thư ký báo chí cho thượng nghị sĩ Bob Kerrey, ông ta đã tấn công những đòn đau. Tôi không quan tâm đến chuyện này; lúc đầu ông được cho là chống tôi, nhưng ông làm tốt nhiệm vụ của ông tại Bộ Ngoại giao khi giải thích và bảo vệ tốt chính sách ngoại giao của chúng tôi.

Chúng tôi còn có thêm một sô nhân sự mới trong bộ máy. Ersking Bowles được chuyển công tác từ Cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ đến Nhà Trắng, đổi chỗ cho Phil Lader. Erskine rất phù hợp với chiến lược phối hợp giữa một sự thỏa hiệp cẩn trọng với lối đánh du kích, là đặc trưng của những mối quan hệ của chúng tôi với quốc hội mới, bởi vì ông ta là một nhà doanh nghiệp tài ba và là một nhà thương lượng tầm cỡ quốc tế; ông ta biết rất rõ khi nào cần phải hòa hoãn, khi nào cần phải hút. Ông sẽ là một người hỗ trợ đắc lực cho Panetta, và bổ túc những khả năng cho người phó thứ hai của Leon là Harold Ickes, một con người rất cứng rắn.

Như các tháng khác, tháng giêng cũng có những tin tốt và tin xấu: tỷ lệ thất nghiệp xuống còn 5,4%/ với 6,5 triệu việc làm mới; Kenneth Starr đã thể hiện "tính độc lập" của mình khi tuyên bố, một cách không thể tin được là, ông ta sẽ tái điều tra về cái chết của Vince Foster; Chính phủ của Yitzhak Rabin đang bị đe dọa khi 19 người Israel bị giết chết vì bom của những kẻ khủng bố. Đây là một hành động làm suy yếu sự ủng hộ đối với các nỗ lực hòa bình của ông; và tôi đã ký ban hành đạo luật đầu tiên của quốc hội mới; đây là một đạo luật mà tôi đã bảo trợ một cách mạnh mẽ, yêu cầu quốc hội phải tuân thủ tất cả yêu cầu mà họ đã áp đặt lên các tổ chức sử dụng lao động khác.

Ngày 24 tháng giêng, tôi đọc Thông điệp Liên bang trước một quốc hội do đảng Cộng hòa kiểm soát lần đầu tiên từ 40 năm qua. Tôi phải có thái độ thỏa hiệp nhưng không được tỏ ra yếu thế, mạnh mẽ nhưng không được ra vẻ thách thức. Tôi bắt đầu bài phát biểu bằng lời đề nghị quốc hội để qua một bên "tinh thần đảng phái, tính cục bộ và sự kiêu hãnh" và đề xuất chúng ta nên cùng hợp tác với nhau để đem lại những cải cách cho sự thịnh vượng, không được trừng phạt người nghèo mà tăng cường thêm sức mạnh cho họ. Sau đó tôi nêu lên một trường hợp điển hình nhất về tiềm năng của những người nhận trợ cấp xã hội Mỹ: đó là Lynn VVoolsey, một phụ nữ từ chỗ phải nhận trợ cấp xã hội đã chuyển sang đi làm, thăng tiến đến khi bà trở thành thành viên hạ viện đại diện cho bang California.

Sau đó tôi đã thách thức phe Cộng hòa trên nhiều mặt trận. Nếu họ biểu quyết một tu chính án để cân đôi ngân sách, thì họ phải nói rõ bằng cách nào họ cân đối được nó và liệu họ có cắt giảm các quỹ phúc lợi xã hội hay không. Tôi yêu cầu họ không được giải thể tổ chức AmeriCorps - một tổ chức gồm 3000 tổ chức không vụ lợi hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ giáo dục đến làm sạch môi trường. Họ đã từng đe dọa giải thể tổ chức này. Nếu họ muốn tăng cường sức mạnh cho luật chống tội ác thì tôi sẽ cộng tác với họ, nhưng tôi chống lại việc thu hồi các chương trình phòng chống tội ác đã chứng minh được hiệu quả, kế hoạch triển khai 100.000 nhân viên cảnh sát trên đường phố hoặc kế hoạch cấm việc sử dụng các loại súng tấn công. Tôi khẳng định rằng tôi không xâm phạm đến quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp súng, "nhưng rất nhiều người đã hy sinh chiếc ghế của họ tại quốc hội để rất nhiều nhân viên cảnh sát và trẻ em không phải hy sinh tính mạng của họ dưới làn đạn của những khẩu súng tấn công, và tôi sẽ không để-cho đạo luật bị rút lại".

Tôi kết thúc bài nói với một cánh tay chìa ra cho phe Cộng hòa, thúc đẩy việc cắt giảm thuế cho tầng lớp trung lưu nhưng tuyên bố rằng tôi sẽ cộng tác với họ về vấn đề này, và nhìn nhận rằng trên lĩnh vực bảo hiểm y tế, chúng ta đang làm một việc vượt quá sức mình; nhưng tôi yêu cầu họ cộng tác với tôi từng bước một, và bắt đầu bằng việc bảo đảm rằng người dân sẽ không bị mất bảo hiểm y tế nếu họ thay đổi việc làm, hoặc khi một thành viên gia đình họ bị bệnh; và tôi cũng tìm kiếm sự ủng hộ của phe Cộng hòa cho một chính sách đối ngoại chung cho cả hai đảng.

Thông điệp Liên bang không những là một dịp để tổng thống nói chuyện trực tiếp với toàn thể nhân dân Hoa Kỳ trong vòng một tiếng đồng hồ liền mà không bị cắt bớt hay kiểm duyệt, mà còn là một trong những nghi thức quan trọng của nền chính trị Mỹ. Rất nhiều lần những lời phát biểu của tổng thống bị cắt ngang bởi những tràng vỗ tay, nhất là những lần cử tọa đứng lên hoan hô; những gì đã thúc đẩy các nghị sĩ Dân chủ hay Cộng hòa đứng lên vỗ tay, và những gì đã giúp họ tỏ ra nhất trí với nhau; những phản ứng của những nghị sĩ và dân biểu quan trọng; và những ý nghĩa về các nhân vật được lựa chọn để ngồi trong khu vực Đệ nhất phu nhân, tất cả đều được báo chí ghi nhận và toàn thể nhân dân chứng kiến qua màn ảnh tivi. Tại lần phát biểu này, tôi có một bài phát biểu dài 50 phút, với 10 phút dành cho những tràng vỗ tay. Vì có rất nhiều sự thỏa hiệp, cũng như vài sự đối đầu căng thẳng, cùng với những lần ngắt quãng vì những trấng pháo tay có đến hơn 90 lần nên bài phát biểu của tôi kéo dài đến 81 phút.

Cho tới khi đọc Thông điệp Liên bang, tôi đã bước vào tuần thứ hai của một trong hai cuộc khủng hoảng lớn nhất trong nhiệm kỳ đầu của tôi. Vào đêm ngày 10 tháng giêng, sau khi Bob Rubin tuyên thệ nhậm chức Bộ trưởng Tài chính tại Phòng Bầu dục, ông và Larry Summers ở lại để gặp tôi và một vài cố vấn về cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico. Giá trị của đồng peso đã tụt dốc một các thảm hại, làm hại đến khả năng vay và trả nợ của Mexico. Sự việc rất trầm trọng vì, khi mà tình hình'Mexico xấu đi, để huy động vốn, họ đã cho phát hành những trái phiếu ngắn hạn gọi là tesobonos, sẽ được hoàn lại bằng đôla. Khi giá trị đồng peso tiếp tục mất giá, thì người Mexico lại cần thêm các trái phiếu để trang trải những khoản nợ ngắn hạn bằng giá trị đồng đôla. Vào lúc đó, với chỉ 6 tỷ đôla dự trữ, Mexico phải trả đến 30 tỷ đôla vào năm 1995, 10 tỷ đôla trong ba tháng đầu năm đó.

Nếu Mexico không trả được nợ, sự sụp đổ dây chuyền của nền kinh tế, điều Rubin đã tìm cách né tránh không dám nói lên, có thể xảy ra theo một nhịp độ gia tốc, với hàng loạt những vụ thất nghiệp, lạm phát gia tăng, và nhiều khả năng là một suy thoái nặng nề và kéo dài vì các định chế tài chính, các chính phủ khác, và các nhà đầu tư tư nhân sẽ không sẵn sàng mà đầu tư thêm tiền vào một nơi quá rủi ro.

Theo sự giải thích của Rubin và Summers, thì sự sụp đổ của nền kinh tế Mexico có thể tạo ra những ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến nước Mỹ. Đầu tiên vì Mexico là đối tác kinh tế lớn thứ ba của chúng ta. Nếu họ không mua hàng hóa của chúng ta, các công ty và người lao động Mỹ có thể bị ảnh hưởng. Thứ hai là sự khủng hoảng về kinh tế ở Mexico sẽ dẫn sự gia tăng lên 30% số người nhập cảnh bất hợp pháp vào Hoa Kỳ, tức là khoảng nửa triệu người mỗi năm. Thứ ba là, một nước Mexico bị nghèo đi sẽ là địa bàn thuận lợi cho sự gia tăng hoạt động của những tập đoàn buôn bán ma túy, đã chuyển một số lượng rất lớn chất gây nghiên qua biên giới vào Hoa Kỳ. Cuối cùng, một sự sụp đổ của Mexico có thể tạo ra một ảnh hưởng nguy hại đến các quốc gia khác, bằng việc làm lung lay niềm tin của các nhà đầu tư vào những thị trường đang nổi lên tại những phần còn lại của Nam Mỹ, Trung Âu, Nga, Nam Phi và những quốc gia khác mà chúng ta tìm cách giúp hiện đại hóa và phát triển thịnh vượng. Do khoảng 40% tổng sản lượng hàng xuất khẩu của chúng ta được xuất sang các nước đang phát triển, nền kinh tế của có thể bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng.

Rubin và Summers khuyến cáo chúng tôi nên yêu cầu quốc hội thông qua một ngân khoản 25 tỷ đôla cho Mexico vay, để nước này có thể trả nợ đúng thời hạn, và giữ uy tín đối với các tổ chức cho vay cũng như các nhà đầu tư, và ngược lại Mexico cam kết tiến hành những sự cải cách về tài chính, báo cáo một cách kịp thời hơn tình trạng tài chính của họ để có thể ngăn chặn những cuộc khủng hoảng tương tự có thể xảy ra một lần nữa. Tuy nhiên Rubin và Summers cũng cảnh cáo những lời khuyến cáo của họ vẫn có thể đi đôi với các sự rủi ro. Mexico vẫp có khả năng bị sụp đổ và chúng ta có nguy cơ bị mất trắng số tiền ta cho mượn. Còn nếu chính sách này thành công, nó có thể tạo ra một vấn đề mà các nhà kinh tế học gọi là "mối rủi ro đạo đức". Mexico đã ở trên bờ vực của sự sụp đổ không phải chỉ vì các chính sách yếu kém của chính phủ, những định chế kém cỏi, mà còn vì các nhà đầu tư đã tiếp tục tài trợ các hoạt động của họ trong một thời gian dài một cách cẩu thả. Đưa tiền cho Mexico trả nợ cho các nhà đầu tư giàu sụ, chúng ta có thể tạo ra một tâm lý ỷ lại, cho rằng quyết định như vậy không bao hàm một sự rủi ro nào.

Các rủi ro này còn tồi tệ hơn do thực tế hầu hết người Mỹ không hiểu được những hậu quả sẽ xảy ra cho nền kinh tế Mỹ từ sự vỡ nợ của Mexico. Hầu hết các nghị sĩ quốc hội của đảng Dân chủ có suy nghĩ rằng việc tiếp cứu này chứng tỏ cho thấy Hiệp ước NAFTA đã không được tham mưu tốt ngay từ đầu. Và rất nhiều nghị sĩ Cộng hòa mới vừa được bầu, nhất là các vị ở hạ viện, không có được sự nhiệt tình về các vấn đề quốc tế như ông Chủ tịch hạ viện. Và một số lượng hết sức bất ngờ, các vị vừa đắc cử thậm chí còn không có hộ chiếu (ý nói chưa đi nước ngoài bao giờ - ND). Họ muốn giới hạn sự nhập cư từ Mexico, và càng không thể chi hàng tỷ đôla cho nước này.

Sau khi được nghe các ý kiến trình bày, tôi đặt thêm một vài câu hỏi, và sau đó, quyết định xúc tiến việc cho vay số tiền này. Tôi nghĩ quyết định này là dứt khoát, nhưng không phải tất cả mọi cố vấn của tôi đều thống nhất như vậy. Những người muôn tôi nhanh chóng lây lại chính mình sau thất bại thảm hại của cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ cho là tôi bị khùng. Khi George Stephanopoulos nghe nói số cho tiền cho mượn là 25 tỷ đôla, ông nghĩ Rubin và Summers muốn nói là 25 triệu đôla; ông ta cho là tôi đã tự hại mình. Panetta thì ủng hộ việc cho mượn, nhưng cảnh báo là nếu Mexico không trả lại, tôi sẽ phải trả giá bằng cuộc bầu cử vào năm 1996.

Rủi ro là vô cùng lớn, nhưng tôi có niềm tin vào tổng thống mới của Mexico Ernesto Zedillo, một tiến sĩ kinh tế học tại Đại học Yale, đang đứng mũi chịu sào khi ứng viên ban đầu cho chức tổng thống của đảng ông là Luis Colosio bị ám sát chết. Nếu có một người nào có thể giúp Mexico phục hồi, người đó là Zedillo.

Bên cạnh đó, chúng ta không thể nào đứng bên ngoài và để Mexico sụp đổ mà không nhảy vào giúp. Song song với các vấn đề kinh tế tạo ra cho cả chúng ta và người Mexico, nếu không trợ giúp họ, chúng ta sẽ gửi đi một tín hiệu về sự ích kỷ và một tầm nhìn hạn chế đối với toàn bộ châu Mỹ Latinh. Đã có thời các quốc gia vùng này oán trách nước Mỹ, cho là chúng ta kiêu ngạo và vô cảm đối với các quyền lợi và khó khăn của họ. Khi nào nước Mỹ ra tay giúp đỡ họ với một tinh thần hữu nghị chân tình, như là chính sách Người láng giềng thân thiện của Tổng thống Franklin D. Roosevelt, chính sách Liên minh vì sự tiến bộ của Tổng thống John F. Kennedy, và việc Tổng thống Carter trao trả kênh đào Panama - thì tình hình trở nên tốt hơn. Trong cuộc Chiến tranh Lạnh, khi chúng ta hỗ trợ việc lật đổ các nhà lãnh đạo được dân chúng bầu lên, ùng hộ các nhà độc tài, và khoan dung cho những sự vi phạm nhân quyền của họ, thì những phản ứng chúng ta phải đón nhận cũng thật là đích đáng.

Tôi mời các nhà lãnh đạo quốc hội đến Nhà Trắng, giải thích cho họ rõ tình hình, và đề nghị họ ủng hộ. Tât cả đều cam kết làm việc này, kể cả Bob Dole và Newt Gingrich, và nhanh chóng nhận định vấn đề khó khăn hiện nay của Mexico là "cuộc khủng hoảng đầu tiên của Thế kỷ thứ 21". Khi Rubin và Summers đến vận động tại quốc hội thì chúng tôi còn được sự ủng hộ của các Thượng nghị sĩ Paul Sarbanes bang Maryland, Thượng nghị sĩ Chris Dodd, và Thượng nghị sĩ Bob Bennett của bang Utah, một người bảo thủ theo kiểu cổ điển vô cùng thông minh đã nhanh chóng hiểu rõ được những hậu quả nếu chúng ta không có hành động và đã ủng hộ chúng tôi mạnh mẽ suốt quá trình cuộc khủng hoảng này. Chúng tôi còn được sự ủng hộ của nhiều thống đốc, kể cả thống đốc Bill Weld của bang Massachusetts, có rất nhiều quyền lợi ở Mexico, và George w. Bush bang Texas, nơi mà cùng với bang California, sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất nếu nền kinh tế Mexico sụp đổ.

Cho dù có những lý do chính đáng như vậy và được sự ủng hộ của ông Allan Gree ìspan, nhưng rõ ràng là vào thời điểm cuối tháng, việc trợ giúp này đã không được tiến hành trôi chảy tại quốc hội. Các nhà làm luật chống - NAFTA tin rằng sự giúp đỡ cả gói này là một bước đi quá xa, và những thành viên quốc hội mới của đảng Cộng hòa đang công khai nổi loạn.

Vào cuối tháng, Rubin và Summers bắt đầu tính toán đến đến một hành động đơn phương, bằng việc hỗ trợ Mexico từ nguồn quỹ ổn định Tỷ giá Hối đoái (ESF). Quỹ này đã thành lập từ năm 1934, khi Hoa Kỳ tách giá trị của đồng đôla ra khỏi tiêu chuẩn vàng, và được dùng để giảm thiểu ảnh hưởng của sự lên xuống của đồng tiền; quỹ này có khoảng 35 tỷ đôla và được Bộ trưởng Bộ Tài chính sử dụng dưới sự đồng ý của tổng thống. Vào ngày 28, hành động của Hoa Kỳ trợ giúp Mexico trở nên vô cùng cấp bách khi Bộ trưởng Tài chính Mexico gọi điện cho Rubin thông báo cho biết sự sụp đổ của nền kinh tế Mexico gần như chắc chắn sẽ xảy ra, với một khoản nợ tesobonos giá trị khoảng 1 tỷ đôla đến hạn phải trả vào tuần sau.

Cuộc khủng hoảng lên đến đỉnh điểm vào đêm thứ hai, 30 tháng 1, khi quỹ dự trữ của Mexico xuông còn chỉ 2 tỷ đôla, và giá trị của đồng peso mất thêm 10% trong ngày. Tôi hôm đấy, Rubin và Summers đến Nhà Trắng để gặp Leon Panetta và Sandy Berger khi hai vị này đang xem xét vấn đề để trình lên cho Hội đồng An ninh Quôc gia. Không rào đón trước sau gì cả, Rubin nói với họ, "Mexico chỉ còn sống 48 giờ đồng hồ nữa". Gingrich điện cho biết ông ta không thể nào thông qua việc trợ giúp cả gói này trước hai tuần, thậm chí không thể kịp trong vòng thời hạn này. Dole cũng tuyên bố như vậy. Họ đều đã thử, Tom Daschle và Dick Gephardt cũng thế, nhưng phe chống đối lại quá mạnh.

Lúc 11 giờ đêm tôi trở về Nhà Trắng từ buổi gặp mặt gây quỹ và thẳng vào phòng làm việc của Leon để được nghe tin không lành đó. Rubin và Summers tóm tắt lại những hậu quả của một sự sụp đổ về kinh tế của Mexico, rồi sau đó cho biết chúng ta "chỉ cần" bảo đảm cho vay 20 tỷ đôla, chứ không phải 25 tỷ đôla, vì Giám đốc của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Michel Camdessus tuyên bố sẽ hỗ trợ cả gói gần 18 tỷ đô la nếu Hoa Kỳ ra tay hành động; cùng với những đóng góp nhỏ hơn từ các quốc gia khác và Ngân hàng Thế giới, toàn bộ giá trị viên trợ cả gói lên đến gần 40 tỷ đôla.

Cho dù Sandy Berger và Bob Rubin ủng hộ việc trợ giúp Mexico, nhưng một lần nữa, họ cũng nhấn mạnh đến những rủi ro. Một cuộc thăm dò mới nhất của tờ Los Angeles Times cho biết tỷ lệ người Mỹ chống việc trợ giúp Mexico là 79% trong khi tỷ lệ ủng hộ chỉ có 18%. Tôi liền trả lời, "Vậy thì từ nay cho đến một năm nữa, chúng ta sẽ nhận thêm một triệu người di dân bất hợp pháp, chúng ta sẽ bị tràn ngập ma túy từ Mexico, và rất nhiều người hai bên bờ sông Rio Grande sẽ không có việc làm; vào khi họ chất vấn tôi, "tại sao ngài không làm gì cả?", thì tôi phải trả lời như thế nào? Tôi sẽ trả lời vì lúc đấy có một cuộc thăm dò dư luận cho biết là có 80% dân chúng Mỹ không ủng hộ việc trợ giúp Mexico hay sao? Đây là việc chúng ta phải làm". Cuộc trao đổi này kéo dài khoảng 10 phút.

Ngày hôm sau, 31 tháng giêng, chúng tôi thông báo việc trợ giúp cả gói với số tiền được lấy ra từ quỹ Ôn định Tỷ giá Hối đoái. Thỏa thuận cho vay được ký hai tuần sau tại Bộ Tài chính giữa những tiếng phản đối tại quốc hội và càu nhàu của các nước đồng minh khối G-7, vì các nước này cảm thấy khó chịu khi vị Tổng giám đốc IMF đã cam kết với Mexico và với chúng ta trợ giúp 18 tỷ đôla mà không xin họ chấp thuận trước. Số tiền đầu tiên được chuyển đến vào tháng ba, được tiếp nối theo là các lần giải ngân đều đặn của chúng ta, cho dù tình hình vẫn không sáng sủa hơn trong nhiều tháng. Tuy nhiên vào cuối năm, các nhà đầu tư đã quay trở lại thị trường Mexico và quỹ dự trữ ngoại tệ của Mexico đã bắt đầu tăng lên. Ernesto Zedillo cũng đã thực hiện những cải cách ông đã cam kết.

Cho dù bước đầu có những khó khăn, sự hỗ trợ cả gói này đã mang lại kết quả tốt. Vào năm 1982, khi nền kinh tế Mexico sụp đổ, việc phục hồi của nó phải mất đến gần một thập niên. Lần này, sau một năm suy thoái trầm trọng, nền kinh tế Mexico bắt đầu phát triển trở lại. Sau năm 1982, phải mất nhiều năm nữa, Mexico mới hội nhập trở lại các thị trường vốn. Vào năm 1995, nước này chỉ mất bảy tháng. Vào tháng giêng năm 1997, Mexico hoàn trả các khoản vay mượn của họ cùng với lãi đầy đủ sớm hơn kế hoạch ba năm. Mexico đã vay 10,5 tỷ đôla trong tổng số 20 tỷ đôla mà chúng ta lên kế hoạch sẵn sàng cho họ vay, và họ đã trả lại số tiền lãi là 1,4 tỷ đôla, nhiều hơn 600 triệu đôla nếu số tiền này được đầu tư vào Ngân khố Hoa Kỳ theo cách mà quỹ Ôn định Hối đoái này được đầu tư. Việc cho vay này xem ra không chỉ là một chính sách tốt mà còn là một khoản đầu tư tốt.

Cây bút Tom Friedman của báo New York Times đã gọi khoản tiền đảm bảo cho Mexico vay là "một quyết định được ít người đồng tình nhất, được ít người thông hiểu nhất, nhưng lại là một quyết định đối ngoại quan trọng nhất trong nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton". Có thể nhà báo này đã nói đúng. Các sự chống đối quan trọng nhất là 75% dân chúng đã chống lại việc hỗ trợ cả gói cho Nga; quyết định của tôi nhằm đưa Aristide trở lại nắm quyền ở Haiti cũng không được nhiều người đồng tình; và các hành động tiếp theo của tôi ở tại Bosnia và Kosovo cũng gặp những sự chống đối lúc ban đầu. Các cuộc thăm dò dư luận rất có ích trong việc thông báo cho một tổng thống biết những gì nhân dân Hoa Kỳ đang nghĩ, và những lý lẽ nào là thuyết phục nhất vào một thời điểm nào đó, nhưng các cuộc thăm dò này không thể làm kim chỉ nam cho các quyết định đòi hỏi tầm nhìn xa và toàn diện hơn về mọi khía cạnh của vấn đề. Nhân dân Hoa Kỳ thuê một tổng thống để làm việc đúng cho đất nước trên một con đường dài, với những tầm nhìn dài hạn. Giúp đỡ Mexico là một việc làm đúng với nước Mỹ. Đây là một diễn biến kinh tế nhạy cảm và nếu được xem xét đúng thì đây là một bằng chứng một lần nữa cho thấy chúng ta là một người láng giềng tốt.

Vào ngày 9 tháng 2, Helmut Kohl đến thăm tôi. Ông mới vừa tái đắc cử, và ông nhận định một cách đầy tự tin là mọi việc sẽ tốt đẹp với tôi. Ông nói với tôi là chúng ta đang sống trong một giai đoạn đây biến động, nhưng kết cục sẽ tốt đẹp đối với tôi. Tại cuộc họp báo sau cuộc hội đàm, ông có một phát biểu ca ngợi đầy cảm động với Thượng nghị sĩ Fulbright, người vừa mất vào lúc nửa đêm ở tuổi 89. Kohl nói rằng ông đến từ một thế hệ mà khi còn là sinh viên, họ "không mơ gì hơn là được cấp một học bổng Fulbright" và trên khắp thế giới cái tên của Fulbright được gắn liền với những từ như "cởi mở, hữu nghị, và mọi người cùng nhau phấn đấu". Trong giai đoạn sinh thời của ông, đã có hơn 90.000 sinh viên Mỹ và 120.000 sinh viên nước ngoài đã được hưởng học bổng Fulbright.

Tôi đã ghé thăm nhà Thượng nghị sĩ Fulbright không lâu trước khi ông mất. Ông đã phải chịu một cơn đau tim và giọng nói yếu đi, nhưng đôi mắt vẫn sáng, và trí tuệ vẫn minh mẫn, và chuyến thăm cuối cùng của tôi đối với ông đã diễn ra vô cùng tốt đẹp. Hình ảnh của Fulbright lúc nào cũng sáng chói trong lịch sử nước Mỹ - và như tôi đã phát biểu trong buổi lễ tưởng nhớ ông, ông "luôn luôn là một người thầy và luôn luôn là một sinh viên".

Ngày 13 tháng 2, Laura Tyson và những thành viên khác của Hội đồng cố vấn kinh tế là Joe Stiglitz và Martin Baily, đưa cho tôi một bản sao của Báo cáo mới nhất về Kinh tế của tổng thống. Nó làm nổi bật các tiến bộ mà chúng tôi đã đạt được từ năm 1993, cũng như những vấn đề dai dẳng về sự đình trệ và bất bình đẳng trong thu nhập. Tôi tranh thủ cơ hội này để thúc đẩy việc thông qua Bản tuyên ngôn dân quyền cho tầng lớp trung lưu và đề nghị của tôi nhằm gia tăng mức lương tối thiểu lên 90% trong vòng hai năm, từ 4,25 đôla đến 5,15 đôla/một giờ. Việc tăng lương này sẽ mang lại lợi ích cho 10 triệu người lao động, tăng thêm 1.800 đô la một năm cho thu nhập của họ. Một nửa sự gia tăng này là cần thiết để đạt đến mức lương tối thiểu (sau lạm phát) mà họ đã có được vào năm 1991, là thời điểm họ được lên lương lần cuối.

Mức lương tối thiểu là một việc được hầu hết các đảng viên đảng Dân chủ yêu thích nhất, nhưng hầu hết các đảng viên Cộng hòa đều chống lại việc tăng lương, viện lý do rằng việc tăng lương này sẽ đẩy chi phí kinh doanh lên cao. Lập luận của họ không có nhiều chứng cứ. Trong thực tế một số nhà kinh tế học trẻ mới đây đã nhận thấy rằng một sự gia tăng có chừng mực mức lương tối thiểu sẽ dẫn đến một sự gia tăng phần nào đó việc làm chứ không phải là giảm sút. Mới đây tôi xem trên truyền hình một cuộc phỏng vấn một người lao động có một mức lương tối thiểu trong một xí nghiệp ở tây nam Vir ginia. Khi được hỏi về dư luận cho rằng việc tăng lương có thể làm cho người sử dụng lao động cho cô ta và những đồng nghiệp khác nghỉ việc và sẽ sử dụng máy móc, người phụ nữ được phỏng vấn cười và nói với người phỏng vấn, "Này anh bạn yêu quí, tôi vẫn sẽ thử thời vận xem".

Vào tuần lễ thứ tư của tháng 2, Hillary và tôi thăm chính thức hai ngày đến Canada, nơi chúng tôi nghỉ lại nhà của đại sứ Hoa Kỳ Jim và phu nhân Janet Blanchard. Jim và tôi kết bạn từ những năm 1980, khi Jim là thống đốc bang Michigan. Canada là bạn hàng thương mại lớn nhất và là đồng minh thân cận nhất của chúng ta. Biên giới chung giữa hai nước là biên giới (dài nhất thế giới mà không cần phải canh giữ. Vào năm 1995 chúng tôi cộng tác chặt chẽ với nhau trong việc giải quyết vấn đề Haiti, giúp đỡ Mexico, về các vấn đề của NATO, NAFTA, hội nghị châu Mỹ, và Hội nghị thượng đỉnh APEC. Đôi lúc, chúng tôi cũng có những tranh cãi về mua bán lúa mì, gỗ và quyền đánh bắt cá hồi nhưng tình hữu nghị của chúng tôi rất rộng lớn và sâu sắc.

Cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi với Thủ tướng Jean Chrétien và phu nhân Aline kéo dài rất lâu. Jean Chrétien trở thành một trong những người bạn tốt nhất của tôi trong những nhà lãnh đạo thế giới, một người đồng minh mạnh mẽ, đáng tin cậy và là một người bạn thường xuyên cùng chơi golf.

Tôi cũng phát biểu tại Quốc hội Canada, cảm ơn họ đã hợp tác trong các vấn đề kinh tế và an ninh, cũng như sự đóng góp phong phú về mặt văn hóa của người Canada đối với cuộc sống của người Mỹ, trong đó có nghệ sĩ dương cầm nhạc jazz Oscar Peterson, người nhạc sĩ dương cầm mà tôi rất ái mộ, ca sĩ kiêm nhà viết nhạc Joni Mitchell, người đã viết bài nhạc "Buổi sáng ở Chelsea", nhiếp ảnh gia Yousuf Karsh, một nhà nhiếp ảnh vĩ đại được nổi danh với bức chân dung Churchill nổi nóng khi Karsh tước đi điếu xì gà lúc nào cũng nằm trên tay ông, và là người đã chụp cho tôi và Hillary rất nhiều bức ảnh rất nghệ thuật.

Tháng 3 có một khởi đầu tốt đẹp, ít nhất là theo quan điểm của tôi, khi mà thượng viện thất bại trong việc thông qua luật sửa đổi cân đối ngân sách khi chỉ thiếu một phiếu để có được 2/3 sô phiếu cần thiết.

Cho dù đạo luật sửa đổi này được nhiều người ủng hộ, nhưng tất cả mọi nhà kinh tế học trung thực đều cho đó là một ý tưởng không tốt vì nó giới hạn khả năng của chính phủ để giải quyết các vấn đề thâm thủng với các điều kiện thích hợp khi xảy ra tình trạng kinh tế suy thoái hoặc trong tình hình khẩn cấp của đất nước. Trước năm 1981, nước Mỹ không có nhiều vấn đề về suy thoái kinh tế; nhưng sau 12 năm suy thoái nhỏ giọt, tổng số nợ quốc gia đã tăng gấp bốn lần khiến cho các nhà chính trị bắt đầu lên tiếng tuyên bố họ sẽ không bao giờ chịu trách nhiệm về các quyết định kinh tế, trừ khi nào họ phải hành động theo yêu cầu của luật sửa đổi.

Trong khi cuộc tranh luận tiếp diễn, tôi đặt vấn đề với phe đa số mới của đảng Cộng hòa là những người đang đẩy mạnh việc thông qua luật sửa đổi này, yêu cầu họ nói rõ làm thế nào cân đối được ngân sách; tôi đã soạn một bản dự thảo ngân sách cho nhiệm kỳ của tôi trong vòng chưa tới một tháng; họ đã kiểm soát quốc hội gần hai tháng nhưng lại không đệ trình được bản nào. Họ nhận ra rất khó để biến những lời hứa trong chiến dịch trở thành những bản kế hoạch cụ thể trong thực tế.

Không lâu sau, phe Cộng hòa trình ra một đề nghị ngân sách bằng một đề xuất cắt giảm cả gói - gọi là "tái cắt giảm" ngân sách năm đó. Các sự cắt giảm họ lựa chọn chứng tỏ cho thấy phe Dân chủ đã đúng khi phê phán bản hợp đồng của đảng Cộng hòa trong quá trình tranh cử. Việc "tái cắt giảm" của đảng Cộng hòa bao gồm việc loại bỏ 15.000 chỗ làm của tổ chức AmeriCorps, 1,2 triệu việc làm mùa hè cho thanh niên, và 1,7 tỷ đôla quỹ giáo dục, bao gồm gần phân nửa ngân quỹ phòng chống ma túy, vào ngay thời điểm mà việc sử dụng ma túy trong thanh niên đang tăng lên. Tệ hơn cả, họ muốn cắt bỏ chương trình ăn trưa cho các em học sinh và chương trình WIC, chương trình dinh dưỡng cho phụ nữ, trẻ sơ sinh, và trẻ em d?