← Quay lại trang sách

Chương 41

Trước tháng 10, những cuộc thăm dò cho thấy tình hình của chúng tôi không đến nỗi quá tệ, nhưng không khí của chiến dịch tranh cử vẫn cứ có vẻ không thuận lợi. Trước khi chúng tôi bay đến Trung Đông, Hillary đã gọi Dick Morris, chuyên gia thăm dò dư luận của chúng tôi, để hỏi về nhận định của ông đối với tình hình. Dick trình bày một phác họa tổng quát cho chúng tôi và các kết quả thật đáng nản lòng. Ông ta cho rằng hầu hết dân chúng không tin tưởng là nền kinh tế trở nên khá hơn hay thâm thủng ngân sách giảm đi; họ không biết gì về những việc làm tốt đẹp mà phe Dân chủ và tôi đã làm; và việc công kích bản hợp đồng của Gingrich cũng không có hiệu quả.

Tỷ lệ ủng hộ tôi đã lên đến hơn 50% lần đầu tiên trong một thời gian, và cử tri đã phản ứng một cách thuận lợi đối với đạo luật cho phép người lao động được quyền nghỉ phép để chăm sóc gia đình, đối với việc tăng thêm 100.000 cảnh sát để thực hiện luật chống tội ác, các cải cách về tiêu chuẩn giáo dục và điều hành các trường học, và đối với những gì khác mà chúng tôi làm được. Dick cho rằng chúng tôi có thể làm giảm được các kết quả không tốt nếu các thành viên đảng Dân chủ ngưng nói đến các vấn đề kinh tế, thâm thủng, về bản hợp đồng của Gingich, và thay vào đó là tập trung vào những thành quả mang tính phổ thông hơn về mặt lập pháp. Và ông khuyên chúng tôi khi trở về Washington, tôi phải tránh xa khỏi chiến dịch tranh cử và nên giữ "tư cách Tổng thống", chỉ nên nói và làm những gì có thể củng cố thêm tỷ lệ ủng hộ tôi. Morris tin rằng nếu làm như thê thì tôi có thể giúp cho đảng Dân chủ nhiều hơn là sa vào những cuộc tranh cãi chính trị. Cả hai đề nghị đó đều không được tuân theo.

Các đảng viên Dân chủ không có bộ máy để chuyển tải nhanh một thông điệp tranh cử mới của họ đến từng tiểu bang hoặc từng khu vực bầu cử, những nơi mà thông điệp có thể làm thay đổi tỷ lệ ủng hộ của cử tri; cho dù tôi đã vận động rất nhiều cho quỹ tranh cử của cá nhân các ứng cử viên và cho chiến dịch tranh cử vào thượng và hạ nghị viện, họ muốn chúng tôi sử dụng quỹ này theo phương cách truyền thống.

Từ Trung Đông, tôi gọi điện về Nhà Trắng và cho biết quan điểm của tôi khi trở về là tôi sẽ tập trung vào công việc của tổng thống chứ không trở lại chiến dịch tranh cử. Nhưng khi về đến Washington, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy chương trình làm việc của tôi được phủ kín bởi các chuyến đi đến Pennsylvania, Michigan, Ohio, Rhode Island, New York, Iowa, Minnesota, California, Washington và Delaware. Khi kết quả thăm dò cho thấy tỷ lệ cử tri ủng hộ tôi tăng lên, các đảng viên Dân chủ trên khắp đất nước yêu cầu tôi tham gia vận động cho họ. Họ đã từng ủng hộ tôi; bây giờ tôi phải ủng hộ họ.

Trong khi vận động, tôi cố gắng nhấn mạnh những thành quả chung của chúng tôi: ký Đạo luật bảo vệ sa mạc California, bảo vệ cho 750 triệu mẫu đất rừng và hệ thống công viên quốc gia; đề cao những lợi ích tài chính trong chương trình cho sinh viên vay tiền tại Đại học Michigan; và tham gia trong khả năng của tôi tất cả những cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh về những thành tích của chúng tôi. Nhưng tôi cũng tham gia những cuộc tập hợp đông đảo với các đám đông rất ồn ào, nơi tôi phải nói rất to để mọi người dự có thể nghe được. Bản giai điệu được lặp đi lặp lại của tôi trong chiến dịch tranh cử tỏ ra rất hiệu quả đối với những người trung thành với đảng Dân chủ, nhưng không hiệu quả đối với một số lượng khán thính giả lớn xem tivi; trên tivi, sự hùng biện của chiến dịch tranh cử nóng bỏng đã biến đổi hình ảnh một tổng thống đương chức trở lại hình ảnh một chính trị gia đang tranh cử mà các cử tri không thể tin tưởng được một cách chắc chắn. Dù có thể hiểu được và cũng có thể là không thể tránh được, việc dính vào chiến dịch tranh cử là một sai lầm.

Vào ngày 8 tháng 11, chúng tôi thất bại thảm hại khi đảng Dân chủ bị mất đi tám ghế ở tại thượng viện, và 54 ghế ở hạ viện. Đây là thất bại lớn nhất của chúng tôi từ năm 1946, khi mà đảng Dân chủ đã bị đánh bại sau khi Tổng thống Truman cố gắng thông qua việc bảo hiểm y tế cho tất cả mọi người Mỹ. Đảng Cộng hòa đã được tưởng thưởng xứng đáng sau hai năm liên tục tấn công tôi cùng với sự thống nhất cao trong nội bộ họ cho bản hợp đồng. Đảng Dân chủ đã bị trừng phạt do có một chính phủ tốt nhưng không có được chiến thuật chính trị tốt. Tôi cũng đã góp phần cho sự thất bại này khi để cho những tuần lễ đầu tiên của nhiệm kỳ mình bị ầm ĩ vì vấn đề đồng tính trong quân đội; đã không tập trung vào chiến dịch tranh cử trước khi quá trễ; phạm sai lầm là tìm cách làm quá nhiều, quá nhanh trong một môi trường truyền thông mà các thành quả của tôi bị thu nhỏ lại, còn các thất bại thì được khuếch đại ra, và bầu không khí chung được tạo ra là tôi là nhân vật ủng hộ việc đánh thuế, chủ trương một chính phủ theo khuynh hướng tự do, chứ không phải là một người Dân chủ Mới đã thắng trong cuộc tranh cử tổng thống. Hơn nữa thái độ của công chúng là vẫn còn bâng khuâng; dân chúng không cảm nhận được rằng cuộc sống của họ đang được nâng cao, và họ rất mệt mỏi về những cuộc đấu đá nhau ở tại Washington. Có vẻ như họ nghĩ rằng một chính quyền bị phân chia quyền lực sẽ buộc chúng tôi sẽ phải hợp tác để cùng nhau làm việc.

Trớ trêu thay, tôi đã làm tổn thương đảng Dân chủ bằng cả những chiến thắng lẫn thất bại của mình. Thất bại của đạo luật bảo hiểm y tế và việc thông qua hiệp ước NAFTA đã làm mất tinh thần các cử tri trung thành của chúng tôi và giảm số đảng viên đi bầu. Thắng lợi của kế hoạch kinh tế với việc tăng thuế lên những người Mỹ có thu nhập cao, đạo luật Brady, và việc cấm sử dụng súng tấn công làm nóng mặt các cử tri trung thành của đảng Cộng hòa và làm tăng số lượng đảng viên Cộng hòa đi bầu. Chỉ sự cách biệt của số lượng người đi bầu giữa hai đảng đã tương đương với phân nửa số phiếu mà chúng tôi đã mất, và giúp cho đảng Cộng hòa chiếm thêm 11 ghế thống đốc. Mario Cuomo đã thua ở New York với một kết quả tồi tệ cho đảng Dân chủ. Ở phía nam, do nỗ lực phi thường của tổ chức Christian Coalition (Liên minh Công giáo), các đảng viên Cộng hòa đã đạt được số điểm cao hơn đảng Dân chủ từ 5 đến 6 điểm trong các cuộc thăm dò. Tại Texas, George W. Bush đã đánh bại nữ thống đốc Ann Richards, cho dù bà đã được 60% những người có việc làm ủng hộ.

Hiệp hội Súng trường Quốc gia (NRA) đã có một đêm thắng lợi tưng bừng. Họ đánh bại cả chủ tịch hạ nghị viện Tom Foley và dân biểu Jack Brooks, hai thành viên có tài nhất của quốc hội. Jack Brooks chính là người đã báo động cho biết khả năng này sẽ có thể xảy ra. Foley là vị Chủ tịch hạ viện đầu tiên bị đánh bại từ hơn một thế kỷ nay. Jack Brooks từng ủng hộ NRA trong nhiều năm và đã lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại dự luật cấm sử súng tấn công tại hạ viện, nhưng ở cương vị chủ tịch ủy ban Tư pháp, ông đã bỏ phiếu ủng hộ toàn bộ đạo luật chống tội ác, khi đạo luật được đệ trình hạ viện. NRA là một ông chủ không bao giờ biết tha thứ: sai một lần là cho "lên đường" ngay. Nhóm vận động hành lang cho quyền sử dụng súng này tuyên bố đánh bại được 19 nghị sĩ trong tổng số 24 nghị sĩ trong danh sách triệt hạ của họ. ít nhất họ đã gây ra được nhiều sự thiệt hại và có thể công khai huênh hoang rằng chính họ đã đưa ông Gingrich lên làm Chủ tịch hạ viện. Tại bang Oklahoma, nghị sĩ Dave McCurdy, người đứng đầu Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ DLC, đã thua trong cuộc tranh cử thượng viện vì những từ gồm ba chữ G trong một câu nói tranh cử, "God, gays and guns" (Thượng đế, đồng tính và súng).

Vào ngày 29 tháng 10, một người đàn ông tên Francisco Duran, lái xe từ Colorado lên, đã phản đối đạo luật chống tội ác bằng cách dùng súng tấn công bắn vào Nhà Trắng. Anh ta đã bắn đi khoảng 20 đến 30 viên đạn trước khi bị khống chế. May mắn là không có ai bị trúng đạn. Có thể Duran là một người loạn trí, nhưng anh ta là một người thể hiện đúng những tính căm thù bệnh hoạn mà tôi đã gieo vào lòng đối tượng những người tin mù quáng vào quyền sở hữu súng bằng các đạo luật Brady và cấm sử dụng súng tấn công. Sau cuộc bầu cử, tôi phải đôi diện với một sự thật là các cơ quan bảo vệ pháp luật, những người ủng hộ cho việc thông qua đạo luật cấm sử dụng súng, dù đại diện cho đa số người Mỹ, vẫn không thể bảo vệ cho bạn bè của họ ở quốc hội khỏi những cuộc tấn công từ phía NRA. Tổ chức này chi tiền nhiều hơn, được tổ chức tốt hơn, mạnh hơn, và mị dân mạnh hơn họ.

Cuộc tuyển cử có vài điểm sáng. Ted Kennedy và Thượng nghị sĩ Dianne Feinstein thắng lợi ở những khu vực bầu cử gai góc. Thượng nghị sĩ Chuck Robb của bang Virginia, một người bạn của tôi đánh bại được Oliver North, một người dẫn chương trình truyền hình đầy tai tiếng sau vụ Iran-Contra, với sự ủng hộ của một thượng nghị sĩ Cộng hòa - ông John Warner - một người rất quý Robb và không thể chấp nhận ý tưởng về sự có mặt của North tại thượng nghị viện.

Trong vùng Thượng bán đảo của bang Michigan, nghị sĩ Bart Stupak một cựu sĩ quan cảnh sát đã vượt qua sự thách thức căng thẳng trong khu vực bầu cử của ông, bằng cách chủ động tự bảo vệ mình chống lại những lời tố cáo việc ông ta bỏ phiếu ủng hộ kế hoạch kinh tế đã làm hại đến chính cử tri của mình. Stupak tung ra một quảng cáo trên truyền hình, liệt kê so sánh chính xác những người được hưởng những cắt giảm thuế với những người phải đóng thêm thuế. Tỷ lệ này là 10/1.

Thượng nghị sĩ Kent Conrad và dân biểu Earl Pomeroy tái cử ở bang Bắc Dakota, một bang của phe Cộng hòa bảo thủ, vì, cũng như trường hợp của Stupak, các vị này đã mạnh mẽ tự bảo vệ quan điểm của họ khi bỏ phiếu cho các dự luật ở quốc hội, và đã làm cho cử tri hiểu rõ những việc tốt mà họ đã làm được. Hình như việc đối phó với những cơn bão tuyết tin tức thiếu thiện chí do các đài truyền hình loan đi ở một tiểu bang nhỏ hoặc ở nông thôn dễ hơn so với các bang và thành phố lớn. Nếu không, giả sử các thành viên của đảng chúng tôi hành động đúng theo những gì mà Stupak, Conrad và Pomeroy đã làm, thì chúng tôi có thể đã giành được nhiều ghế hơn.

Hai người hùng chính trong cuộc chiến về vấn đề ngân sách ở hạ nghị viện phải chịu những số phận khác nhau. Marjorie Margolies- Mezvinsky thua ở khu vực bầu cử của vùng ngoại ô giàu có Pennsylvania, nhưng Pat Williams thì tồn tại được ở vùng đồng quê Montana.

Tôi vô cùng đau khổ vì cuộc bầu cử này, đau đớn hơn nhiều những gì mà tôi biểu lộ ra ngoài. Có lẽ chúng tôi đã không mất cả khối đa số ở hạ viện lẫn thượng viện, nếu tôi không đưa thuế xăng và thuế đánh vào những người nhận bảo hiểm xã hội nhưng có thu nhập cao vào kế hoạch kinh tế, và nếu như tôi nghe theo lời khuyên của Tom Foley, Jack Brooks, và Dick Gephardt về việc cấm các loại vũ khí tấn công. Tất nhiên, nếu tôi làm vậy, tôi phải hủy bỏ đạo luật EITC cắt giảm thuế cho những gia đình có thu nhập thấp, hoặc là phải chấp nhận giảm được ít thâm thủng ngân sách hơn, kèm theo phải chịu rủi ro bị phản ứng không thuận lợi từ thị trường trái phiếu; và tôi cũng phải để thêm nhiều nhân viên cảnh sát và trẻ em hứng chịu nguy cơ nhiều hơn trước các loại súng tấn công. Tôi vẫn tin rằng những quyết định khó khăn này là tốt cho nước Mỹ. Thế nhưng, có quá nhiều thành viên của đảng Dân chủ đã phải trả một giá rất đắt vì lá phiếu của chính bộ phận cử tri mà sau này là những người được hưởng lợi có được từ sự can đảm mà các đảng viên Dân chủ mang lại nhằm tạo dựng sự thịnh vượng to lớn và sự an toàn hơn trên đường phố.

Chúng tôi cũng có thể không mất cả thượng và hạ viện nếu như, ngay sau khi đã rõ là Thượng nghị sĩ Dole sẽ cản trở bất cứ một sự cải cách về y tế nào, tôi thông báo trì hoãn việc thông qua đạo luật này cho đến khi đạt được một sự thống nhất của hai đảng, và thay vào đó là tiếp tục xét đến và thông qua dự luật về phúc lợi xã hội. Việc này sẽ được lòng những người thuộc tầng lớp trung lưu Mỹ - những người vốn hay thờ ơ về đời sống chính trị và đã bầu chủ yếu cho đảng Cộng hòa. Không giống như các quyết định khác trong kế hoạch kinh tế và việc cấm sử dụng vũ khí tấn công, một hành động như thế sẽ giúp ích rất nhiều cho phe Dân chủ mà không làm hại đến người dân Mỹ.

Gingrich đã chứng tỏ cho thấy ông ta là một nhà chính trị giỏi hơn tôi. Ông ta hiểu rõ là với bản hợp đồng, ông có thể toàn quốc hóa kỳ bầu cử giữa nhiệm kỳ, với những cuộc đả kích không ngừng nhắm vào đảng Dân chủ, và với lập luận rằng tất cả những sự mâu thuẫn và tình trạng cục bộ diễn ra tại Washington là do lỗi của đảng Dân chủ bởi vì chúng tôi kiểm soát cả quốc hội và Nhà Trắng. Vì tôi rất bận với nhiệm vụ là Tổng thống Hoa Kỳ, tôi không thể tổ chức, tài trợ, và ép buộc các đảng viên Dân chủ thực hiện một thông điệp đáp trả. Việc toàn quốc hóa các vấn đề trong các cuộc tuyển cử giữa nhiệm kỳ chính là một sự cổng hiến lớn lao của Newt Gingrich vào cơ chế bầu cử hiện đại. Từ năm 1994 trở đi, nếu đảng nào gửi đi một thông điệp cấp phạm vi toàn quốc, mà đảng kia không làm như vậy thì họ chắc chắn sẽ phải gánh chịu những thất bại không cần thiết. Việc này đã tái diễn vào những năm 1998 và 2002.

Cho dù số người Mỹ được miễn thuê nhiều hơn số phải chịu tăng thuế thu nhập, và chúng tôi đã tinh giảm chính phủ liên bang nhỏ hơn các thời Tổng thống Reagan và Bush rất nhiều, những người của đảng Cộng hòa cũng giành thắng lợi nhờ những lời hứa giảm thuế và tinh giảm biên chế chính phủ. Thậm chí họ còn được lợi từ chính các vấn đề mà họ đã gây ra; họ đã giết chết đạo luật chăm sóc y tế, việc cải cách các vấn đề tài chính, và cải cách các vấn đề vận động hành lang bằng cách cản trở từ thượng viện. Nói theo nghĩa này thì, Dole cũng đáng được sự tán thưởng cho thắng lợi giòn giã của đảng Cộng hòa- hầu hết mọi người đều không thể tin được một thiểu số với 44 thượng nghị sĩ có thể đánh bại được các đạo luật ngoại trừ đạo luật ngân sách. Cử tri chỉ biết rằng họ chưa cảm thấy giàu có hay an toàn hơn; có quá nhiều đấu đá tại Washington và chúng tôi là những người phải chịu trách nhiệrn; và rằng đảng Dân chủ ủng hộ một bộ máy chính phủ cồng kềnh.

Tôi cảm thấy y như hồi tôi bị đánh bại khi ra tái ứng cử thống đốc vào năm 1980: tôi đã làm được rất nhiều việc tốt, nhưng không ai biết cả. Cử tri đoàn về mặt hành động có thể là những người cấp tiến, nhưng về mặt tư tưởng, họ là những con người bảo thủ ôn hòa và đa nghi sâu sắc đối với chính phủ. Thậm chí ngay khi tôi được giới truyền thông đánh giá một cách công bằng, cử tri cũng rất khó tin về những gì tôi đã làm được trong đống hoạt động bùng nhùng như vậy. Một cách nào đó, tôi đã quên bài học chua cay của lần thất cử năm 1980: Bạn có thể có một chính sách tốt mà không có một đường lối chính trị tốt, nhưng bạn không thể tạo được một chính quyền tốt cho dân chúng nếu thiếu cả hai thứ ấy. Tôi sẽ không bao giờ quên bài học này một lần nữa, nhưng tôi không bao giờ quên ơn những người tốt đã mất ghế nghị sĩ của họ chỉ vì họ đã giúp tôi lấp lại hố sâu của thâm thủng do chính sách kinh tế kiểu Reagan gây ra, đã giúp tôi đem lại sự an toàn hơn cho đường phố của đất nước chúng ta, và cố gắng cung cấp bảo hiểm y tế cho mọi công dân Hoa Kỳ.

Ngay hôm sau ngày tuyển cử, tôi cố gắng làm điều khả dĩ nhất trong tình hình tồi tệ như thế này. Tôi hứa cộng tác với các thành viên của đảng Cộng hòa và đề nghị họ "cùng hợp tác với tôi trong một cuộc tranh luận công khai để tìm xem những ý tưởng nào hay nhất cho thế hệ tiếp theo cho sự phát triển của nước Mỹ". Tôi đề nghị họ cùng làm việc với chúng tôi về những cải cách cho sự thịnh vượng và quyền phủ quyết từng phần, mà chính tôi cũng ủng hộ. Trong thời gian ngay trước mắt, tôi không thể làm gì hơn được.

Nhiều chuyên gia đã bắt đầu đoán trước là tôi sẽ thất cử vào năm 1996, nhưng tôi vẫn hv vọng. Các thành viên của đảng Cộng hòa đã thuyết phục rất nhiều người Mỹ rằng đảng Dân chủ và cá nhân tôi quá cấp tiến và quá gắn bó với một bộ máy chính phủ nặng nề, nhưng thời gian lúc này ở bên phía tôi vì ba lý do: nhờ kế hoạch kinh tế của chúng tôi, thâm thủng ngân sách đang giảm dần và tình hình kinh tế tiếp tục được cải thiện; quốc hội mới, đặc biệt là hạ viện rất quan tâm quyền lợi của nhân dân Mỹ; và bất chấp những lời hứa khi tranh cử của họ, phe Cộng hòa rồi sẽ cũng phải sớm đề nghị cắt giảm chi phí cho giáo dục, chăm sóc y tế và môi trường nhằm lấy tiền để chi tiêu cho việc giảm thuế và gia tăng chi phí quốc phòng. Chuyện đó sẽ xảy ra vì đó là điều mà những người bảo thủ cực đoan mong muốn, và vì tôi quyết sẽ buộc họ phải tính toán mọi việc theo quy luật số học.