Chương 44
Tháng 7 có ba việc làm tích cực trong chính sách đối ngoại: tôi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, với sự ủng hộ mạnh mẽ của hầu hết các cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến Việt Nam hiện trong quốc hội bao gồm John McCain, Bob Kerry, John Kerry, Chuck Robb, và Pete Peterson; Saddam Hussein trả tự do cho hai người Mỹ bị bắt từ tháng 3, sau một lời yêu cầu khẩn thiết của nghị sĩ Bill Richardson; và Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam khi đến Washington để khánh thành Đài tưởng niệm cuộc chiến tranh Triều Tiên, đã ủng hộ mạnh mẽ bản thỏa thuận mà chúng tôi đạt được với Bắc Triều Tiên để chấm dứt chương trình hạt nhân của họ. Vì Jesse Helms và một số người khác đã mạnh mẽ chỉ trích thỏa thuận này, nên sự ủng hộ của ông Kim rất là có ích, đặc biệt vì ông từng là một người tù chính trị và là một người đấu tranh cho nền dân chủ khi Nam Triều Tiên còn là quốc gia độc tài.
Không may là những tin tức tốt lành đã bị lu mờ bởi những gì đang xảy ra ở tại Bosnia. Sau một thời gian yên lặng trong suốt năm 1994, tình hình bắt đầu trở nên xấu đi vào cuối tháng 11, khi các máy bay của Serbia tấn công những người Hồi giáo Croatia ở phía tây Bosnia. Cuộc tấn công này là một sự vi phạm vào vùng cấm bay, và để trả đũa NATO đã ném bom sân bay Serbia, nhưng không phá hủy được hoặc tiêu diệt hết các máy bay đã bay lên.
Vào tháng 3, khi cuộc ngưng bắn do Tổng thống Carter thông báo bắt đầu tan vỡ, Dick Holbrooke, lúc đó đã ngưng làm đại sứ Hoa Kỳ tại Đức để nhận chức vụ mới là trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề châu Âu và Canada, gửi đặc sứ của chúng tôi ở Nam Tư cũ là Bob Frasure đến gặp Milosevic với hy vọng mong manh nhằm chấm dứt cuộc xâm lược của Serbia vào Bosnia và tìm kiếm ít nhất một sự công nhận có giới hạn đối với Bosnia để đổi lại việc Liên hiệp quốc dỡ bỏ lệnh cấm các biện pháp trừng phạt Serbia.
Cuối tháng 7, cuộc chiến đã bùng phát lớn, với việc các lực lượng của chính phủ Bosnia đạt được một vài thắng lợi tại miền trung của nước này. Thay vì tìm cách lấy lại các vùng lãnh thổ bị mất, tướng Mladic quyết định tấn công vào ba thành phố Hồi giáo nằm biệt lập ở vùng đông Bosnia là Srebrenica, Zepa và Gorazde. Các thành phố này tràn ngập những người tị nạn Hồi giáo đến từ các vùng lân cận, và cho dù chúng được Liên hiệp quốc công bố là những vùng an toàn, chúng chỉ được một lực lượng Liên hiệp quốc nhỏ bảo vệ. Mladic muốn đánh chiếm ba thành phố này để người Serbia có thể kiểm soát tất cả miền đông Bosnia và ông ta tin rằng khi nào các binh sĩ Liên hiệp quốc vẫn còn bị giữ làm con tin, thì Liên hiệp quốc sẽ không cho phép NATO ném bom đánh trả. Ông ta nhận định đúng và các hậu quả thật là khủng khiếp.
Ngày 10 tháng 7, người Serb chiếm Srebrenica. Vào cuối tháng họ chiếm luôn Zepa, và những người tị nạn thoát khỏi Srebrenica bắt đầu kể lại cho thế giới nghe những cuộc tàn sát người Hồi giáo kinh hoàng do các lực lượng Serbia thực hiện. Hàng ngàn đàn ông và thiếu niên bị tập trung vào một sân bóng đá và bị giết hàng loạt. Hàng ngàn người khác cố gắng chạy thoát thân băng qua các núi đồi rừng rậm.
Sau khi Srebrenica bị tràn ngập, tôi gây sức ép lên Liên hiệp quốc cho phép thành lập một lực lượng phản ứng nhanh mà chúng tôi đã thảo luận tại cuộc họp G-7 ở Canada vài tuần trước. Trong khi đó, Bob Dole yêu cầu việc dỡ bỏ lệnh câm vận vũ khí. Tôi đề nghị trì hoãn cuộc biểu quyết và ông ta đồng ý. Tôi vẫn còn tìm cách cứu Bosnia, phục hồi tính hiệu quả của Liên hiệp quốc và NATO, nhưng vào tuần lễ thứ ba của tháng 7, người Serbia ở Bosnia đã chế giễu Liên hiệp quôc, và xa hơn nữa, chế giễu các cam kết của NATO và Hoa Kỳ. Các vùng an toàn không còn an toàn nữa, và các hành động của NATO đã bị giới hạn một cách trầm trọng vì các lực lượng châu Âu không thể tự bảo vệ nổi mình chứ chưa nói đến người Hồi giáo. Việc sử dụng các con tin Liên hiệp quốc của người Serbia ở Bosnia đã cho thấy điểm yếu cơ bản của chiến lược của Liên hiệp quốc. Lệnh cấm vận vũ khí của Liên hiệp quốc khiến cho chính phủ Bosnia không đủ khả năng đương đầu về mặt quân sự đối với Serbia. Các lực lượng hòa bình chỉ có thể bảo vệ được những người Hồi giáo Bosnia và Croatia khi nào người Serbia nghĩ NATO có thể trừng phạt việc xâm lược của họ. Bây giờ chính sách bắt giữ con tin đã làm xóa đi mối lo sợ đó và tạo điều kiện cho người Serbia được rảnh tay ở vùng đông Bosnia. Tình hình có khá hơn một chút tại vùng trung và tây Bosnia, vì người Croatia và Hồi giáo có thể nhận được một số vũ khí cho dù có lệnh cấm vận vũ khí của Liên hiệp quốc.
Trong một cố gắng tuyệt vọng để giành lại thế chủ động, các bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng của khối NATO đã gặp nhau tại London. Warren Christopher, Bill Perry và tướng Shalikashvili đến dự cuộc họp với một quyết tâm đảo ngược một khuynh hướng đang hình thành là rút các lực lượng Liên hiệp quốc ra khỏi Bosnia và thay vào đó, là gia tăng sự cam kết và quyền hạn của NATO trong hành động chống lại người Serbia. Việc Srebrenica và Zepa thất thủ cũng như sự vận động tại quốc hội để bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí đã làm tăng thêm sức mạnh cho khả năng của chúng ta để thúc đẩy một hành động mạnh tay hơn.Tai cuộc họp này, các bộ trưởng chấp thuận một đề xuất của Warren Christopher và nhóm công tác của ông là "vạch ra một lằn ranh trên cát" bao quanh Gorazde và loại bỏ cơ chế "chìa khóa kép" vốn cho phép Liên hiệp quốc có quyền phủ quyết các hành động của NATO. Hội nghị tại London là một bước ngoặt; từ đây trở đi, NATO sẽ có một thái độ quyết đoán hơn. Không lâu sau, tư lệnh các lực lượng NATO, tướng George Joulwan, và đại sứ chúng ta tại NATO, Robert Hunter đã thành công trong việc áp dụng các quy định ở Gorazde với vùng an toàn Sarajevo.
Vào tháng 8, tình hình đột ngột chuyển biến. Các lực lượng Croatia tung ra một cuộc tấn công chiếm lại Krajina, một vùng lãnh thổ của Croatia mà những người Serbia địa phương đã tuyên bố là lãnh thổ của họ. Các viên chức quân sự và tình báo châu Âu và một vài đồng nghiệp Mỹ của họ đã khuyên cáo không nên hành động như vậy vì sợ rằng Milosevic có thể can thiệp để tiếp cứu những người Serbia ở Krajina, nhưng tôi thì ủng hộ những người Croatia. Helmut Kohl cũng vậy. Ông chia sẻ với tôi quan điểm công tác ngoại giao sẽ không thể nào thành công cho đến khi nào người Serbia phải chịu đựng những thiệt hại nặng nề trên chiến trường.
Vì biết sự sống còn của Bosnia đang bị lâm nguy, chúng tôi không xiết chặt lệnh cấm vận vũ khí. Nhờ vậy, cả những người Croatia và Bosnia đều có khả năng nhận được một số vũ khí, giúp họ tồn tại được. Chúng tôi cũng cho phép một công ty tư nhân sử dụng quân nhân Mỹ đã nghỉ hưu giúp cải thiện và huấn luyện cho quân đội Croatia.
Cuối cùng, hóa ra Milosevic đã không đến tiếp cứu các lực lượng người Serbia ở Krajina, và các lực lượng Croatia chiếm được Krajina mà chỉ gặp sự chống cự yếu ớt. Đây là thất bại đầu tiên của người Serbia sau bốn năm, và nó làm thay đổi cán cân lực lượng trên chiến trường và tinh thần của tất cả các bên. Một nhà ngoại giao phương Tây ở Croatia được trích dẫn là đã nói như sau: "Gần như đã có một tín hiệu ủng hộ từ Washington. Người Mỹ vẫn tìm cơ hội để tấn công Serbia, và họ đã dùng người Croatia làm việc này thay họ". Ngày 4 tháng 8, trong một chuyến thăm phóng viên của hãng truyền hình kỳ cựu hãng ABC News là Sam Donaldson tại Viện chăm sóc sức khỏe quốc gia, nơi ông tịnh dưỡng sau một cuộc giải phẫu ung thư, tôi nhìn nhận rằng cuộc tấn công của người Croatia có thể có ích trong việc giải quyết cuộc đối đầu này. Là một nhà báo xuât sắĩc, ông viết ngay một bài bình luận về lời bình luận của tôi từ giường bệnh.
Trong một cố gắng nhằm tranh thủ sự thay đổi trong xu hướng này, tôi gửi Tony Lake và thứ trưởng ngoại giao Peter Tarnoff đến châu Âu (kể cả Nga) để giới thiệu một kế hoạch khung cho hòa bình mà Lake đã xây dựng. Tôi còn cử Dick Holbrooke dẫn đầu một nhóm công tác để bắt đầu xúc tiến một nỗ lực cuối cùng thương lượng chấm dứt cuộc đối đầu với người Bosnia và Milosevic, người đã tuyên bố không kiểm soát những người Serbia ở Bosnia, cho dù mọi người đều biết họ không thể có được sức mạnh nếu không có sự chi viện của ông ta. Ngay trước khi chúng tôi cử đoàn công tác ngoại giao lên đường, thượng viện tiếp bước hạ viện bỏ phiếu dỡ bỏ lệnh câm vận vũ khí, nhưng tôi phủ quyết đạo luật này để tạo cơ hội cho các cố gắng của chúng tôi. Lake và Tarnoff lập tức lên đường để trình bày kế hoạch, sau đó gặp lại Holbrooke vào ngày 14 tháng 8 để báo cáo rằng các đồng minh của chúng tôi và Nga ủng hộ kế hoạch này, và Holbrooke có thể lên đường bắt đầu chuyến công tác ngay lập tức.
Ngày 15 tháng 8, sau khi dự một buổi báo cáo nhanh của Tom Lake về tình hình Bosnia, Hillary, Chelsea và tôi đến Jackson Hole, bang Wyoming nơi tôi được mời đến để nghỉ hè một vài ngày tại nhà của các nghị sĩ Jay và Sharon Rockefeller. Chúng tôi cần một thời gian nghỉ ngơi, và tôi thật mong muốn có được những cuộc đi bộ để giải khuây và cưỡi ngựa trong vùng Grand Tetons, đi bè trên sông Snake, thăm Công viên quốc gia Yellowstone để ngắm nhìn mạch phun nước nóng Old Faithful, những con trâu rừng, và nai sừng Bắc Mỹ, những con sói mà chúng ta đã trả cho chúng trở về thiên nhiên; và chơi golf ở độ cao, khi đánh quả bóng sẽ bay xa hơn rất nhiều. Hillary đang viết một cuốn sách về gia đình và trẻ em, và cô ấy đang mong bứt nhanh để hoàn tất nó khi được làm việc tại trang trại rộng lớn và tràn đầy ánh sáng của gia đình Rockefeller. Chúng tôi đã tận hưởng những điều đó, nhưng trong suốt thời gian nghỉ hè tại đây, đầu óc của chúng tôi rất bận tâm về tình hình tại Bosnia và với tâm trạng đau nhói.
Đúng vào ngày chúng tôi lên đường đến Wyoming, Dick Holbrooke cũng lên đường đến Bosnia với một nhóm công tác rất ấn tượng, bao gồm Bob Frasure; Joe Kruzel; đại tá không quân Nelson Drew; và trung tướng Wesley Clark, giám đốc nghiên cứu chiến lược của Hội đồng Tham mứu Liên quân và là đồng hương Arkansas với tôi, người mà tôi gặp lần đầu tiên vào năm 1965.
Holbrooke và nhóm công tác hạ cánh xuống thành phố bờ biển Split của Croatia. Tại đây, họ tiếp xúc ngắn với Bộ trưởng Ngoại giao Bosnia Muhamed Sacirbey về các kế hoạch của chúng tôi. Sacirbey là một gương mặt Bosnia rất hùng biện trên truyền hình Mỹ, đẹp trai, khỏe "mạnh, từng chơi bóng bầu dục tại trường Đại học Tulane. Ồng là một người mong muốn Hoa Kỳ can dự nhiều hơn vào quốc gia đang bị bao vây của ông và tỏ ra rất phấn khởi là cuối cùng việc đó đã đến.
Sau thành phố Split, nhóm cóng tác của Hoa Kỳ đến Zagreb, thủ đô của Croatia, để gặp Tổng thống Tudjman, rồi đến Belgrade để gặp Slobodan Milosevic. Sự việc duy nhất gây được sự chú ý qua cuộc gặp gỡ không kết quả này là Milosevic từ chối đảm bảo an ninh cho máy bay của nhóm công tác trước hỏa lực của những người Serbia sống ở Bosnia, nếu họ bay từ Belgrade đến Sarajevo, nơi dừng chân kế tiếp. Điều này có nghĩa là nhóm công tác phải bay ngược trở về split, và từ đó dùng trực thăng bay đến một điểm hạ cánh, và đi thêm hai tiếng bằng xe ô tô để đến Sarajevo qua đường núi Igman. Đây là một con đường hẹp, không được tráng nhựa, không có gờ chắn dọc theo rìa các đoạn đường đèo dốc đứng và rất dễ bị các khẩu súng máy của Serbia nhắm bắn, như họ đã từng thường xuyên làm như vậy đối với các xe của Liên hiệp quốc. Nhà thương thuyết của Liên hiệp quốc là Carl Bildt đã bị bắn khi ông di chuyển qua con đường này vài tuần trước. Có rất nhiều xác xe nằm rải rác trong các khe núi giữa Split và Sarajevo, trong đó có những chiếc chỉ vì bị trượt ra khỏi lòng đường.
Vào ngày 19 tháng 8, ngày sinh nhật thứ 49 của tôi được bắt đầu bằng cuộc đánh golf với Vernon Jordan, Erskine Bowles, và Jim Wolfensohn, chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Thật là một buổi sáng tuyệt vời cho đến khi tôi nhận được báo cáo về những gì xảy ra trên đoạn đường núi Igman. Đầu tiên là từ bản tin tức, và kế tiếp từ một cú điện thoại nghẹn ngào của Dick Holbrooke và Wesley Clark, tôi được biết nhóm công tác của chúng tôi trên đường đến Sarajevo đã di chuyển trên hai xe. Holbrooke và Clark ngồi trên một xe Humvee của quân đội Mỹ, và Frasure, Kruzel cùng Drew đi theo sau trên một xe thiết giáp Pháp, được sơn màu trắng của Liên hiệp quốc. Sau khoảng một giờ xe chạy, chiếc thiết giáp khi leo lên đến đỉnh một dốc đứng, bị trượt rơi xuống một dốc núi, nổ tung và bốc cháy. Bên cạnh ba thành viên của đoàn công tác, còn có hai người Mỹ khác và bốn binh lính Pháp ngồi trên xe. Chiếc thiết giáp bốc cháy khi đạn dược mang theo phát nổ. Trong một hành động hết sức dũng cảm, Wes Clark dùng dây cột vào một gốc cây và đu xuống chân núi để tiếp cứu các đồng đội bị kẹt trong xe. Nhưng chiếc xe đã gần như không còn gì và đã bốc cháy rất nóng.
Và cũng đã quá trễ. Bob Frasure và Nelson Drew chết ngay khi xe lật xuống núi. Những người còn lại đã kịp thoát ra, nhưng không lâu sau, Joe Kruzel chết vì các vết thương, cùng với một lính Pháp. Frasure 53 tuổi, Kruzel 50, và Drew 47; tất cả họ đều là những người phục vụ quốc gia đầy lòng yêu nước, và là những đàn ông tốt trong gia đình đã chết đi trong một nỗ lực để cứu cuộc sống của những người vô tội ở một nơi rất xa quê hương họ.
Vào tuần lễ sau, sau khi một quả đạn súng cối của Serbia được bắn vào trung tâm của Sarajevo, giết chết 38 người, NATO bắt đầu ba ngày không kích xuống các vị trí của Serbia. Vào ngày 1 tháng 9, Holbrooke thông báo các bên sẽ gặp nhau tại Geneva để thương lượng. Khi những người Serb ở Bosnia không thỏa mãn các yêu cầu của NATO, những cuộc không kích được tiếp tục và kéo đến ngày thứ 14, đến khi Holbrooke đã thành công trong việc đưa ra được một bản thỏa thuận được ký giữa Karadzic và Mladic ký để chấm dứt cuộc bao vây Sarajevo. Những cuộc thương thuyết cuối cùng để tìm kiếm hòa bình đã được bắt đầu không lâu sau đó ở Dayton, bang Ohio. Cuối cùng chúng cũng kết thúc cuộc chiến đẫm máu ở Bosnia. Sự thành công của những cuộc hội đàm này là một sự tỏ lòng trân trọng đối với ba người anh hùng thầm lặng của nước Mỹ đã không còn sống để thấy được kết quả của những cố gắng của họ.
Trong khi cuộc chiến Bosnia chiếm lĩnh nội dung các tin tức thời sự của tháng 8, tôi vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh với đảng Cộng hòa về các vấn đề ngân sách; ghi nhận việc một triệu người Mỹ đã bị mất bảo hiểm y tế trong năm kể từ ngày công cuộc cải cách bảo hiểm y tế thất bại; sử dụng quyền lực của hành pháp để giới hạn việc quảng cáo, khuyến khích, phân phối và đưa ra thị trường thuốc lá đối với thiếu niên. Cơ quan an toàn thực và dược phẩm (FDA) vừa hoàn tất một nghiên cứu kéo dài đến 14 tháng khẳng định thuốc lá là một chất gây nghiện, có hại và đang được tung ra một cách hết sức dữ dội vào thị trường thiếu niên, lớp tuổi mà tỷ lệ sử dụng thuốc lá đang tăng lên.
Việc sử dụng thuốc lá ở lứa tuổi thiếu niên là một vấn đề hóc búa rất khó giải quyết. Thuốc lá là một chất gây nghiên được pháp luật nước Mỹ thừa nhận; nó giết người và làm gia tăng gánh nặng lên đến hàng tỷ đôla vào chi phí y tế mà ít người biết đến. Nhưng các công ty thuốc lá lại có ảnh hưởng chính trị rất lớn, và việc trồng thuốc lá là một phần quan trọng trong cuộc sống kinh tế, chính trị và văn hóa của các bang Kentucky và Bắc Carolina. Hình ảnh hiền hòa của các nông dân trồng thuốc lá là cái cớ để các công ty thuốc lá gia tăng các nỗ lực của họ nhằm đưa thuốc lá vào những lớp người sử dụng ngày một trẻ hơn. Tôi nghĩ chúng tôi phải đấu tranh đẩy lùi xu hướng này. Al Gore cũng thế. Anh ấy đã mất người em gái Nancy yêu quí của mình vì bệnh ung thư phổi.
Ngày 8 tháng 8, chúng tôi có một đột phá trong nỗ lực để tiêu diệt những gì còn lại của chương trình vũ khí giết người hàng loạt của Iraq khi hai cô con gái của Saddam cùng chồng họ trốn sang Jordan, và được Vua Hussein cho tị nạn. Một trong hai người con rể là Hussein Kamel Hassan al-Majid, từng đứng đầu các nỗ lực bí mật của Saddam nhằm chế tạo các loại vũ khí giết người hàng loạt, đã cung cấp những thông tin rất có giá trị về các kho vũ khí WMD (vũ khí hủy diệt hàng loạt) với một tầm cỡ và tính chất trái ngược với những gì các viên chức Iraq đã báo với các thanh tra của Liên hiệp quốc. Khi đối mặt với các bằng chứng hiển nhiên, người Iraq chỉ đơn giản thừa nhận người con rể của Saddam đã nói đúng và đưa các thanh tra viên đến những nơi ông này đã chỉ ra. Sau sáu tháng sống lưu vong, người thân của Saddam được thuyết phục trở về Iraq. Trong vòng hai ngày sau, hai người con rể của Saddam bị giết chết. Chuyến đi ngắn ngủi của họ sang vùng đất tự do đã cung cấp cho các thanh sát viên của Liên hiệp quốc một lượng thông tin để phá hủy các kho vũ khí hóa học và sinh học cùng trang thiết bị thí nghiệm nhiều hơn số lượng bị phá hủy trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh.
Tháng 8 cũng là một tháng quan trọng đối với vụ Whitewater. Kenneth Starr chính thức buộc tội Jim và Susan McDougal và thống đốc Jim Guy Tucker với những cáo buộc không liên hệ gì đến vụ việc Whitewater, và các nghị sĩ Cộng hòa tại thượng và hạ nghị viện trong suốt tháng đã tham gia các cuộc điều trần tại quốc hội. Tại thượng viện, Al D'Amato vẫn cố tìm cách chứng minh có một cái gì đó khác trong cái chết của Vince Foster ngoài lý do anh ấy tự tử do suy sụp về mặt tinh thần. D'Amato đặc biệt rất khó chịu với Maggie Williams và người bạn cùng thành phố New York Susan Thomases. Thượng nghị sĩ Lauch Faircloth thậm chí còn tồi tệ hơn khi phỉ báng việc Williams và Thomases đã có nhiều cuộc trao đổi điện thoại về Vince Foster chỉ để chia sẻ sự đau đớn của họ. Vào lúc đó, tôi nghĩ rằng nếu Faircloth không thể hiểu được những cảm xúc của họ, thì đúng là chính cuộc đời của ông chỉ sống trong những cảm xúc hoang dã. Sự việc Maggie đã hai lần vượt qua máy kiểm tra nói dối về cái chết của Vince đã không làm giảm đi tính chất cáo buộc trong các buổi chất vấn của D'Amato và Faircloth.
Tại ủy ban Ngân hàng của hạ viện, Chủ tịch ủy ban Jim Leach có những cách xử sự rất giống với D'Amato. Ngay từ đầu, ông ta đưa ra những lời buộc tội bịa đặt chống lại tôi và Hillary, tố cáo một cách vô căn cứ là chúng tôi đã kiếm bộn chứ không bị thua lỗ trong vụ Whitewater, chúng tôi đã sử dụng quỹ Madison Guaranty cho những chi tiêu cá nhân và chính trị, và đã bày mưu cho David Hale gian lận trước Cơ quan doanh nghiệp nhỏ. Ông ta hứa sẽ tiết lộ thêm những "sự thật kinh hoàng", nhưng cuối cùng chẳng có gì cả.
Tháng 8, Leach tổ chức một buổi tường trình với nhân vật chinh là L. Jean Lewis, điều tra viên trong vụ Công ty Resolution Trust Corporation (Một công ty được ủy quyền thanh lý các bất động sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước, kể cả các bất động sản được thế chấp khi vay nhưng người vay không có khả năng chi trả - ND). Lewis là người đã nêu tên Hillary và tôi là nhân chứng trong một vụ án hình sự không lâu trước cuộc bầu cử năm 1992. Vào lúc đó, Bộ Tư pháp dưới thời Tổng thống Bush cha đã tìm hiểu ý định của Lewis, và công tố viên liên bang Charles Banks của bang Arkansas, một người của đảng Cộng hòa, bảồ họ rằng không có lý gì để kéo chúng tôi vào, và rằng chuyên cố lôi chúng tôi vào là một nỗ lực để gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử, và nếu mở một cuộc điều tra vào lúc đó chỉ là tạo nên một "sai nguyên tắc công tố".
Thế nhưng, Leach ca ngợi Lewis như "một người anh hùng vì dân phục vụ" vì cuộc điều tra của ông này đã bị ngăn chặn sau khi tôi đắc cử. Trước khi buổi tường trình bắt đầu diễn ra, các tài liệu được công bố đã ủng hộ quan điểm của chúng tôi, kể cả công văn của công tố viên liên bang Charles Banks từ chối việc tiến hành điều tra theo những luận cứ của Lewis vì thiếu bằng chứng, cũng như các bức điện tín nội bộ của FBI và các đánh giá của Bộ Tư pháp khẳng định "không có chứng cứ cho thấy" Hillary và tôi là nhân chứng trong vụ án đó. Cho dù tài liệu bác bỏ các luận cứ của Lewis gần như không được công bố trên phương tiện báo chí, buổi tường trình hôm ấy vẫn bị thất bại.
Vào thời gian các buổi tường trình trong tháng 8 và hàng loạt các cáo buộc cuối cùng của Starr, tôi đã bắt đầu có thói quen trả lời các câu hỏi báo chí đặt ra đối với vụ việc Whitewater với càng ít càng tốt những lời bình phẩm công khai. Rút kinh nghiêm từ vấn đề đồng tính trong quân đội, nếu tôi có một sự giải đáp đầy đủ về bất cứ một vấn đề nào mà báo chí đang bị hút sự chú ý vào, thì vào bản tin tức thời sự buổi tối, vấn đề này sẽ choán hết chỗ các tin về những gì tôi đã thực sự làm cho quyền lợi của dân chúng trong ngày hôm ấy, và người Mỹ sẽ nghĩ rằng tôi chỉ dành thời giờ để tự bào chữa cho mình thay vì làm việc cho họ, khi trong thực tế vấn đề Whitewater chỉ chiếm rất ít thời giờ của tôi. Nếu tính theo thang điểm từ một đến mười, thì câu trả lời bảy điểm cho một vấn đề về kinh tế còn tốt hơn một câu trả lời 10 điểm về vấn đề Whitewater. Do đó với sự nhắc nhở thường xuyên của các nhân viên trợ lý, tôi đã cố gắng giữ im lặng gần như trong suốt thời gian tiếp xúc với báo chí, nhưng việc này thật vô cùng vất vả đối với tôi. Tôi luôn rất ghét sự lạm quyền, và khi những lời cáo buộc sai sự thật luôn được loan truyền, khi sự vô tội của chúng tôi bị bỏ qua một bên, và nhiều người vô tội gặp phải các sự phiền phức vì Starr, trong lòng tôi đã muốn sôi máu lên. Với mức độ giận dữ đó, không ai có thể tránh được việc tự làm hại mình. Phải mất một thời gian dài sau tôi mới nghiệm ra được điều này.
Tháng 9 bắt đầu bằng một chuyến đi đáng nhớ đến Hawaii để kỷ niệm 50 năm ngày chấm dứt Thế chiến hai, và kế đến là chuyến công du đến Bắc Kinh của Hillary để phát biểu tại Hội nghị Phụ nữ Thế giới lần thứ tư. Hillary có một trong những bài phát biểu quan trọng nhất so với bất cứ bài phát biểu của một nhân vật nào khác trong suốt nhiệm kỳ tám năm của chúng tôi, khẳng định "nhân quyền là nữ quyền" và lên án những sự vi phạm đã trở nên quá thường xuyên: những kẻ buôn bán phụ nữ, đẩy họ vào nhà chứa, thiêu chết họ khi họ có quá ít của hồi môn, cưỡng hiếp họ trong chiến tranh, đánh đập họ trong gia đình, hoặc cắt bỏ các bộ phận sinh dục của họ, buộc họ phải phá thai hoặc triệt sản. Bài phát biểu của Hillary được cử tọa đứng lên hoan hô nhiệt liệt, hòa nhịp với phụ nữ trên thế giới, và những người này biết rõ rằng nước Mỹ đang ra tay hành động vì họ. Cho dù Hillary phải chịu chỉ trích về vụ việc Whitewater, cô ấy một lần nữa vượt qua được nhờ vào chính nghĩa mà cô ấy tin tưởng sâu xa, và vì đất nước của chúng tôi. Tôi rất hãnh diện vì cô ấy; những thử thách bất công mà Hillary phải chịu đựng đã không tác động làm lung lay lý tưởng của cô ấy - đức tính mà tôi từng thương yêu từ hồi xưa.
Vào giữa tháng, Dick Holbrooke đã thuyết phục được bộ trưởng ngoại giao các nước Bosnia, Croatia và Nam Tư thống nhất với nhau về một số nguyên tắc cơ bản dùng để làm khung cho việc giải quyết cuộc đối đầu tại Bosnia. Trong khi đó, những cuộc không kích của NATO và những cuộc tấn công bằng tên lửa hành trình tiếp tục đánh vào các vị trí của người Serbia tại Bosnia, và các thắng lợi của các lực lượng Bosnia và Croatia đã thu hẹp vùng lãnh thổ do người Serbia kiểm soát từ 70% xuống 50%, gần với tỷ lệ mà các cuộc thương lượng có thể đòi hỏi.
Ngày 28 tháng 9, kết thúc một tháng tốt đẹp về chính sách đối ngoại, khi Yitzhak Rabin và Yasser Arafat đến Nhà Trắng để tiến hành bước tiếp theo của tiến trình hòa bình là ký hiệp ước về vùng Bờ Tây, trả lại một phần đất rộng lớn cho người Palestine.
Sự việc có ý nghĩa nhất diễn ra bên ngoài các ống kính camera. Buổi lễ ký kết được dự kiến diễn ra vào buổi trưa, nhưng trước hết Rabin và Arafat gặp nhau tại Phòng Nội các để ký nháy phần phụ lục cho bản thỏa thuận. Phần phụ lục này bao gồm 26 bản đồ khác nhau, mỗi bản đồ thể hiện hàng nghìn quyết định mà các bên đã thống nhất với nhau về các tuyến đường giao thông, giao lộ, khu định cư và các địa điểm linh thiêng. Tôi cũng được yêu cầu ký nháy vào các trang của bản phụ lục với tư cách là người làm chứng chính thức. Khi ký được nửa số bản đồ, tôi bước ra ngoài để gọi điện thoại thì Rabin cũng bước ra và nói, "Chúng tôi đang gặp một trở ngại". Trên một trong các bản đồ, Arafat đã phát hiện một đoạn đưởng được Israel đánh dấu là đặt dưới quyền kiểm soát của người Israel, nhưng ông ta chắc chắn rằng đoạn đường đã được các bên thống nhất trả về cho người Palestine. Rabin và Arafat đều muốn tôi đứng ra giải quyết cuộc tranh chấp này.
Tôi mời cả hai sang phòng ăn riêng của tôi và họ bắt đầu nói chuyện với nhau. Rabin nói rằng ông muốn là một người láng giềng tốt với người Palestine và Arafat đáp lại họ là con cháu của Abraham, họ đều là anh em họ với nhau. Cuộc trao đổi giữa hai kẻ thù diễn ra thật thú vị. Không nói một lời, tôi quay lưng và bước ra khỏi phòng, để họ ngồi riêng với nhau lần đầu tiên. Không sớm thì muộn, họ cũng phải quan hệ trực tiếp với nhau, và ngày hôm đó là đúng lúc để họ bắt đầu mối quan hệ này.
Sau 20 phút trao đổi, họ đạt được thống nhất là con đường hiện đang tranh chấp sẽ được giao lại cho người Palestine. Vì cả thế giới đang mong chờ buổi lễ này và vì chúng tôi đã quá giờ hẹn, nên không còn thời gian để thay đổi tấm bản đồ. Thay vào đó, Rabin và Arafat thống nhất với nhau về sự chỉnh sửa này bằng một cái bắt tay, rồi ký vào các tấm bản đồ được đặt trước mặt họ, và tự ràng buộc với nhau về mặt pháp lý đối với điểm chưa đúng của con đường tranh chấp.
Đây là một hành động tin cậy có tính cách cá nhân với nhau mà trước đây không thể nào có được. Và đây là một sự rủi ro rất lớn đối Rabin. Vài ngày sau, khi người Israel chia rẽ bất phân thắng bại về thỏa thuận Bờ Tây này, Rabin vượt qua một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Knesset với cách biệt chỉ một phiếu. Chúng tôi vẫn như người làm xiếc trên dây, nhưng tôi rất lạc quan. Tôi biết việc trao trả sẽ được thực hiện đúng như cái bắt tay giữa hai vị lãnh đạo, và thực tế là nó đã diễn ra như thế. Chính cái bắt tay chứ không phải việc ký kết chính thức bản thỏa thuận đã thuyết phục tôi là Rabin và Arafat sẽ tìm ra một phương cách để hoàn tất quá trình đi đến hòa bình.
Năm tài chính kết thúc vào ngày 30 tháng 9, và chúng tôi vẫn chưa có được ngân sách mới. Trong tháng khi nào tôi không phải bận việc về các vấn đề Bosnia và Trung Đông, thì tôi công du qua các bang để vận động chống lại các đề nghị cắt giảm ngân sách của đảng Cộng hòa dành cho chăm sóc và giúp đỡ y tế, cấp tem phiếu thực phẩm, chương trình cho sinh viên trực tiếp vay, cho tổ chức AmeriCorps, cho việc tăng cường bảo vệ môi trường và đưa vào hoạt động 100.000 cảnh sát mới. Thậm chí họ còn đề nghị cắt giảm việc hoàn thuế thu nhập (EITC), qua đó làm tăng số thuế đánh vào các gia đình có thu nhập thấp và cùng lúc, họ lại tìm cách cắt giảm phần thuế đánh vào những người giàu nhất nước Mỹ. Tại mỗi nơi dừng chân của chuyến đi, tối nhấn mạnh cuộc đấu tranh của chúng tôi không phải là để cân đối ngân sách và cắt giảm gánh nặng của những chi tiêu không cần thiết của chính phủ hay không, mà là cách thức để đạt được mục đích đó. Vấn đề gây tranh cãi lớn là chính phủ liên bang phải chịu những trách nhiệm nào cho quyền lợi chung của đất nước.
Để đáp trả những chỉ trích của tôi, Newt Gingrich đe dọa sẽ từ chối nâng mức nợ chính phủ và qua đó đưa nước Mỹ vào tình trạng vỡ nợ nếu tôi phủ quyết các dự thảo ngân sách của họ. Việc nâng mức giới hạn nợ lên chỉ thuần túy là một động tác kỹ thuật nhằm nhìn nhận một thực tiễn không thể tránh được: khi nào ngân sách nước Mỹ vẫn còn thâm thủng, số công nợ hàng năm sẽ tăng lên, và chính phủ sẽ phải bán thêm trái phiếu để trang trải số thâm thủng này. Tăng hạn mức công nợ chỉ đơn giản cho phép Bộ Ngân khố phát hành thêm công trái mà thôi. Khi đảng Dân chủ chiếm đa số, thì các nghị sĩ Cộng hòa chỉ có thể bỏ phiếu ngăn chặn một cách tượng trưng việc tăng hạn mức nợ và họ làm ra vẻ như họ đã không góp phần vào sự cần thiết phải tăng hạn mức đó. Nhiều dân biểu Cộng hòa tại hạ viện chưa bao giờ bỏ phiếu ủng hộ việc nâng định mức nợ và họ sẽ không hứng thú gì để nâng nó vào lúc này. Do đó tôi không thể coi thường lời đe dọa của Gingrich.
Nếu nước Mỹ không trả được nợ của mình, thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Trong hơn 20 năm qua, chưa bao giờ nước Mỹ lỡ hẹn trong việc trả nợ. Việc không trả được nợ sẽ làm mất đi niềm tin của các nhà đầu tư đối với chúng ta. Khi chúng tôi đang tiến dần tới những đối đầu cuối cùng, tôi không thể phủ nhận sự thật là Newt đang nắm một lá bài mặc cả rất lợi hại, nhưng tôi không thể để bị uy hiếp. Nếu ông ta thực hiện lời đe doạ của mình, bản thân ông ta cũng sẽ lãnh hậu quả. Việc không trả được nợ dẫn đến nguy cơ phải tăng lãi suất, và lãi suất chỉ cần tăng chút ít thôi cũng sẽ làm tăng thêm hàng trăm tỷ đôla tiền vay thế chấp nhà. Mười triệu người Mỹ đã vay thế chấp nhà với lãi lên xuống dính chặt với lãi suất liên bang. Nếu Gingrich không cho tăng định mức nợ, dân chúng sẽ phải trả thêm cái mà Al Gore gọi là "khoản phụ trội Gingrich" trong số tiền thế chấp hàng tháng của họ. Phe Cộng hòa sẽ phải suy nghĩ rất kỹ trước khi quyếtđịnh để Mỹ không trả được nợ.
Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 10, Giáo hoàng đến thăm nước Mỹ một lần nữa. Tôi và Hillary đến yết kiến ngài tại giáo đường xinh đẹp kiểu Gothic tại Newark. Cũng như các lần gặp trước tại Denver và Vatican, Giáo hoàng và tôi gặp riêng với nhau và hầu hết thời gian chỉ để nói về Bosnia. Giáo hoàng động viên các nỗ lực của chúng tôi để tìm kiếm hòa bình với một nhận xét làm tôi phải suy nghĩ: ngài nói thế kỷ thứ 20 đã bắt đầu bằng một cuộc chiến tại Sarajevo, và tôi phải làm sao cho cuộc chiến tại Sarajevo chấm dứt trước cuối thế kỷ này.
Khi cuộc gặp gỡ của chúng tôi kết thúc, Giáo hoàng đã dạy cho tôi một bài học về chính trị. Trước hết ngài rời giáo đường để đến một điểm cách đó khoảng hai dặm và trở về giáo đường trên chiếc xe đặc biệt dành riêng cho Giáo hoàng với nóc được làm bằng kính trong suốt, nhưng có khả năng chống đạn, dể chào mừng các đám đông dân chúng đứng bên đường. Khi ngài trở về giáo đường, những người dự lễ đã tề tựu đầy đủ. Hillary và tôi ngồi trên băng ghế đầu cùng với các quan chức địa phương và liên bang và tín đồ Thiên Chúa giáo hàng đầu của bang New Jersey. Những cánh cửa gỗ sồi nặng nề mở ra, Giáo hoàng với bộ áo thầy tu rực rỡ và chiếc áo choàng xuất hiện, đám đông đứng lên và bắt đầu vỗ tay. Khi Giáo hoàng bắt đầu bước vào lối đi với đôi cánh tay dang ra để bắt tay người dân đứng hai bên dãy ghế, những cánh tay biến thành những tiếng hoan hô và reo hò. Tôi chú ý có một nhóm nữ tu đã đứng cả lên băng ghế của mình và la hét như những thanh thiếu nữ ở tuổi teen trong một đại hội nhạc rock. Khi tôi quay lại hỏi một người đàn ông về nhóm nữ tu, thì được biết họ thuộc dòng Carmelite, một dòng tu sống biệt lập với xã hội. Giáo hoàng đã đặc cách ngoại lệ để họ đến dự lễ tại nhà thờ này. Tôi biết chắc ngài là một người biết cách tổ chức một đám đông. Tôi gật đầu và tự nói, "nếu phải tranh cử với ông ấy thì tôi chẳng dám nghĩ tới".
Một ngày sau khi tôi gặp Giáo hoàng, chúng tôi đạt được những tiến bộ về Bosnia khi tôi thông báo tất cả các bên đã đạt một thỏa thuận ngưng bắn. Một tuần lễ sau, Bill Perry nói nếu có được thỏa thuận hòa bình thì NATO sẽ phải gửi quân đến Bosnia để thi hành thỏa thuận đó. Hơn nữa, vì trách nhiệm của Mỹ tham gia vào các hoạt động của NATO đã rõ ràng, nên ông không nghĩ chúng tôi phải xin phép sự ủng hộ của quốc hội. Tôi nghĩ là Dole và Gingrich cũng sẽ thoải mái hơn nếu không phải ra quốc hội bỏ phiếu về nhiệm vụ tại Bosnia; họ đều là những người am hiểu các vấn đề quốc tế biết rõ những gì chúng ta phải làm, nhưng có nhiều nghị sĩ Cộng hòa ở cả hai viện quốc hội chống đối rất mạnh việc can thiệp này.
Tháng 10, tôi củng cố thêm sự kiên quyết của mình để chấm dứt cuộc chiến Bosnia và bắt những ai phạm tội ác chiến tranh phải chịu trách nhiệm về hành động của họ khi tôi cùng một người bạn là Thượng nghị sĩ Chris Dodd đến trường Đại học Connecticut để khánh thành một trung tâm nghiên cứu mang tên cha của ông. Trước khi trở thành thượng nghị sĩ, Tom Dodd là luật sư trong ban điều hành Toà án xét xử tội phạm chiến tranh ở Nuremberg. Trong bài phát biểu của mình, tôi ủng hộ mạnh mẽ các phiên toà xét xử các tội phạm chiến tranh tại Nam Tư và Rwanda, những tòa án mà chúng tôi có đóng góp tiền bạc và nhân sự. Và chúng tôi cũng hỗ trợ việc thiết lập một toà án thường trực để giải quyết các tội ác chiến tranh và những hành động tàn bạo khác xâm phạm đến quyền con người. Chính ý tưởng này là gốc rễ của việc thành lập Tòa án Hình sự Quốc tế sau này.
Khi tôi ở Mỹ để giải quyết vấn đề Bosnia, Hillary lại thực hiện một chuyên công du khác, lần này đến châu Mỹ Latinh. Trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, với nước Mỹ là siêu cường duy nhất của thế giới về quân sự, kinh tế và chính trị, mọi quốc gia đều mong muốn có sự quan tâm của chúng tôi, và thường là nếu đáp trả thì chúng tôi cũng có lợi. Nhưng tôi không thể đi đến mọi nơi được, nhất là trong giai đoạn còn phải đấu về ngân sách với quốc hội. Do đó, cả Al Gore và Hillary đều phải thực hiện một số lượng lớn bất thường các chuyến công du nước ngoài. Ở bất cứ nơi nào họ đến, người ta biết là họ mang đến nơi đó tiếng nói của nước Mỹ, của tôi và trong tất cả mọi chuyến đi, không trừ một chuyến nào, họ đã tăng cường vị thế của nước Mỹ trên thế giới.
Vào ngày 22 tháng 10, tôi bay đến New York để tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập Liên hiệp quốc. Tôi tranh thủ cơ hội này để kêu gọi một sự hợp tác quốc tế lớn hơn trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố, sự lan tràn của các loại vũ khí giết người hàng loạt, tội phạm có tổ chức, và buôn lậu các chất gây nghiện. Vào đầu tháng, Sheikh Omar Abdel Rahman và chín người khác đã bị Toà phán quyết là có tội trong lần đánh bom Trung tâm Thương mại Thế giới lần thứ nhất, và không lâu trước đó, Colombia đã bắt được nhiều tay cầm đầu của tập đoàn ma tuý Cali khét tiếng. Trong bài phát biểu của tôi tôi đã phác thảo một kế hoạch để đạt đến các mục tiêu này, bao gồm các biện pháp toàn cầu chống rửa tiền; đóng băng các tài sản của những tay khủng bố và buôn lậu ma tuý, như là chính tôi đã làm đối với các tập đoàn ma túy Colombia; cam kết không để cho các tay khủng bố hoặc các nhóm tội phạm có tổ chức được ẩn náu; đánh sập các thị trường bất hợp pháp cung cấp vũ khí và giấy tờ giả cho các tên khủng bố và buôn lậu chất ma túy; tăng cường nỗ lực phá hủy các nơi trồng chất gây nghiện và làm giảm nhu cầu sử dụng chất ma túy; một mạng lưới quốc tế để huấn luyện cảnh sát và cung cấp cho họ những công nghệ mới nhất; thông qua Hiệp ước cấm vũ khí hóa học; và tăng cường hiệu quả của Hiệp ước cấm vũ khí sinh học.
Ngày hôm sau, tôi quay trở lại Hyde Park để có cuộc gặp lần thứ chín với Boris Yeltsin. Yeltsin đã ngã bệnh và đang chịu một sức ép rất lớn từ những người theo chủ nghĩa quốc gia cực đoan chống lại việc bành trướng của NATO và vai trò tích cực của Hoa Kỳ trong vấn đề Bosnia có hại cho người Serbia ở Bosnia. Ông đã có một bài phát biểu đầy cứng rắn ngày hôm trước tại Liên hiệp quốc, chủ yếu là để đối nội, và tôi có thể thấy rõ ông đã quá mệt mỏi về vấn đề này.
Để ông được thoải mái hơn, tôi mời ông đi trực thăng đến Hyde Park để ông có thể ngắm nhìn những cánh rừng hoa lá tuyệt đẹp dọc theo con sông Hudson vào một ngày âm áp hiếm hoi của mùa thu. Khi đến nơi, tôi đưa ông đến sân trước một ngôi nhà cổ nhìn ra sông. Chúng tôi trao đổi với nhau, cùng ngồi trên những chiếc ghế mà Roosevelt và Churchill đã ngồi khi ngài thủ tướng Anh đến đây trong thời kỳ Thế chiến hai. Sau đó tôi đưa ông đến một căn nhà để ông xem bức tượng bán thân của Roosevelt do một nghệ sĩ người Nga tạc, một bức tranh người mẹ bất khuất của tổng thống do người em của chính nghệ sĩ tạc tượng nói trên vẽ, và một lá thư viết tay mà chính Tổng thông Franklin D. Roosevelt đã gửi cho Stalin thông báo cho nhà lãnh đạo Liên Xô biết ngày đổ bộ lên Normandy đã được quyết định.
Boris và tôi dành buổi sáng để nói về hoàn cảnh chính trị bấp bênh của ông. Tôi nhắc nhở ông là tôi đã làm mọi thứ có thể được để ủng hộ ông, và cho dù chúng tôi có bất đồng về việc mở rộng NATO, nhưng tôi sẽ cố giúp ông vượt qua khó khăn này.
Sau buổi cơm trưa, chúng tôi trở vào nhà để trao đổi về vấn đề Bosnia. Các bên có liên quan sắp đến Hoa Kỳ để thương lượng nhằm đạt được cái mà tất cả chúng tôi đều mong sẽ là bản hiệp định chung cuộc, mà thành công của hiệp định đó tùy thuộc vào một lực lượng đa quốc gia do NATO dẫn đầu cũng như có sự tham gia của các lực lượng Nga nhằm trấn an những người Serbia ở Bosnia là họ sẽ được đối xử một cách công bằng. Cuối cùng, Boris cũng bằng lòng gửi quân, nhưng khẳng định rằng lực lượng Nga sẽ không nằm dưới sự chỉ huy của các tư lệnh NATO, cho dù ông cũng rất hài lòng nếu họ được phục vụ "dưới sự lãnh đạo của một vị tướng Mỹ". Tôi đồng ý, với điều kiện lực lượng Nga không can thiệp vào việc chỉ huy và kiểm soát của NATO.
Tôi rất tiếc là Yeltsin đang gặp quá nhiều khó khăn tại đất nước ông. Vâng, lẽ tất nhiên ông có những sai lầm, nhưng ông phải đương đầu với những trở ngại khổng lồ trong việc đưa nước Nga tiến lên theò đúng hướng. Tôi vẫn nghĩ rằng ông sẽ được tái đắc cử trong cuộc bầu cử sắp đến.
Tại buổi họp báo sau lần gặp gỡ này, tôi cho biết chúng tôi đã đạt được những bước tiến trong vấn đề Bosnia và cả hai chúng tôi sẽ thúc đẩy việc phê chuẩn hiệp ước START II và cùng nhau làm việc để đi đến một bản hiệp ước toàn diện cấm thử vũ khí hạt nhân trong năm 1996. Đây là một thông báo đầy phấn khởi, nhưng Yeltsin mới là người nổi nhất hôm đó. Ông tuyên bố với báo chí là ông rời cuộc họp thượng đỉnh lạc quan hơn khi ông đến, bởi vì báo chí thường hay nói cuộc họp thượng đỉnh của chúng tôi "sẽ đi đến một thảm họa. Vâng, thì bây giờ, tôi có thể nói với các bạn rằng thảm họa chính là các bạn đấy". Tôi gần như ngã lăn ra mà cười, và cả các nhà báo cũng cười theo. Tất cả những gì tôi có thể nói với họ là "các bạn phải nhớ trích đúng tên người nói đấy nhé". Yeltsin có thể thoát hiểm dù có phát biểu với báo chí thế nào đi nữa. Nếu phải trả lời các vấn đề liên quan đến vụ việc Whitewater, không biết ông còn nói những gì nữa.
Tháng 10 là một tháng tương đối yên bình trên chính trường quốc nội, khi chảo nóng về vấn đề ngân sách đang chậm chạp tiến gần đến độ sôi. Vào đầu tháng, Newt Gingrich quyết định không đưa dự luật về cải cách vận động hành lang ra biểu quyết ở quốc hội và tôi đã phủ quyết dự luật phân bổ ngân sách. Dự luật về ngân sách đòi hỏi các tay lobby chuyên nghiệp công khai hóa các hoạt động của họ và cấm họ tặng quà, các chuyến du lịch, và tiệc tùng quá một giới hạn khiêm tốn cho các thành viên quốc hội. Các nghị sĩ Cộng hòa kiếm khá nhiều tiền từ các tay lobby chuyên nghiệp bằng việc thảo ra các đạo luật về cắt giảm thuế, về trợ cấp của chính phủ, và miễn giảm các quy định về môi trường cho quyền lợi của rất nhiều tập đoàn. Gingrich thấy không có lý do gì làm hỏng một tình hình thuận lợi như thế. Tôi phủ quyết dự luật phân bổ ngân sách vì, ngoại trừ đạo luật về xây dựng cho quân đội, nó là dự luật duy nhất mà quốc hội đã thông qua khi mà năm tài chính mới vừa bắt đầu, và theo tôi quốc hội không được tự chăm sóc mình trước tiên. Tôi không muốn phủ quyết dự luật này và đã yêu cầu các lãnh đạo của đảng Cộng hòa tạm bảo lưu nó lại cho đến khi nào tôi hoàn tất việc đưa vào vài dự luật ngân sách khác nữa, nhưng họ vẫn cứ chuyển đến cho tôi.
Trong khi cuộc đấu tranh về vấn đề ngân sách tiếp diễn, Bộ trưởng Năng lượng Hazel O'Leary và tôi nhận được một bản báo cáo từ Ủy ban Tư vấn về Thử nghiệm phóng xạ trên Con người, cho thấy chi tiết hàng nghìn vụ thí nghiệm trên con người tại các trường đại học, bệnh viện, và căn cứ quân sự trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Hầu hết các thử nghiệm này không vi phạm đạo đức, nhưng một vài thử nghiêm thì có: trong một cuộc thử nghiệm các nhà khoa học đã tiêm plutonium vào 18 bệnh nhân mà không cho họ biết; trong một trường hợp khác, các bác sĩ đã chiếu tia bức xạ một cách quá mức vào các bệnh nhân ung thư, dù biết rằng chẳng có lợi gì cho họ nếu làm vậy. Tôi chỉ đạo xem lại tất cả các qui trình thử nghiệm hiện nay và hứa sẽ bồi thường đầy đủ các trường hợp vi phạm đạo đức. Việc công bố các hồ sơ bảo mật này là một phần của chính sách công khai hóa rộng lớn mà tôi cho tiến hành trong suốt nhiệm kỳ của tôi. Chúng tôi đã cho công bố hàng nghìn tài liệu từ Thế chiến hai, Chiến tranh Lạnh, và cuộc ám sát Tổng thống Kennedy.
Cuối tuần lễ đầu của tháng 10, tôi và Hillary bay đến Vườn nho Martha để dự lễ cưới một người bạn tốt của gia đình là Mary Steenburgen kết hôn với Ted Danson. Chúng tôi là bạn với nhau từ 1980; con cái chúng tôi chơi với nhau từ khi chúng còn rất nhỏ, và Mary đã làm việc hết mình hỗ trợ tôi trên phạm vi cả nước vào năm 1992. Tôi thấy thích thú vì cô và Ted gặp và yêu nhau, và đám cưới của họ là một dịp để thư giãn trước những căng thẳng của tình hình Bosnia, vụ việc Whitewater và cuộc đấu tranh về vấn đề ngân sách.
Vào cuối tháng, Hillary và tôi cử hành lễ kỷ niệm 20 năm ngày cưới. Tôi tặng cho cô ấy một chiếc nhẫn kim cương để đánh dấu một mốc quan trọng trong cuộc đời của chúng tôi và cũng để bù lại cho cô ấy vì khi cô ấy đồng ý lấy tôi, tôi đã không đủ tiền để mua một chiếc nhẫn đính hôn. Hillary yêu mến những hạt kim cương nhỏ được kết trên một miếng đai mỏng, và đeo chiếc nhẫn này như một lời nhắc nhở rằng, bất chấp những thăng trầm của cuộc đời, chúng tôi vẫn rất gắn bó với nhau.