← Quay lại trang sách

Chương 46 (tt)

Vài ngày sau, chỉ hai tuần trước ngày kỷ niệm một năm vụ đánh bom tại thành phố Oklahoma, Hillary và tôi trồng một cây sơn thù du trên sân cỏ phía sau Nhà Trắng để tưởng nhớ Ron và những người Mỹ khác đã chết tại Croatia. Sau đó chúng tôi bay đến thành phố Oklahoma để khánh thành một nhà trẻ mới thay thế nhà trẻ đã bị phá hủy trong vụ đánh bom và đến thăm gia đình các nạn nhân ở đấy. Tại trường Đại học Trung tâm Oklahoma, gần Edmond, tôi nói với các sinh viên rằng trong ba năm qụa, chúng ta đã bắt giữ số tên khủng bố nhiều hơn bất cứ thời gian nào trước đây trong lịch sử nước Mỹ, nhưng chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa: đây chính là mối đe dọa đối với thế hệ của họ cũng như chiến tranh hạt nhân là mối đe dọa đối với thế hệ chúng tôi.

Buổi chiều ngày hôm sau, chúng tôi thực hiện một chuyến bay buồn rầu đến căn cứ không quân Dover ở bang Delaware, nơi nước Mỹ mang về những người con đã chết vì phục vụ tổ quốc. Khi quan tài được đưa một cách trang nghiêm ra khỏi máy bay, tôi đọc hết tên những người đã chết trên máy bay của Ron Brown và nhắc nhở những người đến dự rằng ngày mai là lễ phục sinh, ngày mà người Công giáo tin rằng sự mất mát và thất vọng chuyển thành niềm hy vọng và sự cứu rỗi. Kinh thánh có viết, "Dù chúng ta có khóc suốt đêm, niềm vui sẽ đến vào buổi sáng". Tôi đã dẫn giải câu này trong bài nói ca ngợi Ron vào ngày 10 tháng 4 tại Nhà thờ quốc gia, bởi vì mọi người đều biết rõ Ron luôn luôn là niềm vui của tất cả chúng tôi vào các buổi sáng. Tôi nhìn vào quan tài của Ron và nói: "Tôi muốn nói với người bạn của tôi một lần chót: cảm ơn anh; tôi đến đây chỉ để nói lời cảm ơn anh". Chúng tôi để Ron an nghỉ tại Nghĩa trang quốc gia Arlington; vào lúc đó, tôi đã kiệt sức sau một thử thách khủng khiếp mà gần như tôi không còn chịu đựng được nữa. Chelsea giấu những giọt nước mắt dưới cặp kính đen, choàng tay qua người tôi, và tôi phải ngả đầu trên Vai con bé.

Trong tuần lễ đau đớn giữa ngày chiếc máy bay lâm nạn và ngày tổ chức lễ tang, tôi cố gắng thực hiện nhiệm vụ của mình với những cố gắng cao nhất mà tôi có thể làm được. Đầu tiên, tôi ký đạo luật mới về nông nghiệp. Chỉ hai tuần trước, tôi đã ký vào đạo luật cải thiện hệ thống tín dụng nông nghiệp, nhằm gia tăng số lượng tín dụng cho người nông dân vay với lãi suất thấp hơn. Cho dù tôi nghĩ đạo luật mới về nông nghiệp chưa đủ để tạo ra một sự đảm bảo an toàn cho các nông gia nhỏ, nhưng tôi vẫn phải ký vì khi đạo luật hiện nay hết thời hiệu thi hành mà không có một đạo luật khác thay thế, thì người dân sẽ bắt đầu vụ mùa mới mà hoàn toàn không có một chương trình hỗ trợ đầy đủ đã từng giúp đỡ họ từ năm 1948. Hơn nữa dự luật này đã chứa đựng những điều khoản mà tôi ủng hộ: một sự linh hoạt hơn cho việc lựa chọn các loại mùa màng của người nông dân mà không bị mất sự hỗ trợ của nhà nước; ngân sách để phát triển kinh tế ở các cộng đồng nông nghiệp; ngân sách để giúp đỡ người nông dân ngăn chặn sự xói mòn đất, sự ô nhiễm không khí và nước, và sự biến mất của các khu vực đầm lầy. Và 200 triệu USD để bắt đầu một trong những yêu cầu ưu tiên nhất của tôi là phục hồi lại vùng đầm lầy Florida, đã bị xâm hại nặng nề vì sự phát triển mạnh mẽ của việc trồng mía đường.

Vào ngày 9 tháng 4, tôi ký vào đạo luật cho phép tổng thống có quyền phủ quyết từng phần các đạo luật. Hầu hết các thống đốc đều có quyền này và tất cả mọi tổng thống từ Ulysses Grant vào năm 1869 đã tìm cách vận động để có được quyền phủ quyết này. Điều khoản này nằm trong "Bản hợp đồng với nước Mỹ" của đảng Cộng hòa, và tôi cũng từng tán thành nó trong chiến dịch tranh cử năm 1992. Tôi hài lòng là cuối cùng nó đẵ được thông qua, và tôi nghĩ tác dụng của nó là một đòn bẩy giúp cho các tổng thống tương lai loại bỏ ngay những khoản mục không ích lợi ra khỏi ngân sách. Việc ký vào dự luật này tạo ra một trở ngại đáng kể: Thượng nghị sĩ Robert Byrd, một nhân vật có thẩm quyền đáng kính nhât trong quốc hội về các vấn đề Hiến pháp, xem đây như một sự xâm phạm vi phạm hiến pháp của hành pháp đối với cơ quan lập pháp. Byrd rất ghét quyền phủ quyết từng phần này với một sự căm ghét mà người khác dành cho những sự xúc phạm cá nhân, và tôi không nghĩ ông ấy sẽ tha thứ cho tôi khi tôi ký vào dự luật này.

Vào ngày lễ tưởng niệm Ron Brown, tôi phủ quyết một dự luật ngăn cấm phương pháp mà những người đệ trình dự luật này gọi tè một sự "phá thai sinh cục bộ". Dự luật được những người chống phá thai mô tả như được rất nhiều người ủng hộ; nó nghiêm cấm một sự phá thai trễ hạn bị xem như quá vô cảm và dã man mà rất nhiều công dân nghĩ rằng phải bị cấm. Sự thật hơi phức tạp hơn thế một chút. Theo chỗ tôi tìm hiểu thì, phương pháp này cũng rất hiếm khi xảy ra và thường được thực hiện ở các bà mẹ mà bác sĩ nhận định là cần thiết để bảo toàn chính mạng sống và sức khỏe của bà mẹ, và thường xuyên là những bà mẹ mang những thai nhi mắc bệnh tràn dịch não và chắc chắn sẽ chết sớm trong khi hoặc ngay sau khi ra đời. vấn đề là cơ thể của người mẹ sẽ bị ảnh hưởng như thế nào nếu mang thai những bé sơ sinh đó cho đến khi chúng ra đời, và nếu để như thế, nó có làm cho người mẹ trở nên vô sinh về sau không. Trong những trường hợp này rõ ràng việc ngăn cấm phá thai sẽ không phải là "ủng hộ sự sống".

Tôi nghĩ ở đây quyết định là do người mẹ cùng với bác sĩ chăm sóc cho họ. Khi tôi phủ quyết dự luật này, tôi đứng về phía năm bà mẹ từng dùng phương pháp phá thai sinh cục bộ này. Ba người trong số họ, một người Thiên chúa giáo, một người Tin Lành, và một người theo Do Thái giáo chính thống, đều rất mộ đạo và "ủng hộ sự sống". Một trong số họ nói rằng họ đã cầu nguyên Thượng đế lấy đi sinh mệnh của họ để đổi lại cuộc sống cho đứa bé, và tất cả những người này đều đồng ý thực hiện tiến trình phá thai ở giai đoạn cuối chỉ khi bác sĩ cho họ biết rằng con của họ không thể sống được, và vì họ cũng mong muốn có được những đứa con khác.

Nếu các bạn thắc mắc tại sao tôi phải mất thời gian lâu đến thế để giải thích tại sao tôi phải phủ quyết dự luật này, thì các bạn sẽ hiểu được đó là cả một vấn đề chính trị nan giải. Tôi phủ quyết nó vì không ai có thể chứng minh rằng sự thật không phải như những gì mà phe ủng hộ những phụ nữ trên nói - rằng phương pháp này cần thiết hoặc có phương pháp nào khác thay thế khả dĩ có thể bảo vệ các bà mẹ và khả năng sinh sản của họ. Tôi đề nghị một dự luật khác nghiêm cấm mọi việc phá thai trễ hạn ngoại trừ các trường hợp sinh mạng hoặc sức khỏe của người mẹ đang gặp nguy hiểm. Nhiều bang vẫn cho phép việc phá thai này, và một hành động như vậy có thể ngăn chặn được nhiều sự phá thai hơn là dự luật "phá thai sinh cục bộ", nhưng các thế lực chống phá thai ở quốc hội đã ngăn chặn nó. Họ đang tìm cách để vượt qua phán quyết vụ Roe V. Wade; hơn nữa không có một thuận lợi nào về mặt chính trị cho một dự luật thậm chí được hầu hết các nghị sĩ và dân biểu ủng hộ việc phá thai bảo trợ.

Vào ngày 12 tháng 4, tôi bổ nhiệm Mickey Kantor làm Bộ trưởng Thương mại và người trợ lý đầy tài năng của ông là bà Charlene Barshefsky, làm đại diện thương mại mới của Hoa Kỳ. Tôi cũng bổ nhiệm Frank Raines, phó chủ tịch của Fannie Mae, Hiệp hội Thế chấp Liên bang Quốc gia làm người đứng đầu OMB (Văn phòng Quản trị và Ngân sách). Raines là một người có khả năng phối hợp tốt các tri thức, hiểu biết về các vấn đề ngân sách, và sự khéo léo về chính trị để tiếp tục công việc ở OMB, và là người Mỹ gốc Phi đầu tiên nắm giữ chức vụ này.

Vào ngày 14 tháng 4, Hillary và tôi lên chiếc Air Force One để thực hiện chuyến công du kéo dài một tuần đến Nam Triều Tiên, Nhật Bản và Nga. Trên hòn đảo Cheju tuyệt đẹp của Nam Triều Tiên, Tổng thống Kim Young-Sam và tôi đề nghị chúng tôi triệu tập hội nghị bốn bên với Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, là hai thành viên phía bên kia đã ký vào bản đình chiến 46 năm về trước để kết thúc cuộc chiến tranh Triều Tiên, nhằm xây dựng một hiệp định qua đó hai miền Bắc và Nam Triều Tiên có thể đàm phán với nhau, và như chúng tôi mong muốn, để đi đến một bản hiệp ước hòa bình cuối cùng. Bắc Triều Tiên từng nói họ muốn hòa bình, và tôi nghĩ rằng chúng ta phải xem thử họ có thực sự nghiêm túc về vấn đề này hay không.

Tôi bay từ Nam Triều Tiên đến Tokyo, nơi Thủ tướng Hashimoto và tôi ra một tuyên bố để tái khẳng định và hiện đại hóa mối quan hệ về an ninh giữa hai nước, bao gồm một sự hợp tác qui mô hơn trong công tác chống khủng bố, mà Nhật Bản đã sẵn sàng hơn sau khi xảy ra cuộc tấn công bằng khí sarin vào hệ thống tàu điện ngầm. Hoa Kỳ cũng cam kết duy trì sự hiện diện quân sự với khoảng 100.000 quân ở Nhật Bản, Hàn Quốc, và phần còn lại ở Đông Á, trong khi cắt giảm sự hiện diện của chúng ta trên đảo Okinawa của Nhật, nơi các vụ án hình sự liên quan đến binh lính Hoa Kỳ làm gia tăng chống đối sự có mặt quân sự của chúng ta ở đấy. Hoa Kỳ có một quyền lợi lớn về kinh tê khi duy trì hòa bình và ổn định ở châu Á. Người châu Á tiêu thụ 50% hàng hóa xuât khẩu của chúng ta, và sô lượng hàng được mua này tạo ra việc làm cho ba triệu người lao động ở Mỹ.

Trước khi rời khỏi Nhật Bản, tôi đến thăm các binh sĩ Hoa Kỳ thuộc hạm đội 7 trên tàu sân bay USS Independence, dự một buổi yến tiệc do Nhật Hoàng và hoàng hậu chiêu đãi trong hoàng cung, có một bài phát biểu về chế độ ăn của người Nhật, dự một bữa cơm do thủ tướng chiêu đãi, trong đó có màn trình diễn của những võ sĩ sumo gốc Mỹ và một nghệ sĩ kèn saxo xuất sắc người Nhật.

Để củng cố tính chất quan trọng của các mối liên hệ Hoa Kỳ - Nhật Bản, tôi bổ nhiệm cựu phó tổng thống Hoa Kỳ Walter Mondale là đại sứ của chúng ta tại Nhật. Uy tín và khả năng của ông giải quyết các vấn đề phức tạp sẽ chuyển đến người Nhật một thông điệp rõ ràng họ quan trọng như thế nào đối với nước Mỹ.

Chúng tôi bay đến Saint Petersburg, Nga. Vào ngày 19 tháng 4, kỷ niệm một năm vụ đánh bom ở thành phố Oklahoma, Al Gore đến Oklahoma để phát biểu với chính quyền địa phương, trong khi tôi đánh dấu dịp này bằng chuyến thăm viếng một nghĩa trang quân đội Nga và chuẩn bị một cuộc họp thượng đỉnh về an toàn hạt nhân với Boris Yeltsin và các nhà lãnh đạo G-7. Yeltsin gợi ý cuộc họp thượng đỉnh phải nêu bật những cam kết của Hoa Kỳ và Nga cho các hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân, START I, START II và những nỗ lực chung của hai nước để siết chặt và phá hủy các vũ khí và nguyên liệu hạt nhân. Chúng tôi cũng đồng ý tăng biện pháp an toàn ở các nhà máy hạt nhân, chấm dứt việc đổ các chất liệu hạt nhân xuống các đại dương, và giúp Tổng thống Ukraina Leonid Kuchma đóng cửa nhà máy điện hạt nhân Chemobyl trong vòng bốn năm. Mười năm sau thảm họa, nhà máy này vẫn còn đang hoạt động.

Vào ngày 24, tôi trở về Mỹ, nhưng không rứt ra khỏi công tác đối ngoại. Tổng thống Elias Hrawi của Libăng đến Nhà Trắng vào thời điểm căng thẳng ở vùng Trung Đông. Để trả đũa loạt đạn Katyusha do Hezbollah bắn từ miền nam Libăng, Shimon Peres đã ra lệnh mở các cuộc tấn công phản kích có giết chết thường dân. Tôi thông cảm với Libăng; nước này bị kẹt ở giữa cuộc đối đầu giữa Israel và Syria, và đầy rẫy các hoạt động khủng bố. Tôi tái khẳng định lập trường kiên định của Hoa Kỳ trong việc ủng hộ Nghị quyết 425 của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, kêu gọi một nền độc lập thực sự cho nước Libăng.

Tin tức từ vùng Trung Đông không phải hoàn toàn xấu. Khi tôi đang có cuộc gặp gỡ với Tổng thống Libăng, Yasser Arafat đã thuyết phục được Hội đồng hành pháp của PLO tu chính bản Hiến chương của họ để công nhận quyền tồn tại của Israel, một thay đổi chính sách rất quan trọng đối với người Israel. Hai ngày sau đó Warren Christo-pher và đặc phái viên Trung Đông của chúng tôi là Dennis Ross đạt được sự đồng thuận giữa Israel, Libăng, và Syria để chấm dứt cuộc khủng hoảng Libăng và giúp chúng tôi quay trở lại với việc tìm kiếm hòa bình.

Shimon Peres đến gặp tôi vào cuối tháng để ký một hiệp ước hợp tác chống khủng bố, bao gồm một ngân khoản 50 triệu USD tài trợ những nỗ lực chung của hai nước nhằm làm giảm bớt khả năng dễ bị tấn công của Israel bởi những vụ nổ bom tự sát, gây nên những sự tàn phá khủng khiếp và thương tâm gần đây.

Chỉ một tuần lễ trước, tôi ký vào đạo luật chống khủng bố mà cuối cùng đã được quốc hội thông qua, đúng một năm sau vụ thành phố Oklahoma. Vào giai đoạn cuối, dự luật này được sự ủng hộ mạnh mẽ của cả hai đảng sau khi cắt bỏ điều khoản đòi hỏi sử dụng bút viết bột đen không khói để có thể truy tìm được, và điều khoản cho phép các quan chức liên bang được ghi âm thoải mái những kẻ tình nghi khủng bố, một biện pháp đang được sử dụng chống lại tội phạm có tổ chức. Dự luật tạo điều kiện cho chúng ta có thêm công cụ và nguồn lực để ngăn chặn những cuộc tấn công khủng bố, phá tan các tổ chức khủng bố, gia tăng sự kiểm soát đối với các loại vũ khí hoá và sinh học. Quốc hội cũng đồng ý để chúng tôi đặt những tấm lót hoá chất trên các khối thuốc nổ bằng chất dẻo và để ngỏ khả năng quy định tương tự với những loại chất nổ khác chưa bị luật pháp cấm.

Tháng 4 cũng là một tháng rất đáng thú vị đối với vụ Whitewater. Vào ngày 2, Kenneth Starr xuất hiện tại Toà án Phúc thẩm lưu động khu vực thứ 5 ở New Orleans, nhân danh bốn công ty thuốc lá lớn đang cùng lúc đối đầu một cách rất căng thẳng với chính phủ tôi về chiến dịch quảng cáo của họ nhắm vào lứa tuổi thiếu niên và về việc FDA có quyền can thiệp và ngăn chặn họ đến mức nào. Starr không thấy có xung đột lợi ích gì cả khi duy trì hành nghề luật kiếm khá tiền trong khi những đối thủ của tôi vẫn chi trả cho ông ta các khoản tiền hậu hĩnh. Tờ USA Today tiết lộ cho biết trong một phiên tòa bênh vực cho chương trình giáo dục có thu tiền ở Wisconsin, một chương trình mà tôi chống đối, Starr không phải được tiểu bang đó chi trả, mà là do một tổ chức siêu bảo thủ - Bradley Foundation chi trả. Starr đang điều tra Cơ quan quản lý Công sản (RTC) vì RTC đang tìm hiểu hành vi của người tố cáo chúng tôi là L. Jean Lewis, trong khi RTC lại đang thương lượng với công ty luật của ông ta trong vụ cơ quan này kiện công ty luật đã tắc trách khi đại diện cho một tổ chức tiết kiệm và cho vay bị phá sản ở Denver. Và tất nhiên là Starr đã xuất hiện trên truyền hình để bênh vực cho vụ kiện của Paula Jones. Robert Fiske đã bị không cho làm công tố viên độc lập phụ trách vụ Whitewater nữa chỉ vì một lời khiếu nại giản đơn rằng việc thẩm phán Janet Reno bổ nhiệm ông có vẻ như đã tạo ra một sự xung đột lợi ích. Giờ thì chúng ta có một công tố viên với nhiều xung đột lợi ích có thật hẳn hoi.

Như tôi đã nói, Starr và các đồng minh của ông ta trong quốc hội và các toà án liên bang đã nghĩ ra một định nghĩa mới cho "xung đột lợi ích": bất cứ ai có một một quan điểm dường như thuận lợi hoặc, như trong trường hợp của Fiske, có một quan điểm sòng phẳng đối với Hillary và tôi thì bị định nghĩa là tạo ra xung đột lợi ích; còn những xung đột lợi ích chính trị và kinh tế rành rành và định kiến cực độ chống lại tôi mà họ thể hiện lại không bị coi là trở ngại gì cho việc dùng quyền lực không giới- hạn và không thể kể hết để chống lại chúng tôi và nhiều người vô tội khác.

Quan điểm lạ lùng của Starr và những các đồng minh của ông về cái gọi là xung đột lợi ích chưa bao giờ được thể hiện rõ ràng hơn trong cách cư xử của họ với thẩm phán Henry Woods, một luật gia kỳ cựu vậ. cựu nhân viên cơ quan FBI được phân công để chủ tọa phiên toà xử Thống đốc Jim Guy Tucker và những người khác mà Starr đã truy tố về các tội danh liên bang không dính dáng gì đến vụ Whitewater. Những tội danh này liên quan đến vụ mua một số trạm truyền hình cáp. Lúc đầu, cả Starr lẫn Tucker đều không có ý kiến gì về việc Woods là chủ tọa phiên tòa; ông là một người theo đảng Dân chủ nhưng chưa bao giờ có những mối quan hệ gần gũi với thống đốc. Thẩm phám Woods bác bỏ các lời buộc tội sau khi ông xác định Starr đã lạm dụng luật công tô viên độc lập vì những cáo buộc này không có liên quan gì đến vụ việc Whitewater.

Starr khiếu nại quyết định của thẩm phán Woods lên Tòa án Phúc thẩm lưu động khu vực thứ 8 và yêu cầu loại thẩm phán Woods ra khỏi vụ án do những quan điểm thiên vị. Các thành viên trong ban hội thẩm dự phiên Tòa phúc thẩm này là những người theo đảng Cộng hòa được các Tổng thống Reagan và Bush bổ nhiệm. Thẩm phán đứng đầu Pasco Bowman cạnh tranh với David Sentelle về các chính sách cánh hữu của ông này. Không cho thẩm phán Woods một cơ hội để tự bảo vệ, phiên tòa không những đảo ngược quyết định của ông và phục hồi việc truy tố mà còn đưa ông ra khỏi vụ án không phải trên cơ sở hành xử trong các phiên toà trước mà dựa trên sự đả kích phê phán của báo chí đối với ông. Một trong các bài báo chứa đầy những nội dung tố cáo giả dối do quan tòa Jim Johnson viết trên tờ báo cánh hữu Washington Times. Sau quyết định này Woods nêu rõ ông là vị thẩm phán duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ bị loại khỏi một vụ án trên cơ sở các bài báo của giới truyền thông. Khi một luật sư biện hộ khác kháng án lên Tòa phúc thẩm lưu động khu vực thứ 8 nhằm loại bỏ một thẩm phán trong một vụ án khác và lấy án lệ là trường hợp của thẩm phán Woods, một ban hội thẩm khác ít nặng về ý thức hệ chính trị hơn đã bác bỏ ngay yêu cầu này và chỉ trích quyết định về thẩm phán Woods, cho rằng quyết định là vô tiền hậu khoáng và không thể biện minh được. Tất nhiên nhận định này là đúng, nhưng đối với vụ việc Whitewater thì có những luật lệ khác.

Vào ngày 17 tháng 4, thậm chí tờ New York Times cũng không còn nhẫn nại được nữa. Báo này cho rằng Starr "đã tỏ ra mù quáng một cách thách thức đối với các vấn đề pháp lý và thờ ơ với trách nhiệm đặc biệt của ông ta đối với nhân dân Mỹ" do sự từ chối "từ bỏ các hành trang chính trị và tài chính của chính mình". Báo Times còn kêu gọi ông ta nên từ chức. Tôi không thể phủ nhận là tờ báo lâu đời này vẫn giữ vững lương tâm của mình; họ không muốn Hillary và tôi bị giao cho một đám đao phủ. Những tờ báo còn lại tham gia vào vụ Whitewater thì giữ im lặng.

Vào ngày 28 tháng 4, tôi làm chứng có ghi hình video trong bôn tiếng rưỡi cho một phiên xử nữa liên quan đến vụ Whitewater. Trong vụ án này, Starr đã khởi tô Jim và Susan McDougal và Jim Guy Tucker về việc chiếm đoạt bất hợp pháp vốn từ các quỹ Madison Guaranty và Cơ quan doanh nghiệp nhỏ (SBA). Các khoản tiền vay này không được trả lại, nhưng các công tố viên không tranh cãi viêc các bị cáo cam đoan sẽ trả lại số tiền vay; thay vào đó, họ bị khởi tố vì sử dụng số tiền vay vào các mục đích khác với mục đích đã đươc khai trong giấy tờ xin vay.

Vụ xử này không liên quan gì đến vụ việc Whitewater, Hillary hoặc tôi. Tôi phải nói đến nó vì David Dale đã lôi tôi vào đấy. Ông ta đã lừa đảo hàng triệu đôla từ quỹ SBA và đã hợp tác với Starr với hy vọng sẽ được giảm án tù. Trong lời chứng trước tòa, Dale nhắc lại lời tố cáo rằng chính tôi đã gây sức ép với ông ta để vay 300.000 USD cho ông bà McDougal.

Tôi làm chứng rằng những lời Hale kể lại về những lần trao đổi với tôi đều không đúng sự thật và tôi không biết gì về giao ước giữa các bên dẫn đến các cáo buộc. Các luật sư bào chữa cho rằng một khi bồi thẩm đoàn biết rõ Hale đã nói dối về vai trò của tôi trong những quan hệ làm ăn giữa ông ta và ông bà McDougal cùng với Tucker, toàn bộ lời chứng của ông ta cùng với việc khởi tố của công tố viên sẽ không còn giá trị nữa, và vì vậy những người bị kiện sẽ không cần phải khai thêm gì nữa. Có hai khó khăn khi thực hiện đối sách này. Thứ nhất, trái ngược với mọi lời khuyên, Jim McDougal khăng khăng đứng làm ra làm chứng để tự bảo vệ mình. Ông từng làm như vậy trong một vụ xử trước đó liên quan đến việc Madison Guaranty sụp đổ vào năm 1990, và nhờ vậy ông được tha bổng. Sự suy sụp về mặt tinh thần, vui buồn thất thường từ đó của ông ngày càng trầm trọng, và theo nhiều nhà quan sát, những lời làm chứng loạng choạng, dông dài không những làm hại chính ông, mà còn hại cả đến Susan và Jim Guy Tucker, là những người không thèm đứng ra tự bào chữa, thậm chí khi mà McDougal vô tình đưa họ vào tình thế rất hiểm nghèo.

Một vấn đề khác là bồi thẩm đoàn không nắm hết mọi sự liên hệ của David Hale với các đối thủ chính trị của tôi; một số đối thủ này vẫn chưa được nhận diện, và một số người khác thì bị ngài thẩm phán tuyên bố là không được cho xuất hiện. Bồi thẩm đoàn không biết gì những đồng tiền và sự hỗ trợ mà Hale đã nhận được từ một hoạt động bí mật được biết đến dưới cái tên là Dự án Arkansas.

Dự án Arkansas được tài trợ bởi nhà tỷ phú cực hữu Richard Mellon Scaife sống ở thành phố Pittsburg, cũng là người đã bơm tiền cho tờ American Spectator, một tạp chí ra hàng tháng, để viết những câu chuyên nói xấu về Hillary và tôi. Ví dụ như dự án này đã chi 10.000 USD cho một cựu binh sĩ tiểu bang để phịa ra câu chuyên nực cười là tôi buôn lậu ma tuý. Các nhân viên của Scaife cũng công tác mật thiết với các đồng minh của Newt Gingrich. Khi David Brock viết bài cho tờ Spectator bịa đặt câu chuyện hai binh sĩ tiểu bang Arkansas khai rằng họ đã cung cấp phụ nữ cho tôi, Brock không những nhận được lương từ tờ nguyệt san này, mà còn có những khoản chi trả bí mật từ nhà kinh doanh Peter Smith, chủ tịch tài chính của ủy ban hành động chính trị của Newt.

Hầu hết các nỗ lực của Dự án Arkansas đều tập trung vào David Hale. Hoạt dộng thông qua Parker Dozhier, một cựu trợ lý của thẩm phán Jim Johnson, Dự án Arkansas dựng lên một văn phòng làm việc cho Hale tại một cửa hàng ăn uống của Dozhier bên ngoài Hot Springs. Tại đây, trong suốt thời gian cộng tác với Starr, Hale được Dozhier cung cấp tiền bạc, cho mượn xe hơi và một lều câu cá. Trong thời gian này, Hale còn nhận được cố vấn về pháp luật miễn phí của Ted Olson, một người bạn của Starr và là một luật sư cho Dự án Arkansas và tờ American Spectator, về sau này Olson là cố vấn trưởng pháp luật tại Bộ Tư pháp của Tổng thống George w. Bush (Bush con) sau một buổi tường trình tại thượng viện mà tại đó ông ta đã không được trung thực lắm về các hoạt động của mình trong Dự án Arkansas.

Bất kể lý do gì, bồi thẩm đoàn kết tội cả ba bị đơn với nhiều tội danh. Khi kết thúc buổi họp, công tố viên trưởng của OIC (Hội đồng hạt Columbia) tuyên bố tôi không nằm trong danh sách bị xét xử và "không có lý lẽ gì" cho thấy tôi làm việc gì sai trái. Nhưng vào lúc này, Starr đã có được cái mà ông ta muốn: ba người mà ông ta có thể gây sức ép nhằm mục đích làm mất uy tín chúng tôi nếu họ không muốn đi tù. Vì không có gì để nói nên tôi không lo lắng gì cả, dù tôi rất tiếc cho những khoản tiền thuế mà người dân phải trả cho những nỗ lực bới móc của Starr, và các thiệt hại mà một số người ở Arkansas phải gánh chịu chỉ vì cái tội của họ là quen biết Hillary và tôi trước khi tôi làm tổng thống.

Tôi cũng rất nghi ngờ phán quyết của bồi thẩm đoàn. Tình trạng sức khỏe tâm thần của McDougal cho thấy ông có thể sẽ không chịu nổi một vụ xử án, kể cả việc làm chứng. Tôi có cảm nhận là Susan McDougal và Jim Guy Tucker bị kết án chỉ vì họ là nạn nhân của tình trạng tâm thần sa sút của Jim McDougal và những cố gắng tuyệt vọng của David Hale để tự cứu ông ta.

Tháng 5 là một tháng tương đối yên tịnh trên mặt trận lập pháp, cho phép tôi có thể tiến hành một số cuộc vận động tranh cử ở nhiều bang và tham dự một số hoạt động có tính chất nghi lễ dành cho tổng thống như việc trao phần thưởng Huân chương vàng của quốc hội cho mục sư Billy Graham, buổi hòa nhạc hàng năm của đài WETA-TV trên Bãi cỏ phía Nam Nhà Trắng, với các ca sĩ Aaron Neville và Linda Ronstadt, và một cuộc viếng thăm của Tổng thống Hy Lạp Constantinos Stephanopoulos. Khi mà chúng tôi đang ở cao điểm của các vấn đề gai góc trên mặt trận ngoại giao và đối nội, tôi thường dành những khoảng thời gian như vậy để thư giãn.

Vào ngày 15 tháng 5, tôi thông báo đợt tuyển mộ cuối cùng cho lực lượng cảnh sát cộng đồng, cho phép tuyển thêm 43.000 nhân viên cảnh sát trong tổng số 100.000 cảnh sát mà tôi đã hứa. Cùng ngày hôm ấy, Bob Dole thông báo ông từ chức khỏi thượng viện để dùng toàn bộ thời gian vào việc tranh cử tổng thống. Ông điện thông báo cho tôi quyết định của mình và tôi cũng chúc mừng ông. Đây là hoạt động duy nhất nhạy cảm đối với ông; ông không có thời gian vận động tranh cử chống lại tôi, và vì là người đứng đầu khối đa số tại quốc hội, cũng như thái độ của đảng Cộng hòa tại thượng và hạ viện về các vấn đề ngãn sách và các vấn đề khác, cuộc chạy đua tranh cử của ông đã gặp những khó khăn.

Ngày hôm sau tôi kêu gọi việc cấm sử dụng mìn sát thương trong phạm vi toàn cầu. Có khoảng 100 triệu quả mìn, hầu hết là tàn dư của những cuộc chiến tranh trong quá khứ, nằm ngay dưới mặt đất ở châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Rất nhiều quả đã nằm im ở những nơi đây trong nhiều thập niên, nhưng chúng vẫn còn rất nguy hiểm; hàng năm có 25.000 người chết hay bị thương tật vì chúng. Thiệt hại chúng gây ra ở những nơi như Angola và Campuchia, đặc biệt là đối trẻ em thật là khủng khiếp. Ngoài ra còn rất nhiều mìn ở Bosnia; thương vong duy nhất mà quân đội chúng ta phải gánh chịu là một trung sĩ lục quân, thiệt mạng khi tìm cách tháo gỡ một trái mìn. Tôi cam kết Hoa Kỳ sẽ phá hủy bốn triệu quả mìn không tự hủy vào năm 1999 và sẽ giúp đỡ các quốc gia khác tháo gỡ mìn. Khộng lâu sau, Hoa Kỳ đã tài trợ hơn 50% chi phí dùng để tháo gỡ mìn trên phạm vi toàn cầu.

Nhưng không may là diễn biến nỗ lực vì sự sống nói trên lại xảy ra đồng thời với một bi kịch khác, khi tôi phải loan báo đô đốc Mike Boorda, người chỉ huy các cuộc hành quân trên biển của chúng ta đã chết vì tự sát bằng súng. Boorda là người lính quân dịch đầu tiên lên đến một chức vụ cao đến như vậy trong hải quân. Ông tự sát vì bị cho là đeo hai huân chương về chiến tranh Việt Nam mà ông không được thưởng. Đây là những việc gây tranh cãi, nhưng dù thế nào đi nữa, vẫn không làm mất tư thế của ông là một quân nhân xuất sắc, can đảm với một cuộc đời binh nghiệp lâu năm trung thành với tổ quốc. Cũng như Vince Foster, trước đây ông không bao giờ để danh dự và sự chính trực của ông bị đặt vấn đề. Giữa việc bị người ta nói rằng bạn không làm tốt công việc và bị nói rằng bạn không phải là người tốt quả là có sự khác biệt lớn.

Vào giữa tháng 5, tôi ký vào dự luật tái cho phép đạo luật Ryan White CARE tài trợ về y khoa và dịch vụ hỗ trợ cho những người bị nhiễm HIV và bệnh AIDS, căn bệnh đã trở thành nguyên nhân chính dẫn đến những cái chết của công dân Mỹ trong độ tuổi từ 25 đến 44. Vào lúc này, chúng tôi đã tăng gấp đôi số tiền để chăm sóc bệnh AIDS so với năm 1993, và một phần ba trong tổng 900.000 người bị nhiễm HIV đã nhận được các dịch vụ hỗ trợ trong khuôn khổ đạo luật này.

Cũng cùng trong tuần lễ này tôi ký một dự luật được gọi là đạo luật Megan. Đạo luật này được đặt tên theo tên một em gái nhỏ bị một tên tội phạm cuồng dâm giết chết; đạo luật này cho phép các tiểu bang quyền thông báo cho các cộng đồng biết sự hiện diện của những tên tội phạm bạo lực tình dục; rất nhiều công trình nghiên cứu chứng minh cho thây những tên tội phạm loại này không bao giờ phục thiện.

Sau buổi lễ ký, tôi bay đến bang Missouri để vận động tranh cử với Dick Gephardt. Tôi thực sự thán phục Dick Gephardt, một con người làm việc cật lực, thông minh, dễ mến, có vẻ như trẻ hơn tuổi của mình đến hai mươi năm. Cho dù ông là người đứng đầu các dân biểu của đảng Dân chủ tại hạ viện, vào cuối tuần ông thường xuyên quay về nhà, đến thăm các khu vực lân cận và gõ cửa nhà các cử tri để trao đổi với họ. Ông thường xuyên gửi cho tôi một bản kê những việc mà ông muốn tôi phải làm cho khu vực dân cư của ông. Trong khi rất nhiều nghị sĩ thỉnh thoảng yêu cầu tôi làm việc này việc nọ, chỉ có một thành viên quốc hội nữa thường xuyên gửi cho tôi bản kê "những việc phải làm" là Thượng nghị sĩ Ted Kennedy.

Vào cuối tháng, tôi thông báo Cơ quan quản lý cựu chiến binh sẽ tiến hành bồi thường cho các cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam về một loạt các bệnh nghiêm trọng bao gồm bệnh ung thư, rối loạn chức năng gan, bệnh Hodgkin, có liên quan đến việc nhiễm chất độc da cam, một yêu cầu đã lâu được sự kêu gọi và ủng hộ của các cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam như các nghị sĩ John Kerry, John McCain và cố đô đốc Hải quân Bud Zumwalt.

Vào ngày 29 tháng 5, tôi thức đến quá nửa đêm để theo dõi kết quả cuộc bầu cử tại Israel. Đúng là một cuộc đua nghẹt thở, khi mà Bibi Netanyahu đánh bại Shimon Peres với cách biệt không tới 1% tổng số phiếu. Peres thắng bằng đa số phiếu tuyệt đối của những người Do Thái gốc Ảrập, nhưng Netanyahu chỉ với số phiếu của người Do Thái chiếm hơn 90% tổng số cử tri đã đủ đánh bại ông. Netanyahu thắng lợi với một lập trường cứng rắn hơn trong việc chống khủng bố và thực hiện một tiến trình tìm kiếm hòa bình chậm hơn, sử dụng các chương trình vận động quảng cáo qua tivi theo kiểu Mỹ, kể cả các chiến dịch đả kích Peres với sự cố vấn của giới truyền thông đảng Cộng hòa tại New'York. Peres đã không chịu nghe theo những lời yêu cầu khẩn thiết của những người ủng hộ ông đề nghị ông sử dụng các phương tiện quảng cáo cho đến giai đoạn cuối của cuộc vận động, và cho đến lúc đó thì mọi việc đã quá trễ. Tôi cho rằng Shimon Peres đã làm tốt công việc thủ tướng của mình, và ông đã cống hiến cả cuộc đời cho quốc gia Israel, nhưng vào năm 1996, chỉ bằng một cách biệt nhỏ, Netanyahu đã cho thấy ông ta là một chính trị gia xuất sắc hơn. Tôi rất thiết tha để xác định tôi có thể hay không thể và làm thế nào tôi có thể hợp tác để giữ cho tiến trình hòa bình được tiếp tục.

Vào tháng 6, trên cơ sở cuộc vận động bầu cử tổng thống, tôi tập trung vào hai vấn đề: giáo dục và việc một loạt các vụ cháy đột ngột tại các nhà thờ của người da đen trên khắp nước Mỹ tạo ra nhiều lo âu. Tại buổi lễ khai giảng năm học mới của Đại học Princeton, tôi phác họa một kế hoạch để mở cửa đại học cho tất cả mọi người Mỹ và ít nhất tất cả họ đều phải tốt nghiệp chương trình học hai năm của các trường cao đẳng như ở trung học: một chương trình miễn thuế hai năm theo mô hình Học bổng Georgia's Hope Scholarships trị giá 1.500 USD (số tiền học phí trưng bình của các cao đẳng cộng đồng) dành cho hai năm học cao đẳng; miễn thuế 10.000 USD một năm cho tất cả những ai học lên đại học từ năm thứ ba trở đi; học bổng dành cho tất cả 5% số học sinh đứng đầu các kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học; ngân sách để gia tăng các chỗ làm về giảng dạy và nghiên cứu tại các trường đại học từ 700.000 lên 1.000.000 chỗ; và mức tăng hàng năm cho các chương trình học bổng cho các sinh viên có thu nhập thấp.

Vào giữa tháng, tôi đến trường trung học Grover Cleveland ở Alburquerque, bang New Mexico, để bày tỏ sự ủng hộ cho kế hoạch giới nghiêm của cộng đồng, một trong nhiều nỗ lực thuộc loại này trên khắp nước nhằm bắt buộc thanh niên trẻ phải trở về nhà đúng giờ và học bài trong một khoảng thời gian nào đó vào buổi tối. Không chừa ngoại lệ nào, tất cả các trường công đều đòi hỏi học sinh phải mặc đồng phục, dự giờ học nhiều hơn, ít bạo lực hơn và học hành nhiều hơn. Sự cách biệt giữa học sinh giàu và nghèo đã giảm đi rất nhiều.

Một số người chỉ trích tôi, nhạo báng việc tôi nhấn mạnh đến những cái mà họ gọi là các vấn đề "vớ vẩn nhỏ nhặt" như giới nghiêm, đồng phục, chương trình giáo dục nhân cách, chương trình V-chip. Họ nói rằng tất cả những việc làm trên đều mang ý đồ chính trị, và cho thấy sự bất lực của tôi khi không thể thông các chương trình hành động lớn tại một quốc hội do đảng Cộng hòa kiểm soát. Các nhận định trên hoàn toàn không chính xác. Vào thời điểm chúng tôi đang hoàn thiện các chương giáo dục và chống tội phạm rộng lớn đã được thông qua trong hai năm đầu tôi làm tổng thống, và tôi đang có sáng kiến quan trọng khác về giáo dục trình trước quốc hội. Nhưng tôi biết ngân sách và pháp luật liên bang chỉ có thể cung cấp cho người Mỹ các phương tiện để họ tự cải thiện cuộc sống của họ; sự thay đổi thực sự vẫn tùy thuộc vào việc làm của chính các công dân Mỹ ở cấp cơ sở. Một phần nhờ sự thúc đẩy của chúng tôi, ngày càng có nhiều trường thực hiện việc cho học sinh mặc đồng phục, với các kết quả đạt được rất tích cực.

Vào ngày 12 tháng 6, tôi đến Greeleyville, bang Nam Carolina để khánh thành nhà thờ mới của phái Tin Lành Mount Zion African Methodist, sau khi nhà thờ cũ của Giáo đoàn đã bị đốt cháy. Không đầy một tuần trước, một nhà thờ ở Charlotte, Bắc Carolina, đã trở thành nhà thờ thứ 13 của người da đen bị đốt trong vòng 18 tháng vừa qua. Cả cộng đồng người da đen ở Hoa Kỳ phản ứng dữ dội và yêu cầu tôi phải làm một cái gì đó. Tôi tán thành một sự hợp tác về mặt lập pháp giữa hai đảng để tạo điều kiện cho các công tố viên liên bang trừng phạt những kẻ đã đốt các cơ sở tín ngưỡng, và cam kết tài trợ các khoản cho vay liên bang lãi suất thấp để tái xây dựng các nhà thờ này. Các vụ đốt nhà thờ này có vẻ như là một hành động có tính chất lan truyền giống như đợt phá hoại các giáo đường Do Thái giáo vào năm 1992. Không có một âm mưu nào để liên kết các hành động riêng lẻ này, nhưng chúng được thực hiện do như là một sự lây lan của lòng thù hằn trong tâm thức những người có tín ngưỡng khác.

Trong thời gian này, tôi cũng nhìn nhận có một vấn đề nghiêm trọng xảy ra trong việc điều hành các hoạt động của Nhà Trắng đến nỗi tôi cảm thấy đây là một vụ việc đầu tiên trong chính phủ đáng để được làm rõ bằng một cuộc điều tra độc lập.

Vào đầu tháng 6, tin tức báo chí cho biết cách đó ba năm, vào năm 1993, Văn phòng an ninh nhân sự của Nhà Trắng đã lấy của FBI hàng trăm hồ sơ tóm tắt của những người được cho phép vào Nhà Trắng dưới thời các Tổng thống Reagan và Bush. Các hồ sơ đó được lấy khi văn phòng này tìm cách thay các hồ sơ an ninh bằng hồ sơ an ninh của các nhân viên Nhà Trắng hiện tại, vì các hồ sơ an ninh trước kia đã được Chính phủ Bush (cha) cho mang đi để lưu trữ trong thư viện của gia đình Bush. Nhà Trắng không có thẩm quyền gì để lưu trữ các hồ sơ mật của FBI về các thành viên của đảng Cộng hòa cả. Tôi nổi giận khi được nghe tin này.

Vào ngày 9 tháng 6, Leon Panetta và tôi xin lỗi về sự cố này. Chỉ trong vòng một tuần lễ sau, Louis Freeh thông báo rằng chính FBI đã sai sót khi chuyển 408 hồ sơ đến cho Nhà Trắng. Vài ngày sau, Janet Reno yêu cầu Ken Starr mở cuộc điều tra về các hồ sơ mật này. Vào năm 2000, Văn phòng công tố độc lập (OIC) kết luận sự cố này chỉ là một sai sót. Nhà Trắng không hề tiến hành vụ gián điệp chính trị nào - Mật vụ đã chuyển giao cho văn phòng an ninh nhân sự của Nhà Trắng một danh sách cũ của các nhân viên Nhà Trắng, bao gồm tên của những thành viên của đảng Cộng hòa, và đó chính là bản danh sách đã được gửi đến Nhà Trắng.

Vào cuối tháng 6, tại buổi họp hằng năm của gia đình Al Gore ở Nashville, tôi đề nghị tu chính đạo luật về nghỉ phép để cho phép người Mỹ được nghỉ thêm 24 giờ trong một năm, hoặc một thời gian tương đương với thời gian làm việc của ba ngày để phụ huynh và cô thầy có thể gặp nhau tại trường về việc học hành của học sinh, hoặc để họ đưa vợ hay cha mẹ đi khám sức khỏe định kỳ hàng năm.

Vấn đề tạo ra một sự cân đối giữa việc làm và quan tâm đến gia đình đè nặng lên vai tôi vì đó là một vấn đề đã làm ảnh hưởng đến công việc của Nhà Trắng. Bill Galston, một thành viên sáng chói trong Hội đồng về các chính sách đối nội, người mà tôi được dịp gặp lần đầu tiên tại DLC, và là một nguồn cung cấp liên tục về những ý tưởng, sáng kiến hay cho tôi, vừa xin từ chức để có thời gian chăm sóc nhiều hơn cho cậu con trai 10 tụổi: "Con trai tôi luôn luôn hỏi tôi ở đâu. Nếu ngài ở vị trí của tôi, ngài cũng phải tìm kiếm một người nào đó để lo cho nó; nhưng tôi thì không thể tìm được ai để làm việc đó. Tôi phải trở về nhà thôi".

Phó chánh văn phòng của tôi, Erskine Bowles, một người bạn thân và bạn chơi golf, là một nhà quản lý tuyệt vời, người giữ nhịp cầu tốt nhất giữa chúng tôi và cộng đồng doanh nghiệp, cũng phải trở về nhà. Vợ ông, Crandall, một người bạn học chung trường Wellesley của Hillary, điều hành một nhà máy dệt rất lớn, phải đi đây đi đó làm ăn liên tục. Hai cậu con trai của họ đều đi học; đứa nhỏ đang vào học năm cuối cùng của bậc trung học. Erskine nói với tôi ông rất yêu mến việc làm hiện tại, "nhưng con trai của tôi không thể nào ở nhà một mình khi học năm cuối cùng của bậc trung học. Tôi không muốn nó phải tự hỏi nó có phải là quan trọng nhất trên thế giới này đối với cha mẹ nó không. Tôi phải về nhà thôi".

Tôi tôn trọng và thống nhất với các quyết định mà Bill và Erskine chọn, và cũng rất cảm ơn định mệnh đã sắp xếp cho Hillary và tôi cùng được sống và làm việc tại Nhà Trắng. Vì vậy chúng tôi không phải đi lại nhiều để đến nơi làm việc, và ít nhất một trong hai người chúng tôi luôn được có mặt với Chelsea trong các bữa ăn tối và khi nó thức dậy vào buổi sáng. Nhưng chuyện xảy ra với các nhân viên của tôi cho thấy rằng có quá nhiều người Mỹ, với rất nhiều công việc và thu nhập khác nhau, hàng ngày đến nơi làm nhưng vẫn canh cánh trong lòng là họ đang bỏ bê con cái vì công việc. Nước Mỹ hỗ trợ để cân bằng giữa công việc và gia đình ít hơn bất cứ một quốc gia giàu có nào khác, và đây là một điểm yếu mà tôi muốn thay đổi.