← Quay lại trang sách

Chương 49

Sáng thứ bảy, ngày 15 tháng 8, khi việc đối chứng trước đại bồi thẩm đoàn lơ lửng trước mắt và sau một đêm trằn trọc không ngủ, tôi đánh thức Hillary dậy và kể cho cô ấy nghe tất cả mọi chuyện giữa tôi và Monica Lewinsky. Cô ấy nhìn tôi như thể tôi vừa giáng cho một cú vào bụng vậy, vừa giận vì tôi đã nói dối cô ấy hồi tháng giêng vì những việc tôi đã làm. Tôi chỉ có thể nói với cô ấy rằng tôi rất hối tiếc, tôi đã cảm thấy không thể nói với bất cứ ai, kể cả với cô ấy về việc đã qua. Tôi nói tôi rất yêu cô ấy, tôi không muốn làm cô ấy và Chelsea bị tổn thương, tôi rất hổ thẹn về những việc đã làm, tôi đã giấu mọi việc để tránh làm tổn thương gia đình và ảnh hưởng tới cương vị tổng thống. Sau tất cả những dối trá và lạm dụng mà chúng tôi đã phải chịu đựng suốt từ khi tôi bắt đầu làm tổng thống, tôi không muốn bị cuốn băng khỏi nhiệm sở trong cơn lũ theo sau buổi lấy lời khai của tôi hồi tháng giêng. Tôi vẫn chưa hiểu hết vì sao tôi lại làm một việc sai trái và ngu ngốc đến thế; hiểu biết đó chỉ đến từ từ, qua những tháng ngày sắp tới cùng cố gắng cải thiện mối quan hệ của chúng tôi.

Tôi cũng phải nói chuyện với Chelsea. Theo cách nào đó, việc này còn khó khăn hơn nhiều. Sớm muộn gì, mỗi đứa trẻ sẽ hiểu rằng cha mẹ chúng không hoàn hảo, nhưng lần này điều đó đã vượt quá bình thường. Tôi vẫn luôn tin mình là một người cha tốt. Những năm Chelsec học trung học và năm đầu tiên ở trường đại học đã bị che phủ bởi bốr năm trời đầy những cuộc tấn công cá nhân dữ dội nhằm vào cha mẹ nó. Giờ đây, Chelsea lại phải hiếu rằng cha mình không những đã làm một việc vô cùng sai trái, mà còn không hề nói cho nó và mẹ nó biết sự thực. Tôi lo sợ không chỉ đánh mất cuộc hôn nhân, mà còn đánh mất cả tình yêu và sự kính trọng của con gái mình.

Cuối ngày tồi tệ ấy còn bị che phủ bởi hành động khủng bố khác. Ở Omagh, ở Bắc Ireland, một nhóm li khai của IRA không ủng hộ Thỏa ước ngày thứ Sáu tốt lành đã đánh bom cài trên xe ôtô, giết hại 28 người tại một khu mua sắm đông đúc trong thành phố. Tất cả các bên đang theo đuổi tiến trình hòa bình, kể cả Sinn Fein, đều lên án hành động đánh bom. Tôi đưa ra tuyên bố lên án hành động bạo lực đó và chia buồn với các gia đình nạn nhân và kêu gọi các bên liên quan trong tiến trình hòa bình tăng cường nỗ lực hơn nữa. Nhóm li khai bất hợp pháp đó tự xưng là IRA Thực thụ, gồm hơn 200 thành viên và người ủng hộ, đủ để gây ra những rắc rối thực sự, nhưng không đủ để làm gián đoạn tiến trình hòa bình: vụ đánh bom ở Omagh cho thấy sự điên cuồng tột độ của việc quay trở lại cách làm cũ.

Thứ hai, sau một thời gian chuẩn bị, tôi đi xuống phòng Bản đồ để bắt đầu cho cuộc đối chứng kéo dài bốn giờ đồng hồ. Starr đã đồng ý không đưa tôi đến tòa án, có lẽ là do phản ứng khá dữ dội khi ông ta làm như vậy đối với Hillary. Tuy nhiên, ông ta khăng khăng đề nghị quay phim toàn bộ buổi đối chứng, nghe nói bởi một trong số 24 vị đại bồi thẩm không thể tham dự. David Kendall nói rằng Nhà Trắng sẵn sàng đón toàn bộ đại bồi thẩm đoàn đến nếu như Starr không quay phim lại toàn bộ cuộc điều trần "bí mật" của tôi. Ông ta từ chối; và tôi ngờ rằng ông ta muốn gửi cuốn băng đó tới quốc hội, nơi cuốn băng có thể được công bố mà không gây rắc rối cho ông ta.

Đại bồi thẩm đoàn theo dõi toàn bộ diễn biến cuộc điều trần qua truyền hình mạch kín nối về tòa án trong khi Starr và những thẩm vấn viên khác làm hết sức biến cuốn băng thành một dạng phim khiêu dâm chiếu trong gia đình, họ cố ý hỏi tôi những câu hỏi làm tôi bẽ mặt để khiến quốc hội và người dân Mỹ ghê tởm đến mức họ sẽ yêu cầu tôi từ chức, và chỉ sau đó, ông ta mới có thể buộc tội tôi. Samuel Johnson từng nói rằng không có gì tập trung tâm trí người ta nhiều như việc có thể khiến cá nhân chính mình bị tiêu diệt. Hơn thế, tôi tin rằng vẫn còn rất nhiều thứ khác đang bị nguy hiểm chứ không chỉ là việc chuyện gì có thể xảy ra đối với tôi.

Sau màn dạo đầu, tôi đề nghị đưa ra một tuyên bố vắn tắt. Tôi thừa nhận rằng "trong một vài dịp nhất định hồi năm 1996 và một lần năm 1997" tôi đã dính líu đến hành xử sai trái, trong đó có quan hệ gần gũi không đúng đắn với Monica Lewinsky; và rằng sự việc đó cho dù sai trái về đạo đức, theo tôi cũng không thể cấu thành "quan hệ tình dục" như định nghĩa mà thẩm phán Wright đã chấp nhận trước yêu cầu của các luật sư trong vụ án của Jones; rằng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hành động của mình; và rằng tôi sẽ cố gắng hết sức để trả lời tất cả các câu hỏi của Văn phòng công tố độc lập (OIC) liên quan đến tính hợp pháp của những hành động tôi đã gây ra, nhưng tôi sẽ không nói thêm về chi tiết của sự việc.

Người thẩm vấn chính của OIC lúc đó đưa ra cho tôi hàng loạt câu hỏi để làm rõ định nghĩa "quan hệ tình dục" mà thẩm phán Wright đã áp dụng. Tôi thừa nhận rằng đã không cố gắng giúp các luật sư của Jones, bởi vì, cũng giống như OIC, họ đã can dự vào việc tiết lộ thông tin trái phép, vì lúc đó họ biết vụ kiện của họ sẽ chẳng đi đến đâu, nên tôi tin rằng họ bắt tôi lấy lời khai chỉ để moi thêm thông tin nhằm phá hoại tôi bằng kiểu tiết lộ đó. Tôi nói tất nhiên tôi không biết lúc lấy lời khai, văn phòng của Starr đã dính líu khá sâu.

Giờ đây, các luật sư của Starr đang cố gắng lợi dụng cài bẫy bằng cách quay phim tôi đang nói về những tình tiết đầy hình ảnh mà không ai bị buộc phải nói công khai.

Khi luật sư của OIC tiếp tục phàn nàn về những câu trả lời trong khi tôi lấy lời khai trước những câu hỏi về tình dục, tôi nhắc nhở ông ta rằng cả luật sư của tôi và tôi đều mời các công tố viên của Jones đưa ra những câu hỏi cụ thể tiếp theo, và rằng họ đã từ chối. Tôi nói tôi thấy rõ họ không muốn làm thế là bởi vì họ không còn cố gắng bắt tôi thừa nhận những điều chết người để tiết lộ cho báo giới nữa. Thay vào đó, họ làm việc cho Starr. Họ muốn việc tôi khai nhận tạo cơ sở để buộc tôi phải từ chức, hoặc bị truất phế, hoặc thậm chí sẽ kết án tôi. Vì vậy, họ không đặt ra những câu hỏi tiếp theo "vì họ lo ngại rằng tôi sẽ trung thực trả lời họ... Họ đang cố gài bẫy và lừa gạt tôi. Thế mà giờ đây ông lại có vẻ kêu ca là họ đã không làm hết chức trách". Tôi thú nhận rằng tôi "ghê tởm" những gì các luật sư Viện Rutherford đã làm nhân danh Jones - làm tổn hại người vô tội, tiết lộ trái phép, theo đuổi một vụ kiện có động cơ chính trị - "nhưng tôi vẫn quyết định sẽ vượt qua cuộc thẩm vấn đầy cạm bẫy nguy hiểm đó mà không vi phạm luật pháp. Và tôi tin mình đã làm được".

Tôi thừa nhận đã lừa dối những người hỏi tôi sau khi câu chuyên vỡ lở. Tôi nói đi nói lại nhiều lần tôi chưa bao giờ yêu cầu ai nói dối. Bốn giờ đồng hồ như thỏa thuận trôi qua, nhiều câu tôi bị hỏi lặp đi lặp lại đến sáu, bảy lần, bởi các luật sư đang hết sức cố gắng biến cuộc thẩm vấn tôi thành những lời thú tội bẽ bàng và có thể dùng để buộc tội. Mục đích của cuộc điều tra kéo dài bốn năm trời trị giá 40 triệu đôla, tính đến thời điểm đó, là như vậy đó: phân tích định nghĩa về tình dục.

Tôi kết thúc cuộc thẩm vấn vào khoảng 6 giờ 30 phút, ba tiếng rưỡi trước khi đọc bài diễn văn trước toàn quốc. Tôi buồn phiền thấy rõ khi về phòng gặp bạn bè và nhân viên của mình đang tụ tập thảo luận về chuyện đã diễn ra, trong đó có cả luật sư của Nhà Trắng Chuck Ruff, David Kendall, Mickey Kantor, Rahm Emanuel, James Carville, Paul Begala, Harry và Linda Thomason. Chelsea cũng ở đó, và tôi thở phào khi Hillary bước vào lúc gần 8 giờ.

Chúng tôi trao đổi với nhau về những gì tôi cần nói. Ai cũng biết tôi phải thừa nhận đã phạm phải một sai lầm đáng hổ thẹn và tôi cũng đã cố tình che giấu, vấn đề là liệu tôi có nên thử công kích cuộc điều tra của Starr và nói rằng đã đến lúc nó phải châm dứt hay không. Quan điểm chung vẫn là tôi không nên làm vậy. Hầu hết mọi người đều biết Starr nằm ngoài tầm kiểm soát; họ cần nghe thấy tôi thừa nhận việc làm sai của mình và chứng kiến sự ăn năn của tôi. Một vài người bạn cho tôi những lời khuyên mà họ cho là mang tính chiến lược; một số khác thì thực sự bàng hoàng trước những gì tôi gây ra. Chỉ có Hillary từ chối đưa ra ý kiến, thay vào đó chỉ khuyến khích mọi người để tôi một mình và tập trung vào bài diễn văn.

Lúc 10 gỉờ, tôi cho người dân Mỹ biết về cuộc đối chứng, nói rằng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thất bại của cá nhân tôi, thú nhận đã lừa dối mọi người, "kể cả vợ tôi". Tôi nói đã cố gắng bảo vệ mình và gia đình trước những câu hỏi phiền nhiễu của một vụ kiện mang mục đích chính trị đã từng bị bác bỏ. Tôi cũng nói rằng cuộc điều tra của Starr đã diễn ra quá lâu, quá tốn kém, làm tổn thương quá nhiều người, và từ hai năm trước, một cuộc điều tra khác, hoàn toàn độc lập, đã không tìm ra bất cứ sai trái nào của Hillary hay của tôi trong vụ Whitewater. Cuối cùng, tôi cam đoan sẽ làm hết sức mình để hàn gắn những rạn nứt trong cuộc sống gia đình, tôi hy vọng chúng ta có thể thay đổi cả thói quen xấu trong cuộc sống của cả đất nước bằng cách chấm dứt mọi nỗ lực phá hoại thanh danh cá nhân, xâm phạm đời sống riêng tư, và tiếp tục tiến lên. Tôi tin vào mỗi lời nói ra, nhưng cơn giận dữ của tôi vẫn chưa nguôi ngoai đủ để tôi thấy ăn năn như lẽ ra phải cảm thấy.

Ngày hôm sau, chúng tôi đến Vườn nho Martha trong kỳ nghỉ hàng năm. Thường thì tôi đếm từng ngày đến khi có thời gian dành cho gia đình; năm nay, dù biết chúng tôi cần khoảng thời gian này, nhưng thay vào đó, tôi lại ước mình có thể làm việc đêm ngày. Khi chúng tôi đi bộ ra Bãi cỏ phía Nam Nhà Trắng để lên máy bay, Chelsea đi giữa tôi và Hillary, còn chú chó Buddy đi bên cạnh tôi, các tay săn ảnh đã chụp những bức hình để lộ nỗi đau mà tôi đã gây ra. Khi không còn chiếc máy ảnh nào nữa, vợ và con gái tôi hầu như chẳng nói với tôi lời nào.

Tôi dành hai ngày đầu tiên vừa để năn nỉ tha thứ vừa để lên kế hoạch oanh kích Al Qaeda. Đêm đến, Hillary ngủ trên giường, còn tôi ngủ trên ghế sofa.

Trong ngày sinh nhật của tôi, tướng Don Kerrick, nhân viên của Sandy Berger, bay đến Vườn nho Martha để trình bày về những mục tiêu do CIA và Hội đồng Tham mưu Liên quân đề nghị - các trại của Al Qaeda ở Afghanistan, hai mục tiêu khác ở Sudan, một xưởng thuộc da nơi Bin Laden có một số lợi ích tài chính và một nhà máy hoá chất mà CIA cho là nơi từng sản xuất hoặc tàng trữ chất hoá học được dùng để tạo ra khí gas vx có ảnh hưởng tới hệ thần kinh. Tôi loại xưởng thuộc da ra khỏi danh sách vì nó không có giá trị về mặt quân sự đối với Al Qaeda và tôi muốn giảm thiểu số nạn nhân là dân thường. Tấn công vào các khu trại tập trung phải được thực hiện khớp với thời gian cuộc họp, theo tin tình báo, của Bin Laden và thuộc hạ cao cấp.

Lúc 3 giờ chiều, tôi ra quyết định cuối cùng hạ lệnh cho Sandy Berger tiến hành, tàu hải quân Hoa Kỳ ở phía bắc vùng biển Ảrập đã phóng tên lửa hành trình vào các mục tiêu ở Afghanistan, trong khi những quả tên lửa từ tàu chiến ở Biển Đỏ được phóng vào nhà máy hoá học ở Sudan. Hầu hết các quả tên lửa đều nhắm trúng mục tiêu, nhưng Bin Laden đã không có mặt trong khu trại tập trung như thông tin của CIA khi tên lửa tấn công. Một vài nguồn tin cho hay, ông ta đã rời khỏi khu trại chỉ vài giờ trước, nhưng chúng tôi không bao giờ biết chắc. Một số người có liên hệ với Al Qaeda đã thiệt mạng, và một số sĩ quan Pakistan được cho là đang ở đó để huấn luyện quân khủng bố Kashmir cũng thế. Nhà máy hoá học ở Sudan bị phá hủy.

Sau khi ra thông cáo về cuộc tấn công từ Vườn nho Martha, tôi bay về Washington để nói chuyện với người dân Mỹ lần thứ hai trong vòng bốn ngày. Tôi nói rằng tôi ra lệnh oanh kích bởi Al Qaeda phải chịu trách nhiệm cho các vụ đánh bom ở đại sứ quán, và Bin Laden "rất có thể là kẻ tổ chức và chu cấp tài chính đắc lực cho chủ nghĩa khủng bố quốc tế trên toàn thế giới", một kẻ đã lớn tiếng hô hào sẽ trả tiền cho các cuộc chiến khủng bố nhằm vào nước Mỹ không phân biệt quân nhân hay dân thường. Tôi nói rằng các cuộc tấn công của chúng tôi không nhằm chống lại đạo Hồi mà "chống lại những kẻ cuồng tín và giết người", và rằng chúng tôi đã chiến đấu chống lại chúng trên một số mặt trận trong nhiều năm, và sẽ tiếp tục như vậy, bởi vì "đây là cuộc chiến trường kỳ và vẫn đang tiếp diễn".

Vào thời điểm nói về cuộc đấu tranh lâu dài, tôi ký sắc lệnh đầu tiên trong một loạt các quyết định chuẩn bị cho cuộc đấu tranh đó bằng việc sử dụng mọi phương tiện có sẵn. Lệnh hành pháp số 13099 buộc bao vây về kinh tế đối với Bin Laden và Al Qaeda. Sau đó lệnh bao vây được mở rộng ra chính quyền Taliban. Vào thời điểm đó, chúng tôi chưa phá vỡ mạng lưới tài chính của khủng bố một cách hiệu quả. Lệnh hành pháp này đưa đến Đạo luật Quốc tế Trường hợp Khẩn cấp của các Cường quốc Kinh tế mà trước đây chúng tôi đã từng dùng để đối phó thành công với tập đoàn ma tuý Cali ở Colombia.

Tôi cũng yêu cầu tướng Shelton và Dick Clarke xây dựng một số phương án lựa chọn đưa biệt kích vào Afghanistan. Tôi nghĩ nếu chúng tôi xóa sổ một số chương trình huấn luyện của Al Qaeda, chúng sẽ thấy chúng tôi không đùa, dù chưa bắt được Bin Laden và các thuộc hạ cao câp của ông ta. Rõ ràng giới quân nhân cao cấp không hề muốn làm việc đó, có thể vì những diễn biến ở Somalia, có thể vì họ sẽ phải cử Lực lượng Đặc biệt vào mà không biết đích xác nơi ẩn trú của Bin Laden, hoặc liệu chúng ta có thể đưa binh sĩ ra an toàn hay không. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn để ngỏ lựa chọn đó.

Tôi cũng ký một số bị vong lục cho phép CIA sử dụng lực lượng để truy sát Bin Laden. Từ mùa xuân năm trước, CIA đã có quyền tiến hành chiến dịch "tóm cổ" Bin Laden, vài tháng trước các vụ đánh bom đại sứ quán, nhưng họ thiếu lực lượng bán quân sự để hoàn thành nhiệm vụ. Thay vào đó, họ thuê một số nhóm người Afghanistan tìm bắt Bin Laden. Khi các nhân viên CIA tại chỗ và người Afghanistan phân vân không biết có phải bắt giữ Bin Laden trước rồi mới giết hay không, tôi nhấn mạnh họ không cần phải bắt giữ trước. Trong vòng vài tháng, tôi đã gia hạn quyền hạn truy sát bằng cách mở rộng danh sách mục tiêu các cộng sự của Bin Laden cũng như các tình huống có thể tấn công những tên này.

Nhìn chung, phản ứng từ những người đứng đầu quốc hội của hai đảng đối với cuộc tấn công bằng tên lửa đều khá tích cực, phần lớn là vì họ đều được thông báo vắn tắt và Bộ trưởng Cohen đã đảm bảo với những người Cộng hòa rằng cuộc tấn công và thời điểm tiến hành là phù hợp. Chủ tịch hạ viện Gingrich nói: "Hôm nay, Hoa Kỳ đã làm một việc đúng". Thượng nghị sĩ Lott nói cuộc tấn công là một việc làm "phù hợp và công bằng". Tom Daschle và Dick Gephardt và tất cả đảng viên Dân chủ đều lên tiếng ủng hộ. Không lâu sau đó, tôi càng thêm hy vọng trước vụ bắt bớ Mohamed Rashed, điệp viên của Al Qaeda, kẻ tình nghi trong vụ đánh bom đại sứ quán Kenya.

Một số người chỉ trích tôi vì đã tấn công vào nhà máy hóa học ở Sudan nơi chính phủ Sudan khăng khăng họ không sản xuất hay tàng trữ bất cứ loại chất hóa học nguy hại nào. Tôi vẫn tin rằng chúng tôi đã quyết định đúng. CIA đã thu thập được mẫu đất lấy từ khu vực nhà máy này có chứa chất hoá học được sử dụng để sản xuất ra vx. Trong phiên toà xét xử phần tử khủng bố sau đó ở thành phố New York, một nhằn chứng đã khai nhận rằng Bin Laden có hoạt động sản xuât vũ khí hoá học tại Khartoum. Bất chấp những bằng chứng rõ ràng đó, một sô người trong giới truyền thông vẫn ra sức đưa ra khả năng xem hành động đó là phiên bản đời thực của bộ phim Wag the Dog, mà trong phim vị tổng thống tưởng tượng tạo ra một cuộc chiến để chiếm lĩnh tin tức truyền hình, nhằm đánh lạc hướng dư luận khỏi những vấn đề cá nhân của ông.

Người dân Mỹ phải cùng lúc tiếp nhận tin tức liên quan đến cuộc tấn công và phiên đối chứng của tôi trước đại bồi thẩm đoàn. Tờ Newsweek đăng một bài báo cho rằng phản ứng của dư luận đối với cuộc đối chứng của tôi và bài diễn văn trên truyền hình về việc đó là "điềm tĩnh và thận trọng". Có đến 62% số người ủng hộ tôi, trong khi có tới 73% ủng hộ cuộc tấn công bằng tên lửa. Hầu hết mọi người nghĩ rằng tôi đã thiếu trung thực trong cuộc sống riêng tư nhưng vẫn rất đáng tin cậy trong những vấn đề công cộng. Trái lại, tờ Newsweek viết: "Phản ứng đầu tiên của giới phê bình là rất phẫn nộ". Họ chỉ trích tôi dữ dội. Tôi đáng bị đánh đòn, đúng vậy, nhưng tôi lại phải chịu trận ở chính sân nhà, nơi đáng lẽ ra tôi cũng phải xoay xở được.

Lúc này, tôi chỉ hy vọng đảng Dân chủ sẽ không bị báo giới thúc ép kêu gọi tôi từ chức, và tôi có thể hàn gắn những rạn nứt tôi gây ra cho gia đình, các nhân viên, nội các và tất cả những ai đã tin tôi trong suốt những năm tôi bị chĩa mũi dùi tấn công.

Sau bài diễn văn, tôi trở về Vườn nho Martha và ở lại trong mười ngày. Không khí trong gia đình đã tan băng phần nào. Tôi xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên kể từ sau phiên đối chứng trước đại bồi thẩm đoàn, công du đến Worcester, Massachusetts theo lời mời của Thượng nghị sĩ Jim McGovern, để cổ động cho Police Corps, một chương trình mới cấp học bổng đại học cho những người cam kết trở thành nhân viên thi hành pháp luật sau này. Worcester là một thành phố lao động kiểu cũ; tôi hơi e ngại không biết họ sẽ đón tôi ra sao, và tôi cảm thấy được khích lệ khi thấy một đám đông nhiệt thành tham gia sự kiện có sự góp mặt của thị trưởng, cả hai thượng nghị sĩ và bốn dân biểu của bang Massachusetts. Rất nhiều người trong đám đông đó thuyết phục tôi tiếp tục giữ cương vị của mình; một số người khác nói họ đã cũng từng mắc sai lầm trong cuộc sống; và họ lấy làm tiếc vì những lỗi lầm của tôi đã bị dư luận mổ xẻ.

Vào ngày 28 tháng 8, kỷ niệm 35 năm bài diễn văn vĩ đại "Tôi có một giấc mơ" của Martin Luther King Jr., tôi đến dự lễ tưởng nhớ ở nhà thờ Union ở Oak Bluffs, nơi từng là thánh địa đi nghỉ của người Mỹ gốc Phi hơn một thế kỷ. Tôi cùng phát biểu với Dân biểu John Lewis, người từng làm việc với Martin Luther King Jr., và là một trong những cây đại thụ đạo đức quyền lực của chính trường Mỹ. Ông ấy và tôi làm bạn với nhau từ rất lâu, từ trước năm 1992. Ông ấy là một trong những người ủng hộ tôi sớm nhất, và có toàn quyền lên án tôi. Thay vì thế, khi đứng lên phát biểu, John nói rằng tôi là bạn và là anh em của ông, rằng ông đã luôn ủng hộ tôi khi tôi thành công và sẽ không rời bỏ tôi khi tôi thất bại, rằng tôi là một vị tổng thống tốt, và rằng nếu để ông quyết định, thì tôi sẽ vẫn tiếp tục là một tổng thống tốt. John Lewis sẽ không bao giờ biết được ngày hôm đó ông đã vực dậy tinh thần của tôi nhiều đến mức nào.

Chúng tôi trở lại Washington vào cuối tháng và phải đối mặt với một vấn đề lớn khác. Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á đã lan rộng và đang đe dọa gây mất ổn định nền kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Thái Lan năm 1997, sau đó đã lan sang Indonesia và Hàn Quốc, và bây giờ đang tràn đến nước Nga. Giữa tháng 8, Nga không thể trả được các khoản nợ nước ngoài, và sự sụp đổ của nước Nga vào cuối tháng đã gây ra sự trượt dốc tại thị trường chứng khoán trên toàn thế giới. Ngày 31 tháng 8, chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones sụt giảm 512 điểm, sau khi vừa mới giảm 317 điểm chỉ bốn ngày trước; mọi thành quả đạt được của năm 1998 đã bị xóa sạch.

Rob Rubin và nhóm kinh tế quốc tế đã nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính kể từ khi nó bùng phát ở Thái Lan. Mặc dù tình hình cụ thể ở từng quốc gia là khác nhau, nhưng vẫn có một vài yếu tố chung: hệ thống ngân hàng có nhiều lỗ hổng, các khoản nợ xấu, chủ nghĩa tư bản thân hữu và sự mất niềm tin chung. Tình hình còn tồi tệ hơn vì nền kinh tế Nhật Bản không tăng trưởng trong suốt năm năm. Không có lạm phát và tỉ lệ tiết kiệm chỉ đạt 20%, người Nhật có thể vẫn trụ được, nhưng khi nền kinh tế hùng mạnh nhất châu Á không tăng trưởng, hậu quả nguy hại do chính sách không tốt ở những nước khác trở nên càng tệ hại. Ngay cả người Nhật Bản cũng bị chân động; nền kinh tê ngừng trệ gây tổn thất trong bầu cử, hậu quả là bạn tôi Ryutaro Hashimoto phải rời khỏi chức thủ tướng. Trung Quốc, với một nền kinh tế tăng trưởng mạnh nhất khu vực, đã giữ không để cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn khi từ chối giảm giá trị đồng Nhân dân tệ.

Công thức chung để phục hồi kinh tế trong những năm 1990 chính là việc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các nước giàu gia hạn cho những khoản nợ có thể tính toán được và đổi lại là cải tổ cần thiết ở các nước chịu ảnh hưởng. Cải tổ bao giờ cũng là những bài toán chính trị khó khăn. Nó luôn bắt buộc phải thay đổi tỉ lệ lãi suất cố định, và thường đòi hỏi thắt chặt chính sách tài khóa, việc này gây khó khăn cho dân thường về ngắn hạn, nhưng có thể đem lại sự phục hồi nhanh chóng hơn và ổn định hơn về dài hạn.

Mỹ ủng hộ những nỗ lực của IMF ở Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc, và có những đóng góp đáng kể đối với hai nước Indonesia và Hàn Quốc. Bộ Ngân khố quyết định không rót tiền vào Thái Lan, bởi 17 tỉ đôla đã có sẵn là tạm đủ, và bởi Quỹ Ổn định Tỉ giá Hối đoái (Exchange Stabilization Fund), mà chúng tôi từng sử dụng để giúp Mexico, có thêm một số hạn chế mới, mặc dù chỉ là tạm thời, được quốc hội quy định. Vào thời điểm các quốc gia khác cần sự giúp đỡ thì những hạn chế này được dỡ bỏ, nhưng tôi tiếc là đã không thể đóng góp một phần nào, dù nhỏ bé, để giúp đỡ Thái Lan. Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) đều muốn giúp đỡ, vì Thái Lan là đồng minh lâu năm nhất của chúng tôi ở khu vực Đông Nam Á. Tôi cũng muốn thế, nhưng chúng tôi để Bộ Ngân khố quyết định. Xét theo góc độ kinh tế và chính sách đối nội, làm như vậy là một quyết định đúng đắn, nhưng quyết định đó đã gửi đi một thông điệp sai tới Thái Lan và toàn châu Á. Bob Rubin và tôi không mắc nhiều sai lầm trong hoạch định chính sách; nhưng tôi dám chắc đây là một trong số ít các sai lầm đó.

Chúng tôi chắc chắn không gặp phải vấn đề tương tự như của Thái Lan ở nước Nga. Mỹ đã hỗ trợ nền kinh tế Nga ngay từ năm đầu tiên tôi giữ chức tổng thống, và chúng tôi đã đóng góp một phần ba trong khoản vay 23 tỉ đôla của IMF vào tháng 7. Thật không may, 5 tỉ đôla đầu tiên từ khoản vay trên ngay sau khi giải ngân đã không cánh mà bay chỉ trong một đêm khi đồng rúp bị mất giá và người Nga bắt đầu phải chuyển một số lượng lớn đồng tiền của mình ra nước ngoài.

Những vấn đề của nước Nga còn trầm trọng hơn với chính sách gây lạm phát tắc trách của Ngân hàng Trung ương, còn Viện Duma lại từ chối tạo dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả. Mức thuế là cao thậm chí quá cao, nhưng hầu như chẳng ai chịu nộp thuế.

Ngay sau khi từ Vườn nho Martha về, Hillary và tôi đi thăm ngắn ngày tới Nga và Bắc Ireland cùng với Madeleine Albright, Bill Daley Bill Richardson và một phái đoàn các nghị sĩ lưỡng đảng. Đại sứ Jim Collins mời nhóm những người đứng đầu Viện Duma tới dinh thự của ông, Spaso House. Tôi hết sức cố gắng thuyết phục họ rằng không một quốc gia nào có thể tránh khỏi những quy luật của nền kinh tế toàn cầu, và nếu muốn nhận được những khoản vay và đầu tư nước ngoài nước Nga phải tổ chức thu thuế, chấm dứt ngay việc in tiền để trang trải chi phí, và đóng cửa ngay các ngân hàng nào phải bù lỗ, tránh tồn đọng vốn, và thanh toán các khoản nợ. Tôi nghĩ tôi không tạo được nhiều biến chuyển gì mấy.

Cuộc gặp gỡ lần thứ 15 giữa tôi với Boris Yeltsin diễn ra tốt đẹp nhất trong mức có thể trong bối cảnh ông ấy đang gặp nhiều rắc rối đến vậy. Những người Cộng sản và dân tộc cực đoan đã ngăn cản đề nghị cải tổ của ông ở Duma. Ông cố gắng tạo ra một hệ thống thu thuế hiệu quả hơn bằng các biện pháp hành pháp, nhưng ông vẫn không thể ngăn Ngân hàng Trung ương tiếp tục in quá nhiều tiền, càng gây ra chuyển dịch vốn từ đồng rúp sang những đồng tiền ổn định hơn, vừa cản trở tín dụng và đầu tư nước ngoài. Lúc này, tôi chỉ có thể khích lệ ông ấy và nói rằng phần còn lại của khoản vay từ IMF sẽ được trao cho Nga ngay khi số tiền này có thể tạo ra sự khác biệt. Nếu chúng tôi giải ngân ngay, khoản tiền dó sẽ nhanh chóng biến mất như lần đầu tiên.

Chúng tôi cũng ra được một tuyên bố tích cực, trong đó mỗi nước sẽ cắt giảm khoảng 50 tấn plutonium trong chương trình hạt nhân của mình - khôi lượng đủ để chế tạo hàng nghìn quả bom - và chuyển số vật liệu này thành vật liệu không thể chế tạo vũ khí trong tương lai. Khi mà các nhóm khủng bô và các quốc gia thù địch đang nhòm ngó khối nguyên liệu chê tạo hạt nhân, việc cắt giảm trên là bước đi quan trọng để cứu vô số mạng người.

Sau bài diễn văn trước quốc hội mới của Bắc Ireland ở Belfast, trong đó tôi kêu gọi các thành viên tiếp tục áp dụng Thỏa ước ngày thứ Sáu tốt lành, Hillary và tôi cùng Tony và Cherrie Blair, George Mitchell và Ngoại trưởng Anh đặc trách về Bắc Ireland là Mo Mowland tới Omagh để gặp gỡ gia đình nạn nhân của vụ đánh bom. Tony và tôi phát biểu những lời tốt đẹp nhất có thể, sau đó tất cả chúng tôi gặp các gia đình nạn nhân, lắng nghe những câu chuyện của họ, gặp lũ trẻ mặt còn hằn những vết sẹo, và ngưỡng mộ quyết tâm sắt đá của các nạn nhân nhằm duy trì tiến trình hòa bình. Trong thời kỳ đen tối, ai đó đã vẽ lên tường một câu hỏi đầy khiêu khích "Có được sống hay không trước khi chết?". Người Ireland vẫn nói "có" ngay trong bối cảnh chém giết tàn bạo ở Omagh.

Trước khi đi Dublin, chúng tôi và gia đình Thủ tướng Blair cùng tham dự Cuộc tập hợp vì hòa bình ở Armagh, từ nơi này Thánh Patrick đã truyền bá đạo Cơ đốc ra khắp Ireland và giờ đây đã trở thành trung tâm tinh thần ở Bắc Ireland cho cả tín đồ Thiên Chúa giáo và Tin Lành. Tôi gặp một cô gái 17 tuổi rất dễ thương, Sharon Haughey. Hồi 14 tuổi, chính cô đã viết thư cho tôi yêu cầu tôi giúp chấm dứt chiến tranh bằng một giải pháp đơn giản: "Cả hai bên đều bị tổn thương. Cả hai bên đều cần phải tha thứ".

Ở Dublin, Bertie Ahern và tôi nói chuyện với báo giới sau cuộc gặp mặt. Một phóng viên Ireland hỏi: "Thường ông phải đến thăm thì tiến trình hòa bình mới lại được thúc đẩy. Vậy chúng tôi có cần phải gặp lại ông nữa không đây?". Tôi đáp rằng vì lợi ích của họ, tôi hy vọng là không, còn vì lợi ích của tôi, tôi hy vọng là có. Sau đó Bertie nói là phản ứng nhanh của tôi đối với bi kịch ở Omagh đã kích động các bên liên quan nhanh chóng ra quyết định mà "lẽ ra phải mất hàng tuần và hàng tháng". Mới chỉ hai ngày trước, Martin McGuinness, nhà đàm phán chính của Sinn Fein đã tuyên bố rằng ông ta sẽ giúp quan sát quá trình chấm dứt sử dụng vũ trang cho Sinn Fein. Martin chính là trợ lý cao cấp của Gerry Adams và bản thân ông ta cũng là một quyền lực lớn. Tuyên bố này gửi đến David Trimble và những người của phe Hợp nhất một thông điệp rằng đối với Sinn Fein và IRA, bạo lực, như Adams từng nói, "là quá khứ, đã hết, đã kết thúc, và đã chết". Trong cuộc gặp riêng, Bertie Ahern nói với tôi là, sau Omagh, IRA đã cảnh báo với nhóm li khai IRA Thực thụ (Real IRA) rằng nếu họ còn lặp lại hành động như ở Omagh thì chuyện cảnh sát Anh truy lùng họ sẽ chỉ như trò trẻ thôi. (Ý nói Real IRA sẽ gặp rắc rối hơn nhiều từ chính IRA - ND).

Câu hỏi đầu tiên tôi nhận được từ một phóng viên người Mỹ là về phản ứng của tôi trước lời chỉ trích gay gắt của người bạn lâu năm là Joe Lieberman, dành cho tôi tại thượng viện trước đó một ngày. Tôi trả lời: "Tôi đồng ý với những gì anh ấy nói... Tôi đã sai trầm trọng không thể biện minh, không thể bào chữa, và tôi thật sự lấy làm tiếc". Một sô nhân viên của tôi bực tức vì Joe công kích tôi trong lúc tôi đang ở nước ngoài, nhưng tôi thì không. Tôi biết ông ấy là một người sùng đạo thực sự, ông nổi giận trước những việc tôi đã làm, nhưng ông cũng đã thận trọng tránh không nói rằng tôi đáng bị truất phế.

Điểm dừng chân cuối cùng của chúng tôi ở Ireland là Limberick, nơi 50.000 người ủng hộ hòa bình đổ xuống đường, trong đó có cả người thân của một thành viên trong đoàn chúng tôi, nghị sĩ Peter King của New York. Peter King đã đưa mẹ về quê để góp mặt vào sự kiện này. Tôi nói với đám đông rằng bạn tôi, Frank McCourt, đã hình tượng hóa một Limberick trước kia trong cuốn Angela's Ashes, nhưng tôi vẫn thích diện mạo mới của thành phố hơn.

Ngày 9 tháng 9, Ken Starr đệ trình bản báo cáo dày 445 trang lên quốc hội, viện dẫn ra 11 điểm mà ông ta cho rằng có thể truất phế tôi. Ngay cả đối với đủ các thứ tội trong vụ Watergate, Leon Jaworsky cũng không làm đến như vậy. Luật sư độc lập phải báo cáo quốc hội những phát hiện của mình nếu tìm ra bằng chứng "đầy đủ và đáng tin cậy" để truất phế tổng thống; quốc hội ra quyết định có hay không có cơ sở để truất phế. Bản báo cáo của Starr được công bố ngày 11, còn bản báo cáo của Jaworski không bao giờ được công bố. Trong báo cáo của Starr, từ "tình dục" xuất hiện hơn 500 lần; từ Whitewater được nhắc đến hai lần. Ông ta và cộng sự cho rằng họ có thể giặt sạch toàn bộ tội lỗi trong bôn năm qua của họ trong đông quần áo bầy hầy của tôi.

Ngày 10 tháng 9, tôi triệu tập nội các tới Nhà Trắng và nói lời xin lỗi họ. Nhiều người không biết phải nói gì. Họ tin tưởng vào việc chúng tôi đang làm và đánh giá cao cơ hội phục vụ đất nước mà tôi đã dành cho họ, nhưng hầu hết cho là tôi đã ích kỷ và ngu ngốc, và để mặc họ chới với trong suốt tám tháng. Madeleine Albright nói trước tiên, rằng tôi đã làm một việc sai trái và bà rất thất vọng, nhưng lựa chọn duy nhất là quay lại với công việc. Donna Shalala còn gay gắt hơn, nói rằng đối với người lãnh đạo, việc làm người tốt cũng quan trọng như có những chính sách tốt. Những người bạn lâu năm của tôi, James Lee Witt và Rodney Slater, nói về sức mạnh của sự hối cải và trích dẫn Kinh thánh. Bruce Babbitt, một tín đồ Thiên Chúa giáo, lại nói về quyền năng của xưng tội. Carol Browner nói cô ấy đã buộc phải nói với cậu con trai về những đề tài mà cô ấy không bao giờ nghĩ sẽ phải trao đổi với nó.

Trong khi lắng nghe nội các của tôi, lần đầu tiên tôi thực sự hiểu giới hạn mà sự phơi bày hành động sai trái và sự thiếu trung thực về lỗi lầm đó của tôi đã mở tung chiếc hộp Pandora chứa đựng cảm xúc sâu kín của người Mỹ. Thật dễ dàng nói rằng tôi phải nếm trải quá nhiều trong sáu năm qua, rằng cuộc thẩm tra của Starr thật tồi tệ và vụ kiện của Jones là vu cáo và có động cơ chính trị; cũng thật dễ dàng khi nói rằng cuộc sống riêng tư của một tổng thống cần phải được coi là riêng tư. Nhưng một khi những gì tôi đã làm bị phơi bày ra với đủ vẻ xấu xí của nó, đánh giá của mọi người chắc chắn phản ánh kinh nghiệm cá nhân của riêng họ, bị hằn vết không chỉ bởi những quan niệm, mà còn bởi sự sợ hãi, thất vọng và những tổn thương của chính họ.

Phản ứng trung thực và rất khác nhau trong nội các cho tôi một cảm giác rõ ràng về những gì người ta nói với nhau trên toàn nước Mỹ. Trong khi phiên điều trần truất phế sắp đến gần, tôi nhận được rất nhiều thư từ của bạn bè và cả những người không quen biết. Một số lá thư gửi tôi những lời ủng hộ và khích lệ rất cảm động; một số kể cho tôi nghe những câu chuyện về thất bại và hồi phục của chính họ; một số người khác tỏ ra vô cùng giận dữ trước hành động của Starr; một số người lên án hành động của tôi và họ thực sự thất vọng; và vẫn có những người pha trộn tất cả suy nghĩ đó. Đọc thư của họ giúp tôi hiểu rõ cảm xúc của mình, và giúp tôi nhớ rằng nếu muốn được tha thứ, trước tiên tôi phải tha thứ.

Bầu không khí trong Phòng Bầu dục Vàng vẫn gượng gạo và căng thẳng cho đến khi Bob Rubin lên tiếng. Rubin là người duy nhất trong phòng thực sự hiểu cuộc sống của tôi trong bốn năm qua. Anh từng trải qua một cuộc điều tra mệt mỏi của với công ty Goldman Sachs va chứng kiến một cộng sự của mình bị còng tay đưa đi trước khi anh được chứng minh là trong sạch. Sau khi một vài người khác có ý kiến Rubin nói, với thái độ thẳng thắn đặc trứng, "Không còn nghi ngờ gì nữa, anh đã sai. Nhưng chúng ta ai chẳng có lỗi lầm, thậm chí là những lỗi lầm rất lớn. Theo tôi, vấn đề lớn hơn ở đây là sự mất cân đối giữa việc báo chí đưa tin và thái độ đạo đức giả của một số người chỉ trích anh". Bầu không khí trở nên dễ chịu hơn sau những lời đó. Tôi rất biết ơn vì mọi người đã không từ chức. Tất cả chúng tôi trở lại với công việc.

Ngày 15 tháng 9, tôi thuê Greg Craig, một luật sư giỏi và là bạn cũ của Hillary và tôi ở trường luật, cùng làm việc với Chuck Ruff, David Kendall, Bruce Lindsey, Cheryl Mills, Lanny Breuer và Nicole Seligman trong nhóm biện hộ cho tôi. Ngày 18, đúng như tôi dự đoán, ủy ban Tư pháp hạ viện đã bỏ phiếu theo đảng phái quyết định công khai đoạn băng ghi lại phiên đối chứng của tôi trước đại bồi thẩm đoàn.

Vài ngày sau, Hillary và tôi tổ chức bữa sáng thường niên dành cho những người đứng đầu tôn giáo tại Nhà Trắng. Chúng tôi thường thảo luận về những mối quan tâm chung của công chúng. Lần này, tôi yêu cầu họ cầu nguyện cho tôi trong giai đoạn khó khăn này:

Trong những tuần gần đây, tôi đang thực hiện một chuyến đi tới tận cùng của việc này, tới sự thật đầy chông gai xem tôi là ai, và tất cả chúng ta là ai. Tôi đồng ý với những người nói rằng tôi chưa tỏ ra ăn năn đúng mức trong tuyên bố đầu tiên của tôi sau lần làm chứng. Tôi nghĩ chẳng có cách nào dễ chịu để thừa nhận rằng tôi đã mắc tội.

Tôi nói tôi xin lỗi tất cả những người đã chịu đau đớn vì tôi - gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nội các của tôi, Monica Lewinsky và gia đình cô ấy; tôi mong họ tha thứ; và tôi tham vấn các mục sư và những người khác để tìm, với sự chỉ dẫn của Chúa, "một thiện ý tha thứ mà tôi đang tìm kiếm, từ bỏ niềm kiêu hãnh và sự cáu giận có thể che mờ óc phán xét, khiến con người ta phải thoái thác, so đo, đổ lỗi và phàn nàn". Tôi cũng nói rằng tôi sẽ dựng một thành lũy vững chắc để đối phó với những lời buộc tội chống lại tôi và sẽ nỗ lực hơn nữa để làm tốt công việc của mình "hy vọng rằng với một tinh thần đã bị tan vỡ, nhưng trái tim vẫn còn sức mạnh, tôi vẫn còn rất hữu dụng".

Tôi đề nghị các mục sư đến khuyên nhủ tôi ít nhất một lần trong tháng trong thời gian vô hạn định: Phil Wogaman, mục sư của chúng tôi ở nhà thờ Giám lý Foundry; bạn tôi, Tony Campolo và Gordon MacDonald, mục sư và cũng là tác giả của một vài cuốn sách tôi đã từng đọc về việc sống đạo. Từ đó trở đi, họ thực hiện cam kết một cách tuyệt vời, thường xuyên đến Nhà Trắng, lúc thì cùng nhau, lúc thì riêng lẻ. Chúng tôi sẽ cầu nguyện, đọc Kinh thánh và cùng thảo luận về những điều trước đây tôi chưa bao giờ nói đến. Mục sư Bill Hybels từ Chicago cũng tiếp tục đến Nhà Trắng thường xuyên, và đặt ra những câu hỏi tìm hiểu được thiết kế để "khám sức khỏe tinh thần" của tôi. Mặc dù họ thường tỏ ra nghiêm khắc đối với tôi, nhưng các mục sư đã đưa tôi vượt qua chính trị đến với việc khám phá tâm hồn mình và sức mạnh tình yêu của Chúa.

Hillary và tôi cũng bắt đầu tham gia tư vấn gia đình nghiêm túc, mỗi tuần một ngày trong khoảng một năm. Lần đầu tiên trong đời, tôi nói chuyện thật sự cởi mở về những cảm giác, trải nghiệm và quan điểm của mình về cuộc sống, tình yêu và bản chất các mối quan hệ. Không phải lúc nào tôi cũng thích những gì khám phá được về chính bản thân và quá khứ của mình, tôi đau đớn khi phải đối diện với thực tế rằng tuổi thơ của tôi và phần đời tôi đã sống từ khi trưởng thành khiến cho một số việc vốn rất tự nhiên với người khác, lại thành rất khó khăn đối với tôi.

Tôi cũng dần hiểu ra rằng khi tôi kiệt sức, cáu giận, cảm thấy bị cô lập, hay cô đơn, tôi rất dễ gây ra những lỗi lầm ích kỷ và tự hủy hoại bản thân để rồi sau đó tôi lại vô cùng hổ thẹn. Chuyện gây ồn ào hiện tại là hậu quả mới nhất của nỗ lực cả đời của tôi khi phải sống một cuộc đời hai mặt, che giấu cơn giận và nỗi đau bên trong mà vẫn tiếp tục cuộc sống ngoài mặt, cuộc sống mà tôi đã yêu và sống tốt. Trong thời gian chính phủ tạm dừng hoạt động, tôi tham gia vào hai cuộc chiến khổng lồ: một cuộc chiến công khai với quốc hội về tương lai của đất nước và một cuộc chiến riêng tư để tránh xa quỷ dữ. Tôi đã chiến thắng trong cuộc chiến công khai và thất bại trong cuộc chiến riêng tư

Làm như vậy, tôi không chỉ gây đau đớn cho gia đình tôi và những cộng sự của tôi, mà còn phá hoại uy danh cương vị tổng thống và cả người dân Mỹ. Dù áp lực đè lên tôi nặng nề bao nhiêu, đáng lẽ ra tôi phải mạnh mẽ hơn và cư xử tốt hơn.

Không có bất cứ lời bào chữa nào cho hành động tôi đã gây ra nhưng lặn lội tìm hiểu rõ vì sao tôi lại làm như vậy ít nhất cũng cho tôi cơ hội thống nhất hai cuộc sống song song của mình.

Trong những buổi tham vấn dài và những cuộc trò chuyện của chúng tôi sau đó, Hillary và tôi cũng hiểu thêm về nhau, vượt trên cả công việc hay những ý tưởng chúng tôi cùng chia sẻ và cả đứa con chúng tôi cùng yêu quí. Tôi đã từng yêu cô ấy rất nhiều, nhưng không phải lúc nào cũng thể hiện yêu một cách tốt đẹp với cô ấy. Tôi rất cảm ơn cô ấy đã đủ dũng cảm để cùng tôi tham vấn. Chúng tôi vẫn là những người bạn tốt nhất của nhau, và tôi hy vọng chúng tôi có thể cứu vãn cuộc hôn nhân.

Trong khi đó, tôi vẫn ngủ trên ghế sofa trong phòng khách nhỏ sát với phòng ngủ. Tôi ngủ trên chiếc ghế cũ kỹ này trong khoảng hai tháng hoặc hơn. Tôi đã đọc, suy ngẫm và làm việc rất nhiều, và chiếc sofa cũng rất thoải mái. Nhưng tôi hy vọng mình sẽ không phải ngủ ở đó vĩnh viễn.

Khi phe Cộng hòa tăng cường chỉ trích tôi, những người ủng hộ tôi bắt đầu lên tiếng. Ngày 11 tháng 9, 800 người Mỹ gốc Ireland tụ tập tại Bãi cỏ phía Nam khi Brian O'Dwyer trao cho tôi phần thưởng mang tên người cha quá cố của ông, Paul, cho vai trò của tôi trong tiến trình hòa bình Ireland. Bài diễn văn của Brian và phản ứng của đám đông thể hiện rõ vì sao họ lại thực sự có mặt ở đó.

Một vài ngày sau, Václav Havel thăm chính thức Hoa Kỳ và nói với báo giới rằng tôi là "người bạn vĩ đại" của ông. Khi báo chí tiếp tục đặt những câu hỏi xung quanh khả năng bãi nhiệm, từ chức hay có phải tôi đã không còn đạo đức để nắm quyền lãnh đạo hay không, Havel nói rằng nước Mỹ có nhiều khuôn mặt khác nhau: "Tôi yêu thích hầu hết những khuôn mặt đó. Nhưng có một sô khuôn mặt tôi không hiểu. Và tôi không thích nói về những thứ tôi không hiểu".

Năm ngày sau, tôi tới New York tham dự phiên khai mạc đại hội đồng Liên hiệp quốc và có bài diễn văn về trách nhiệm chung chống khủng bố của toàn thế giới: không ủng hộ, không cho cư trú và không hỗ trợ tài chính; gây áp lực đối với các chính phủ nào ủng hộ khủng bố; tiến tới dẫn độ và khởi tố; ký kết các hiệp ước toàn cầu về chống khủng bố và tăng cường cũng như thực thi các hiệp ước khác nhằm bảo vệ chúng ta trước những vũ khí sinh học và hoá học; kiểm soát việc chế tạo và xuất khẩu chất nổ; nâng cao tiêu chuẩn quốc tế về an ninh tại các sân bay; và chiến đấu chống lại những điều kiện nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố. Đó là một bài diễn văn quan trọng, đặc biệt tại thời điểm bấy giờ, nhưng các đại biểu trong hội trường rộng và sâu của đại hội đồng dường như cũng đang suy ngẫm về cả vụ việc ở Washington. Khi tôi đứng lên đọc diễn văn, họ đồng loạt đứng hết lên và vỗ tay giòn giã và kéo dài. Điều này thật lạ lẫm đối với một Liên hiệp quốc trầm lắng và tôi cảm động tận đáy lòng. Tôi không dám chắc hành động chưa có tiền lệ đó biểu hiện sự ủng hộ đôi với tôi hay phản đối những gì đang diễn ra ở quốc hội. Khi tôi đang phát biểu tại Liên hiệp quốc về chủ nghĩa khủng bố, tất cả hệ thống truyền hình đang phát đi cuốn băng hình ghi lại phiên đôi chứng của tôi trước đại bồi thẩm đoàn.

Ngày hôm sau, tại Nhà Trắng, tôi tổ chức bưổi lễ đón tiếp Nelson Mandela và những nhà lãnh đạo tôn giáo người Mỹ gốc Phi. Đây là ý tưởng của ông ấy. Quốc hội đã bỏ phiếu quyết định trao tặng cho ông Huân chương vàng của quốc hội và ông ấy sẽ đón nhận vào ngày hôm sau. Mandela gọi cho tôi nói rằng ông nghi thời điểm nhận huân chương không phải ngẫu nhiên: "Là tổng thống của Nam Phi, tôi không thể từ chối phần thưởng này. Nhưng tôi muốn đến sớm hơn một ngày để nói với người Mỹ suy nghĩ của tôi về những gì quốc hội đang làm đối với ông". Và ông ấy làm đúng như thế. Ông nói chưa từng chứng kiến một màn chào đón nào như tôi đã nhận được tại Liên hiệp quốc, rằng thế giới này cần tôi, và những kẻ chống đối hãy đê cho tôi yên. Các mục sư vỗ tay nhất trí.