← Quay lại trang sách

Chương 49 (tt)

Dù Mandela đã rất giỏi, nhưng mục sư Bernice King, con gái của Martin Luther King Jr., mới là người nổi bật nhất. Bà nói rằng ngay cả những nhà lãnh đạo vĩ đại cũng có lúc mắc phải sai lầm nghiêm trọng; rằng Vua David đã từng làm một điều còn tồi tệ hơn tôi nhiều lần khi sắp đặt cái chết trên chiến trường của người lính cận vệ trung thành, chồng của Bathsheba, để ông ta có thể kết hôn với nàng; và rằng David phải đền tội và đã bị trừng phạt. Không ai biết Bernice muốn nói gì cho đến khi bà kết luận: "Đúng vậy, David đã phạm phải một tội ác tày trời và Chúa đã trừng phạt ông ta. Nhưng David vẫn là vua".

Trong khi đó, tôi tiếp tục làm việc, thúc đẩy kế hoạch gây quỹ hiện đại hoá và xây dựng trường học ở Maryland, Florida và Illinois; trò chuyện với Hiệp hội Nông dân Quốc gia về nông nghiệp; đọc bài diễn văn quan trọng về hiện đại hóa hệ thống tài chính toàn cầu tại Hội đồng Quan hệ Quốc tế; gặp gỡ Hội đồng Tham mưu Liên quân để chuẩn bị các lực lượng vũ trang sẵn sàng; cổ động ủng hộ việc đòi tăng lương tối thiểu tại Tổ chức Ái hữu công nhân ngành điện; tiếp nhận bản báo cáo cuối cùng của ủy ban Cố vấn Tổng thống về Chủng tộc từ John Hope Franklin; đối thoại với Tony Blair, Thủ tướng Ý Romano Prodi, và Tổng thống Bulgaria Peter Stoyanov về khả năng áp dụng ở các nước khác lý thuyết "Con đường thứ Ba" mà Tony Blair và tôi theo đuổi; tổ chức cuộc gặp đầu tiên với thủ tướng mới của Nhật Bản Keizo Obuchi; đưa Netanyahu và Arafat tới Nhà Trắng trong nỗ lực nhằm thúc đẩy tiến trình hòa bình; và góp mặt trong hàng chục sự kiện vận động của đảng Dân chủ tại sáu tiểu bang và thủ đô Washington.

Ngày 30 tháng 9, ngày cuối cùng của năm tài khóa, tôi tuyên bố thặng dư ngân sách vào khoảng 70 tỉ đôla, lần đầu tiên trong vòng 29 năm trở lại đây. Mặc dù báo giới vẫn chỉ tập trung vào bản báo cáo của Starr, nhưng vẫn luôn có rất nhiều thứ khác cần giải quyết. Tôi quyết tâm không để việc công bị đình trệ, và tôi rất biết ơn các nhân viên Nhà Trắng và nội các vì họ cũng cảm thấy như vậy. Bất kể tin tức trên nhật báo như thế nào, họ vẫn tiếp tục công việc của mình.

Tháng 10, phe Cộng hòa tại hạ viện do Henry Hyde đứng đầu và những cộng sự của ông ta ở ủy ban Tư pháp tiếp tục hối thúc việc bãi nhiệm tôi. Trong khi đó, những người Dân chủ trong hội đồng, đứng đầu là John Conyer bang Michigan chiến đấu ác liệt, lập luận rằng gay cả khi cáo buộc truất phế chống lại tôi là sự thực đi nữa thì vẫn chưa đến mức là "tội ác và không thể chấp nhận" như Hiến pháp quy tinh để bãi nhiệm. Phe Dân chủ đúng về luật pháp, nhưng phe Cộng lòa lại thắng trong cuộc bỏ phiếu; ngày 8 tháng 10, hạ viện bỏ phiếu án thành mở cuộc điều tra tôi có đáng bị bãi nhiệm hay không. Tôi không lấy làm ngạc nhiên; chỉ còn một tháng nữa là đến cuộc bầu cử nữa nhiệm kỳ, và đảng Cộng hòa vẫn tiến hành chiến dịch một mục tiêu: hạ gục Clinton. Tôi tin rằng, sau cuộc bầu cử, những người Cộng nòa ôn hòa sẽ nhìn vào thực tế và pháp luật và lại ra quyết định không bãi nhiệm, đổi lại bằng phê bình hoặc khiển trách - đó cũng là những biện pháp trừng phạt đối với Newt Gingrich khi báo cáo sai và vi phạm trắng trợn luật thuế.

Nhiều quan sát viên dự đoán phe Dân chủ sẽ gặp thảm họa. Theo hiểu biết thông thường thì chúng tôi sẽ mất từ 25 đến 35 ghế trong hạ viện và từ bốn đến sáu ghế trong thượng viện sau vụ rắc rối vừa rồi. Hầu hết người dân Washington đều có thể dự đoán như vậy. Đảng Cộng hòa có nhiều hơn đảng Dân chủ 100 triệu đôla để chi tiêu; và số người phe Dân chủ tái tranh cử trong thượng viện nhiều hơn số người phe Cộng hòa. Trong số ghế đang tranh đua tại thượng viện, đảng Dân chủ gần như đã nắm được bang Indiana, nơi ứng cử viên là Thống đốc Evan Bayh, trong khi Thống đốc Ohio George Voinovich dường như đã giành được ghế do John Glenn bỏ lại cho đảng Dân chủ. Như vậy còn bảy ghế, trong đó đảng Dân chủ đang sở hữu năm, còn đảng Cộng hòa chỉ có hai.

Tôi không đồng ý với dự đoán thông thường bởi một vài lí do. Thứ nhất, đa số người dân Mỹ không tán thành cách cư xử của Starr và rất giận dữ về việc các nghị sĩ Cộng hòa chú tâm vào công kích tôi nhiều hơn giúp họ. Có tới 80% phản đối việc công khai cuốn băng ghi hình phiên điều trần của tôi, và tỉ lệ ủng hộ tổng thể đối với quốc hội đã sụt giảm đáng kể xuống còn 43%. Thứ hai, giống như lần "Hợp đồng với nước Mỹ" của Gingrich hồi năm 1994, nếu dân chúng tin một đảng phái có chương trình nghị sự khả quan trong khi đảng kia không có chương trình nào, thì đảng có chương trình sẽ giành chiến thắng. Đảng Dân chủ đã thống nhất lại bằng một chương trình giữa nhiệm kỳ lần đầu tiên trong lịch sử: tiết kiệm cho Quỹ an ninh xã hội trước khi sử dụng khoản thặng dư vào các chương trình mới hay cắt giảm thuế; đưa thêm 100.000 giáo viên vào trường học; hiện đại hoá trường học cũ và xây mới; tăng lương tối thiểu; và thông qua Đạo luật về Quyền của Bệnh nhân. Sau cùng, đa số người Mỹ phản đối bãi nhiệm tôi; nếu đảng Dân chủ thực thi kế hoạch của mình và phản đối bãi nhiệm, tôi cho rằng họ thực sự có thể chiến thắng tại hạ viện.

Tôi tổ chức một vài sự kiện chính trị vào đầu và cuối tháng 10, hầu hết diễn ra gần Washington và đặt trọng tâm vào những vấn đề các ứng cử viên của chúng tôi đang nhấn mạnh. Ngoài ra, gần như cả tháng trời còn lại, tôi dành cho công việc. Có một núi việc phải làm, mà quan trọng nhất là liên quan đến Trung Đông. Madeleine Albright và Dennis Ross đã phải lao động miệt mài trong suốt cả tháng để đưa tiến trình hòa bình trở lại, và cuối cùng Madeleine Albright cũng thu xếp cho Arafat và Netanyahu gặp nhau khi cả hai tới New York tham dự phiên họp của đại hội đồng Liên hiệp quốc. Chưa ai sẵn sàng bước tiếp hoặc muốn bị cử tri trong nước coi là thoả hiệp quá nhiều, nhưng cả hai đều quan ngại rằng, diễn biến ngày càng xấu đi có thể dễ dàng vượt ra ngoài tầm kiểm soát, đặc biệt là khi Hamas phát động các đợt tấn công dữ dội mới.

Ngày hôm sau, hai nhà lãnh đạo tới Washington gặp tôi, và tôi trình bày kế hoạch đưa họ trở lại Hoa Kỳ trong một tháng để cùng soạn thảo một thỏa thuận. Trong thời gian tạm thời, Madeleine tới Trung Đông để gặp họ. Họ gặp nhau tại khu vực biên giới giữa Israel và Gaza, sau đó Arafat cùng họ tới nhà khách để dùng bữa trưa, khiến Netanyahu, một người kiên định lập trường, trở thành thủ tướng đầu tiên của Israel đặt chân lên phần đất Gaza của người Palestine.

Cuộc gặp mất hàng tháng trời chuẩn bị. Cả hai bên đều muốn Hoa Kỳ cùng tham gia trong quyết định khó khăn này và cùng tin rằng kịch tính của sự kiện này có thể giúp họ thuyết phục trong nước đồng ý với thỏa thuận này. Tất nhiên, trong bất kỳ cuộc họp cấp cao nào cũng có rủi ro là hai bên không thể đạt được một thỏa thuận, và nỗ lực thu hút sự quan tâm của công chúng có thể làm hỏng tất cả những thứ liên quan. Nhóm phụ trách an ninh quốc gia của tôi đã lo ngại về khả năng thất bại và những hậu quả của nó. Cả Arafat và Netanyahu đều công khai bày tỏ quan điểm cứng rắn của mình, và Bibi chứng minh cho lời nói của ông bằng cách bổ nhiệm Ariel Sharon, người có lập trường cứng rắn nhất trong số các nhà lãnh đạo đảng Likud, làm ngoại trưởng. Sharon đã từng ám chỉ hiệp định hòa bình năm 1993 là "sự tự sát dân tộc" đối với Israel. Không thể biết được Netanyahu đang trao cho Sharon quyền đổ lỗi cho ai nếu cuộc gặp thất bại hay tự tạo cho mình một vỏ bọc tốt đẹp nếu cuộc gặp thành công.

Tôi nghĩ rằng cuộc gặp lần này là một sáng kiến hay và tôi rất hào hứng tổ chức. Tôi thấy chúng tôi không có gì nhiều để mất, và tôi thà nỗ lực rồi thất bại hơn là vì sợ thất bại mà không hành động.

Ngày 15, chúng tôi bắt đầu ở Nhà Trắng, sau đó các phái đoàn chuyển tới Trung tâm Hội nghị sông Wye ở Maryland. Ở đây rất phù hợp với nhiệm vụ: khu vực gặp gỡ công khai và dùng bữa thật tiện nghi, còn khu nhà ở thì được sắp đặt để tất cả các thành viên trong mỗi phái đoàn đều được ở cùng nhau và cách xa các đoàn khác một cách thích hợp.

Ban đầu, chúng tôi định gặp gỡ trong bốn ngày; cuộc gặp cần kết thúc hai ngày trước khi Netanyahu trở về Israel khai mạc phiên họp mới của Knesset. Chúng tôi tán thành với những quy định thông thường: không bên nào bị ràng buộc bởi những thỏa thuận tạm thời đối với những vấn đề cụ thể cho đến khi đạt được một hiệp định cuối cùng, mà Mỹ soạn thảo. Tôi nói với họ là tôi sẽ cố gắng hết mức tham gia quá trình đàm phán, nhưng tôi phải về Nhà Trắng trong đêm dù muộn thế nào đi nữa bằng máy bay trực thăng, để sáng hôm sau vẫn làm việc ở văn phòng, ký duyệt các điều luật và tiếp tục đàm phán với quốc hội về luật ngân sách. Chúng tôi đã bước sang năm tài khóa mới, nhưng chưa tới một phần ba trong số 13 dự luật phân bổ ngân sách được thông qua và ký thành luật. Những lính thuỷ đánh bộ điều khiển chiếc HMX1, trực thăng dành cho tổng thống, đã hoàn thành nhiệm vụ rất xuất sắc trong tám năm, và họ tỏ ra đặc biệt vô giá trong suốt thời gian diễn ra hội nghị ở sông Wye, luôn sẵn sàng đưa tôi trở về Nhà Trắng lúc hai hoặc ba giờ sáng sau các phiên họp muộn.

Trong bữa tối đầu tiên, tôi hối thúc Arafat và Netanyahu cùng nghĩ cách giúp nhau xử lý các vấn đề đối nội của mỗi nước. Họ suy nghĩ và đàm phán trong suốt bốn ngày, nhưng kiệt sức vì cố gắng và vẫn chưa đạt đến thỏa thuận. Netanyahu nói với tôi rằng họ không thể thỏa thuận được mọi vấn đề và gợi ý một thỏa thuận từng phần: Israel sẽ rút quân khỏi 13% Bờ Tây và Palestine sẽ gia tăng hợp tác đáng kể về an ninh, tiếp theo một kế hoạch được Giám đốc CIA George Tenet giúp soạn thảo. George được cả hai bên tin cậy.

Chiều hôm đó, tôi có cuộc gặp riêng đầu tiên với Ariel Sharon. Vị tướng 70 tuổi này có mặt từ ngày đầu thành lập Israel và tham gia tất cả các cuộc chiến tiếp theo. Ông ta không được lòng người Ảrập không chỉ bởi thái độ thù địch đối với việc đổi đất lấy hòa bình, mà còn bởi vai trò của ông trong cuộc xâm lược Libăng của Israel năm 1982, trong đó nhiều người tị nạn Palestine không có vũ trang đã bị quân đội Libăng, đồng minh của Israel, sát hại. Trong suốt cuộc gặp kéo dài gần hai giờ đồng hồ, tôi hầu như chỉ đặt câu hỏi và lắng nghe. Không phải Sharon không cảm thông với tình cảnh khó khăn của người dân Palestine. Ông ta muôn giúp đỡ họ về kinh tế, nhưng không cho rằng từ bỏ khu Bờ Tây sẽ phục vụ lợi ích an ninh của Israel, cũng như không tin Arafat sẽ tuyên chiến với khủng bố. Ông là người duy nhất trong phái đoàn của Israel sẽ không bắt tay với Arafat. Tôi rất thích nghe Sharon kế về cuộc sống và quan điểm của ông, và khi kết thúc cuộc trò chuyện lúc ba giờ sáng, tôi đã hiểu nhiều hơn vì sao ông ta lại có những suy nghĩ như vậy.

Một điều làm tôi ngạc nhiên là ông ta nhiệt thành hối thúc tôi ân xá cho Jonathan Pollard, cựu chuyên gia phân tích tình báo của Hải quân Hoa Kỳ, bị buộc tội làm gián điệp cho Israel năm 1986. Cả Rabin và Netanyahu trước đó cũng đề nghị tôi phóng thích Pollard. Rõ ràng đó là một vấn đề trong nội bộ chính trị của Israel và công chúng Israel không cho rằng nước Mỹ cần phải trừng phạt Pollard nặng như vậy bởi ông ta chỉ bán những thông tin nhạy cảm cho một đồng minh của Mỹ. Câu chuyện này còn được đưa ra trước khi chúng tôi kết thúc đàm phán. Trong khi đó, tôi tiếp tục làm việc với các nhà lãnh đạo và đàm phán với các thành viên trong đoàn, trong đó có Bộ trưởng Quôc phòng Israel Yitzhak Mordechai; Cố vấn Cao cấp của Arafat, Abu Ala và Abu Mazen, cả hai sau này đều làm Thủ tướng Palestine; Saeb Erekat, trưởng đoàn đàm phán của Arafat; và Mohammed Dahlan, phụ trách an ninh 37 tuổi ở Gaza. Cả người Israel và Palestine đều là những nhóm rất đa dạng và ấn tượng. Tôi cố gắng dành thời gian tiếp xúc với tất cả mọi người; và khi họ chỉ có một mình trong phái đoàn riêng lẻ, không thể nói được ai trong số họ sẽ có ý kiến quyết định tới hòa bình.

Tối chủ nhật, khi chúng tôi không đạt được một sự đồng thuận, các bên đã đồng ký kéo dài thời gian đàm phán, và Al Gore tham gia cùng tôi để tăng thêm sức thuyết phục đối với nhóm làm việc của tôi, bao gồm Sandy Berger, Rob Malley, và Bruce Reidel của Nhà Trắng, và Ngoại trưởng Albright, Dennis Ross, Martin Indyk, Aaron Miller, Wendy Sherman và Tony Verstandig của Bộ Ngoại giao. Hàng ngày, họ thay phiên nhau làm việc với các đồng nhiệm người Israel và Palestine về các vấn đề khác nhau, luôn luôn tìm kiếm những tia sáng nhỏ có thể xuyên thủng đám mây mù.

Phiên dịch của Bộ Ngoại giao Gemal Helal cũng đảm nhiệm vai trò không thể thiếu trong cuộc đàm phán này và các cuộc khác. Thành viên của cả hai phái đoàn đều nói tiếng Anh, nhưng Arafat luôn bàn công việc bằng tiếng Ảrập. Gemal thường là người duy nhất có mặt trong phòng họp trong các cuộc đối thoại hai người giữa tôi và Arafat. Cậu ấy am hiểu Trung Đông và vai trò của từng thành viên trong phái đoàn Palestine trong các cuộc tranh luận, và Arafat rất thích cậu. Cậu ấy sẽ làm cố vấn trong nhóm làm việc của chúng tôi. Trong nhiều dịp, sự hiểu biết sâu sắc và mối quan hệ cá nhân của cậu ấy với Arafat là vô giá.

Thứ hai đầu tuần, tôi cảm thấy chúng tôi lại tiến triển. Tôi luôn hối thúc Netanyahu dành cho Arafat những lợi ích của hòa bình - đất đai, sân bay, hành lang an toàn giữa Gaza và khu Bờ Tây, một cảng biển ở Gaza - nhờ đó Arafat mới có đủ lực để chống khủng bố, và tôi cũng đề nghị Arafat không chỉ tăng cường nỗ lực đối với an ninh mà còn cần kêu gọi Hội đồng Nhà nước Palestine cùng nhau chính thức sửa đổi tuyên ngôn Palestine, gạt bỏ những ngôn từ kêu gọi tiêu diệt Israel. Hội đồng điều hành PLO bác bỏ chuyện sửa đổi đó, nhưng Netanyahu nghĩ rằng công dân Israel sẽ không bao giờ tin rằng họ có một đối tác vì hòa bình cho đến khi Cộng hòa Palestine bỏ phiếu tán thành xoá bỏ những ngôn từ công kích trong Tuyên ngôn. Arafat không muốn triệu tập họp hội đồng bởi ông ấy lo sợ sẽ không thể kiểm soát được hậu quả. Người dân Palestine trên toàn thế giới có quyền bỏ phiếu bầu ra các thành viên trong hội đồng, và rất nhiều người xa xứ không đồng tình với những thoả hiệp trong tiến trình hòa bình cũng như khả năng lãnh đạo của ông ấy; và những người Palestine đang sinh sống tại Gaza và Bờ Tây cũng có suy nghĩ tương tự.

Ngày 20, Vua Hussein và Hoàng hậu Noor tham gia cùng chúng tôi. Hussein đến Mỹ để chữa trị bệnh ung thư tại Bệnh viện Mayo. Tôi thông tin vắn tắt cho ông về tiến triển và trở ngại của chúng tôi. Mặc dù sức khỏe không được tốt do bệnh tật và hoá trị, Hussein nói ông ấy sẽ tới sông Wye nếu tôi nghĩ sự góp mặt của ông là cần thiết. Sau khi trò chuyên với Noor và bà khẳng định rằng ông ấy muốn tham gia, và rằng họ thấy thoải mái với bất cứ phòng khách nào chúng tôi đang có sẵn, tôi nói với Hussein là chúng tôi cần càng nhiều sự hỗ trợ càng tốt. Thật khó mà tả hết tầm ảnh hưởng của Hussein khi ông có mặt tại các cuộc đàm phán. Ông đã sụt cân khá nhiều và hóa trị làm ông bị rụng hết tóc, kể cả lông mày cũng không còn, nhưng trí tuệ và trái tim của ông vẫn còn rất cường tráng. Ông rất hữu dụng, ông trò chuyện thông minh với cả hai bên, mỗi khi có mặt ông là không còn giả dối và nhỏ nhen, như thường thấy trong những cuộc đàm phán kiểu này.

Ngày 21, chúng tôi chỉ đạt được một thỏa thuận về an ninh, và có vẻ như Netanyahu chỉ có thể ăn mừng sinh nhật lần thứ 49 của mình bằng cuộc đàm phán thất bại. Ngày hôm sau, tôi trở lại để tiếp tục kéo dài thương lượng. Sau khi hai bên đã gặp gỡ riêng trong hai giờ, họ đi đến một phương cách khéo léo khiến Hội đồng Nhà nước Palestine thay đổi điều khoản trong tuyên ngôn: tôi sẽ tới Gaza và đọc diễn văn trước hội đồng cùng với Arafat, người sau đó sẽ hỏi ý kiến ủng hộ bằng cách giơ tay, vỗ tay hay giậm chân. Mặc dù ủng hộ kế hoạch này, Sandy Berger vẫn cảnh báo đó là động thái đầy rủi ro cho tôi. Đúng là như thế, nhưng chúng ta đang đề nghị người Israel và người Palestine chấp nhận rủi ro còn lớn hơn nhiều; rốt cuộc tôi đồng ý.

Tối hôm đó, chúng tôi vẫn gặp vướng mắc đối với yêu cầu của Arafat đòi phóng thích một nghìn tù nhân Palestine khỏi nhà tù của Israel. Netanyahu tuyên bố không thể phóng thích các thành viên của Hamas và những kẻ "đã nhúng tay vào máu", và ông ta nghĩ số người được thả sẽ không nhiều hơn 500 người. Tôi biết chúng tôi đang ở thời điểm mang tính bước ngoặt nên đã mời Hussein tới gian phòng lớn nơi chúng tôi đang ăn tối để trò chuyện cùng cả hai phái đoàn. Khi ông bước vào phòng, vẻ vương giả của ông, đôi mắt sáng và lời lẽ giản dị dường như trùm lấp cơ thể ốm yếu. Bằng giọng nói trầm và vang, ông nói rằng lịch sử sẽ phán xét tất cả chúng ta, rằng sự khác biệt giữa các bên là rất tầm thường so với những lợi ích mà hòa bình đem lại, rằng họ phải giành lấy hòa bình cho con cái của họ. Thông điệp không nói ra cũng rõ ràng không kém: tôi không còn sống bao lâu nữa; các vị là người quyết định không để hòa bình chết yểu.

Sau khi Hussein đi ra, chúng'tôi tiếp tục, tất cả ngồi lại trong phòng khách và đến ngối vào các bàn khác nhau để tiếp tục thảo luận về rất nhiều vấn đề. Tôi nói với nhóm làm việc là chúng ta đã hết thời gian và tôi sẽ không đi ngủ. Chiến thuật đi đến thành công của tôi nay thu gọn lại thành sự chịu đựng; tôi quyết tâm là người cuối cùng ở lại. Netanyahu và Arafat cũng biết hoặc bây giờ hoặc không bao giờ. Họ và nhóm làm việc của họ ở lại với chúng tôi qua đêm dài.

Sau cùng, vào khoảng ba giờ sáng, tôi đưa ra một thỏa thuận về tù nhân với Netanyahu và Arafat, và chúng tôi tiếp tục đào xới cho đến khi kết thúc. Gần 7 giờ sáng, vẫn còn một trở ngại: Netanyahu đe dọa sẽ chỉ đẩy nhanh toàn bộ tiến trình trừ phi tôi phóng thích Pollard. Ông ấy nói tôi đã hứa với ông như vậy từ đầu cuộc gặp tối hôm trước, và đó chính là lý do ông ta chấp thuận những vấn đề khác. Thực ra, tôi nói với thủ tướng rằng nếu đó là những gì cần thiết để có hòa bình, tôi sẵn sàng nhưng tôi phải kiểm tra lại với người của tôi đã.

Cho dù Pollard nhận được sự cảm thông của người dân Israel, ở Mỹ vẫn khó mà phóng thích anh ta; anh ta đã bán bí mật quốc gia lấy tiền, không phải vì lý tưởng, và trong nhiều năm anh ta không hề tỏ ra ăn năn hối cải. Khi tôi trao đổi với Sandy Berger và George Tenet, họ nhất quyết phản đối thả Pollard, cả Madeleine Albright cũng vậy- George nói rằng, sau những tổn thất nặng nề mà CIA phải gánh chịư từ vụ Aldrich Ames, anh sẽ phải từ chức nếu tôi ra giảm án cho Pollard. Tôi không muốn làm việc đó, và ý kiến của Tenet đã khép lại vấn đề này. An ninh và những cam kết của Israel và Palestine cùng chống khủng bố là tâm điểm của bản thỏa thuận mà chúng ta vừa đạt được. Tenet giúp hai bên vạch ra những chi tiết và nhất trí rằng CIA sẽ ủng hộ việc thực thi quyết định này. Nếu Tenet ra đi, thì nhiều khả năng Arafat sẽ không tiếp tục đàm phán. Tôi cũng cần George trong cuộc chiến chống Al Qaeda và chủ nghĩa khủng bố. Tôi nói với Netanyahu rằng tôi sẽ xem xét lại trường hợp của Pollard một cách nghiêm túc và cố gắng làm việc với Tenet và nhóm phụ trách an ninh quốc gia, nhưng Netanyahu sẽ thuận lợi hơn với một thỏa thuận về an ninh mà ông có thể tin tưởng so với việc phóng thích Pollard.

Rốt cục, sau cuộc đàm phán cuối cùng, Bibi đồng ý duy trì hiệp định, chỉ với một điều kiện là ông ta được thạy đổi thành phần tù nhân được phóng thích, nhờ đó ông ta sẽ trả tự do cho nhiều tù thường phạm hơn và ít tội phạm phá hoại an ninh hơn. Như thế lại khó đối với Arafat, ông muốn phóng thích cả những người ông cho là đấu tranh vì tự do. Dennis Ross và Madeleine Albright tới chỗ của ông và thuyết phục rằng tôi chỉ có thể làm được đến thế. Sau đó tôi tới gặp và cảm ơn ông; sự nhượng bộ vào phút cuối cùng của ông đã cứu cả cuộc đàm phán.

Hiệp định này dành cho người Palestine nhiều đất hơn ở khu Bờ Tây, sân bay, cảng biển, phóng thích tù nhân, hành lang an toàn giữa Gaza và Bờ Tây, và hỗ trợ kinh tế. Đổi lại, Israel sẽ nhận được hợp tác chưa từng có tiền lệ trong cuộc chiến chống bạo lực và khủng bố, bắt giữ một số phần tử Palestine được Israel xác định là chủ mưu bạo lực và giết chóc không ngừng, thay đổi từ ngữ trong Tuyên ngôn Palestine, và nhanh chóng bắt tay vào các cuộc đàm phán cuối cùng. Mỹ sẽ hỗ trợ giúp Israel đáp ứng các nhu cầu về anh ninh khi tái điều động, và hỗ trợ Palestine phát triển kinh tế, và sẽ đóng vai trò trung tâm trong việc gắn kết sự hợp tác an ninh chưa từng có trong lịch sử mà hai bên đã đồng ý gìn giữ.

Ngay sau khi bắt tay nhau về thỏa thuận này, chúng tôi vội vã quay về Nhà Trắng để ra thông cáo. Hầu như tất cả chúng tôi đều thức trắng gần 40 giờ đồng hồ và cần chợp mắt và tắm rửa, nhưng đã là chiều thứ sáu, và chúng tôi phải kết thúc buổi lễ trước khi mặt trời lặn, bắt đầu lễ Sabbath của đạo Do Thái. Buổi lễ bắt đầu vào lúc 4 giờ chiều ở Phòng phía Tây. Sau diễn văn của Al Gore và Madeleine Albright, tôi tóm lược lại những điểm chính trong bản hiệp định và cảm ơn tất cả các đoàn đàm phán. Tiếp theo đó, Arafat và Netanyahu phát biểu đúng mực và lạc quan. Bibi thể hiện đúng tư cách của một nhà ngoại giao, còn Arafat lên án bạo lực bằng những từ ngữ mạnh mẽ hiếm thấy. Hussein cảnh báo rằng kẻ thù của hòa bình sẽ sử dụng bạo lực để phá hoại bản hiệp định, và kêu gọi người dân hai bên ủng hộ các nhà lãnh đạo của họ, và thay thế phá hoại và chết chóc bằng một tương lai chung cho những đứa con của Abraham "mà họ xứng đáng được hưởng dưới ánh mặt trời".

Trong một cử chỉ biểu lộ tình bạn và hiểu rõ chuyện phe Cộng hòa trong quốc hội đang âm mưu làm gì, Hussein nói rằng ông đã làm bạn với chín vị tổng thống, "nhưng tôi chưa từng thấy ai - với tất cả sự ngưỡng mộ tôi dành cho những người tiền nhiệm - tận tâm, sáng suốt, tập trung và quyết tâm... đối với hòa bình như ông... và chúng tôi hy vọng ông sẽ luôn đi cùng chúng tôi cho đến khi đạt được những thành quả to lớn hơn và cho đến khi chúng ta giúp đỡ những người anh em đi tới một tương lai tốt đẹp hơn".

Sau đó Arafat và Netanyahu cùng ký vào hiệp định, ngay trước khi mặt trời lặn và lễ Sabbath bắt đầu. Hòa bình tại Trung Đông vẫn còn sống được.

Khi cuộc đàm phán đang diễn ra tại sông Wye, Erskine Bowles thương thuyết căng thẳng với quốc hội về ngân sách. Ông ấy nói với tôi rằng sẽ từ chức sau cuộc bầu cử, và ông ấy muốn tìm được sự đồng thuận cao nhất. Chúng tôi có rất nhiều động lực thúc đẩy bởi đảng Cộng hòa sẽ không dám đóng cửa chính phủ một lần nữa, và họ đã tiêu tốn quá nhiều thời gian trong những tháng trước vào các cuộc tranh cãi nội bộ và công kích tôi thay vì phải hoàn thành công việc của mình.

Erskine và nhóm làm việc của ông đã khéo léo thông qua các chi tiết trong dự luật ngân sách, nhượng bộ điểm này điểm kia nhằm bảo đảm các khoản chi cho những ưu tiên hàng đầu của chúng tôi. Chúng tôi ra thông cáo về bản thỏa thuận vào trưa ngày 15 và tổ chức ăn mừng tại Vườn Hồng vào sáng hôm sau cùng với Tom Daschle, Dick Gephardt và toàn bộ nhóm phụ trách kinh tế. Thỏa thuận cuối cùng dành khoản thặng dư ngần sách để cải tổ an sinh xã hội và cấp tiền quỹ để bổ nhiệm lần đầu cho 100.000 giáo viên mới, một sự gia tăng đáng kể các chương trình ngoại khoá và học hè, và nhiều ưu tiên khác của chúng tôi cho giáo dục. Chúng tôi cũng có được một gói viện trợ dành cho nông dân và người chăn nuôi, và đạt được thành quả ấn tượng về môi trường: tài trợ cho sáng kiến về nước sạch để cải tạo 40% sông hồ đã bị ô nhiễm đến mức không thể bơi hay câu cá được; cũng như khoản chi chống lại sự nóng lên toàn cầu và duy trì nỗ lực bảo vệ những vùng đất đai quý giá khỏi sự phát triển và ô nhiễm. Và sau tám tháng bế tắc, chúng tôi đã giành được quyền đóng góp vào Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cho phép Mỹ tiếp tục nỗ lực chấm dứt khủng hoảng tài chính và ổn định nền kinh tế thế giới.

Không phải tất cả các nội dung trong chương trình nghị sự của chúng tôi đều được thông qua, vì vậy chúng tôi vẫn còn rất nhiều nội dung cho hai tuần rưỡi còn lại của chiến dịch. Đảng Cộng hòa cản trở Đạo luật Quyền của Bệnh nhân giùm các Tổ chức Duy trì Sức khỏe (HMO); không thông qua luật chống thuốc lá, vốn kèm theo tăng thuế thuốc lá và áp dụng các biện pháp chống hút thuốc ở trẻ vị thành niên đối với các công ty thuốc lá lớn; dùng filibuster để cản trở chính sách cải tổ việc chu cấp tài chính cho các chiến dịch tại thượng viện, bất chấp sự ủng hộ của các thượng nghị sĩ Dân chủ sau khi chính sách này được hạ viện thông qua; đánh bại đề nghị tăng lương tối thiểu; và đáng ngạc nhiên nhất là từ chốì đề nghị xây mới hoặc sửa chữa khoảng 5.000 trường học của tôi. Họ cũng không thông qua chính sách cho hoàn thuế đối với việc sản xuất và buôn bán năng lượng sạch hoặc các thiết bị dùng để tiết kiệm năng lượng. Tôi nói đùa với Newt Gingrich rằng cuối cùng tôi cũng tìm thấy khoản cắt giảm thuế mà ông ta không ủng hộ.

Tuy nhiên, đó vẫn là một ngân sách tuyệt diệu, nếu xét đến thành phần chính trị trong quốc hội, khẳng định thực sự tài năng đàm phán của Erskine Bowles. Sau khi đàm phán về cân bằng ngân sách năm 1997, ông lại thành công. Như tôi từng nói, ông ấy "đã có một màn kết thúc tuyệt vời".

Bốn ngày sau, ngay trước khi đi sông Wye, tôi chỉ định John Podesta kế nhiệm Erskine, người đã nhiệt tình đề cử John cho vị trí này. Tôi biết John gần 30 năm, kể từ chiến dịch tranh cử vào thượng viện của Joe Duffey năm 1970. Ông từng là thư ký văn phòng Nhà Trắng và phó chánh văn phòng; ông am hiểu quốc hội và đã cố vấn cho chúng tôi các chính sách kinh tế, ngoại giao và quốc phòng; ông là một người ủng hộ bảo vệ môi trường hăng hái; và trừ Al Gore ra, ông am hiểu về công nghệ thông tin hơn bất cứ ai trong Nhà Trắng. Ông cũng có những phẩm chất cá nhân đúng mực: sáng suốt, cá tính mạnh mẽ, hóm hỉnh, và giỏi tác động tới trái tim của người khác hơn Erskine Bowles. John còn đem lại cho Nhà Trắng một đội ngũ lãnh đạo xuất chúng với Phó chánh văn phòng Steve Ricchetti, Maria Echaveste và phụ tá của ông là Karen Tramontano.

Qua các vụ kiện cáo và chiến thắng, các trận chơi golf hay chơi bài, Erskine và tôi đã trở thành bạn thân. Tôi sẽ rất nhớ ông ấy, đặc biệt là trên sân golf. Trong những ngày căng thẳng, Erskine và tôi thường tới sân golf của Hải Lục quân chơi vài lượt. Bạn của tôi là Kevin O'Keefe thường tham gia đánh chung cho đến khi ông rời khỏi văn phòng luật sư. Một người luôn đi cùng chúng tôi ở sân golf là Mel Cook, một cựu quân nhân làm việc ở đó và biết rõ nơi này như lòng bàn tay. Đôi khi tôi chơi khoảng bốn hay năm lỗ trước khi ghi được điểm, nhưng dần dà, cảnh đẹp của sân golf và sự yêu thích tôi dành cho môn thể thao này đã làm tan biến mọi áp lực của công việc trong ngày. Tôi vẫn tiếp tục đến sân golf Hải Lục quân, nhưng tôi luôn nhớ đến Erskine. ít ra ông cũng đã trao lại cho tôi một người kế nhiệm tài giỏi là Podesta.

Rahm Emanuel cũng ra đi. Kể từ khi làm giám đốc tài chính cho cuộc vận động tranh cử của năm 1991, ông mới cưới vợ và bắt đầu cuộc sống gia đình, và muốn chu cấp cho gia đình mình. Khả năng tuyệt vời nhất của Rahm là đưa ý tưởng vào hành động. Ông nhìn nhận được tiềm năng của các vấn đề mà những người khác bỏ qua, và ông luôn là người nắm được những chi tiết mang tính quyết định thành bại. Sau thất bại của chúng tôi năm 1994, ông đóng vai trò chủ đạo trong việc đưa hình ảnh của tôi trở lại cuộc đua bằng thực tế hành động. Vài năm sau, Rahm sẽ trở lại Washington, với tư cách là nghị sĩ của Chicago, thành phố mà ông coi là thủ phủ của cả thế giới. Tôi chỉ định người thay thế ông là Doug Sosnik, giám đốc chính trị của Nhà Trắng, một người hăng hái như Rahm, am hiểu chính trị và quốc hội, luôn chỉ cho tôi mặt trái của mọi tình huống mà không đòi hỏi tôi phải đồng ý, và là một người thấu hiểu tâm tư của người khác. Craig Smith sẽ đảm nhiệm vị trí giám đốc chính trị, vị trí ông đã từng đảm nhiệm trong cuộc vận động tranh cử hồi năm 1992.

Sáng ngày 22, không lâu trước khi tôi chuẩn bị lên đường đến sông Wye trong ngày cuối cùng và dài đằng đẵng, thượng viện đã tạm ngừng họp sau khi gửi tới tôi điều luật đã được ban hành cho phép xây dựng 3.000 trường học công trên toàn nước Mỹ vào năm 2000. Trong tuần cuôl cùng của tháng đó, Thủ tướng Netanyahu vượt qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm ở Knesset đối với hiệp định sông Wye, và tổng thống Ecuador và Peru, với sự giúp đỡ của Mỹ, đã giải quyết được tranh chấp biên giới vốn có nguy cơ bùng nổ thành xung đột vũ trang. Tại Nhà Trắng, tôi chào mừng tổng thống mới của Colombia, Andrés Pastrana, và ủng hộ những nỗ lực dũng cảm của ông nhằm chấm dứt xung đột kéo dài hàng thập kỷ qua với các nhóm du kích. Tôi cũng ký Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế của năm 1998 và chỉ định Robert Seiple, nguyên giám đốc tổ chức World Vision Mỹ, một tổ chức từ thiện Cơ đốc, làm đại diện đặc biệt của Ngoại trưởng phụ trách vấn đề tự do tôn giáo quốc tế.

Khi chiến dịch vận động sắp đến hồi kết thúc, tôi dừng chân tại một số điểm ở California, New York, Florida và Maryland, rồi cùng Hillary tới Mũi Canaveral ở Florida để chứng kiến John Glenn bay vào vũ trụ; Hội đồng Quốc gia đảng Cộng hòa bắt đầu phát đi một loạt những đoạn phim ngắn trên truyền hình để công kích tôi. Thẩm phán Norma Holloway Johnson cho rằng có một số điều cho thấy văn phòng của Starr đã 24 lần vi phạm luật cấm tiết lộ của đại bồi thẩm đoàn; báo chí đăng bài nói rằng, theo kết quả xét nghiêm DNA, Thomas Jefferson và người hầu của ông, Sally Hemings, đã có với nhau mấy người con.

Ngày 3 tháng 11, bất chấp lợi thế khổng lồ về tài chính của đảng Cộng hòa, các cuộc công kích nhằm vào tôi, và dự đoán của các nhà quan sát về sự sụp đổ của phe Dân chủ, các cuộc bầu cử vẫn nghiêng về phía chúng tôi mong muốn. Thay vì bị mất từ bốn tới sáu ghế tại thương viện như dự đoán, đã không có bất cứ thay đổi nào. Bạn tôi, John Breaux, người đã giúp tôi lấy lại hình ảnh của một đảng Dân chủ Mới trong chính phủ sau cuộc bầu cử năm 1994, và là người kiên định phản đối bãi nhiệm tôi, tái đắc cử với chiến thắng áp đảo ở Louisiana. Tại hạ viện, đảng Dân chủ trên thực tế đã giành lại năm ghế, lần đầu tiên kể từ năm 1822, đảng của tổng thống làm được điều này trong năm thứ sáu tại nhiệm.

Cuộc bầu cử thể hiện một lựa chọn đơn giản: đảng Dân chủ mong muốn dành khoản tiết kiệm cho an sinh xã hội trước, bố trí việc làm cho 100.000 giáo viên, hiện đại hoá các trường học, tăng mức lương tối thiểu và thông qua Điều Luật về Quyền của Bệnh nhân. Những người Cộng hòa thì phản đối tất cả. Nhìn chung, họ vận động với một mục tiêu duy nhât là bãi nhiệm tôi, mặc dù tại một số tiểu bang, họ cũng cho phát những đoạn phim quảng cáo chống đồng tính, chủ yếu nói rằng nếu đảng Dân chủ giành chiến thắng tại quốc hội, chúng tôi sẽ buộc tất cả các tiểu bang phải công nhận hôn nhân đồng tính. Tại các tiểu bang như Washington và Arkansas, thông điệp này còn được nhấn mạnh hơn bằng hình ảnh các cặp đồng tính đang hôn nhau hay đang đứng trước bàn thờ trong nhà thờ. Không lâu trước cuộc bầu cử, Matthew Shepard, một thanh niên đồng tính bị đánh đập cho tới chết ở Wyoming do xu hướng tình dục của cậu ta. Toàn nước Mỹ xúc động, đặc biệt sau khi cha mẹ cậu dũng cảm công khai nói về vấn đề này. Tôi không thể tin được là những người cực hữu lại tung ra đoạn quảng cáo chống người dồng tính ngay sau cái chết của Shepard, nhưng có vẻ như họ luôn cần có kẻ thù. Đảng Cộng hòa cũng suy yếu hơn bởi họ bị chia rẽ sâu sắc về bản thỏa thuận ngân sách hồi cuối tháng 10; thành viên bảo thủ nhất cho rằng họ đã vứt đi tất cả và chẳng lấy lại được gì.

Nhiều tháng trước cuộc bầu cử, tôi nghĩ rằng cái gọi là "điềm gở năm thứ sáu" là phóng đại, rằng trong lịch sử, dân chúng luôn bỏ phiếu chống lại đảng của tổng thống vào năm thứ sáu bởi họ nghĩ khả năng tổng thống đang trên đà đi xuống, rằng năng lực và sáng kiến đều đã cạn kiệt, và rằng họ nên chuyển cơ hội đó cho phía bên kia. Năm 1998, họ chứng kiến tôi xử lý các vấn đề Trung Đông và vấn đề đối ngoại và đối nội khác ngay trước cuộc bầu cử, và họ biết rõ chúng tôi có một chương trình nghị sự cho hai năm tiếp theo. Chiến dịch nhằm bãi nhiệm tôi càng kích động các cử tri phe Dân chủ bỏ phiếu ủng hộ với số lượng lớn hơn nhiều so với năm 1994; và cản trở mọi thông điệp mà các cử tri dao động có thể đã nghe ngóng được từ đảng Cộng hòa. Ngược lại, các thống đốc Cộng hòa đương nhiệm, những người tranh cử trên nền tảng trách nhiệm tài khoá, cải tổ an sinh xã hội, các biện pháp kiểm soát tội phạm thông thường và ủng hộ mạnh mẽ cho giáo dục của tôi, thì lại thắng lợi giòn giã. Ở Texas, thống đốc George W. Bush, sau khi thắng sát sao chiến thắng bạn cũ của tôi là Garry Mauro, đã phát biểu tuyên bố chiến thắng đứng trước khẩu hiệu "Cơ hội, Trách nhiệm", tức là hai phần ba câu khẩu hiệu của tôi trong chiến dịch vận động tranh cử hồi năm 1992.

Một số lượng lớn phiếu của cử tri người Mỹ gốc Phi đã giúp luật sư trẻ John Edwards đánh bại Thượng nghị sĩ Bắc Calolina Lauch Faircloth, bạn của thẩm phán Sentelle và là một trong những người chỉ trích tôi khắt khe nhất, và ở Nam Calolina, cử tri da đen đưa Thượng nghị sĩ Fritz Hollings đến một chiến thắng lội ngược dòng. Ở New York, nghị sĩ Chuch Schumer, một người có quá trình hoạt động chống tội phạm tích cực và mạnh mẽ phản đốì việc bãi nhiệm tôi, dễ dàng đánh bại Thượng nghị sĩ Al D'Amato, người đã khá nhiều năm nay công kích Hillary và cộng sự của cô ấy trong các buổi điều trần ở ủy ban của ông ta. Ở California, Thượng nghị sĩ Barbara Boxer đã tái đắc cử và Gray Davis được bầu làm thông đốc với tỉ lệ phiếu bầu cao hơn nhiều so với kết quả của cuộc thăm dò trước đó, và đảng Dân chủ có thêm hai ghế trong hạ viện nhờ phong trào chống bãi nhiệm tôi và số đông cử tri đi bầu người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha và gốc Phi.

Trong các cuộc bầu cử vào hạ viện, chúng tôi giành lại được chiếc ghế mà Marjolie Margolies-Mezvinsky đã để tuột mất hồi năm 1994 khi ứng cử viên của chúng tôi, Joe Hoefflel, người từng thất bại năm 1996, ra tranh cử và chống bãi nhiệm tôi. Ở bang Washington, Jay Inslee, người từng thất bại năm 1994, giành lại được chiếc ghế của mình. Ở New Jersey, giáo sư vật lý Rush Holt bị tụt lại đằng sau với khoảng cách 20% số phiếu 10 ngày trước cuộc bầu cử. Ông cho phát một đoạn quảng cáo trên tivi nêu bật sự phản đối bãi nhiệm tôi, và đã giành chiếc ghế mà đảng Dân chủ chưa bao giờ có được trong cả thế kỷ.

Chúng tôi cố hết sức thu hẹp khoảng cách lớn trong việc gây quỹ và tôi ghi âm lại tất cả những tin nhắn điện thoại gọi từ vùng cư trú của những cử tri Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha, cử tri da đen và những thành viên đảng Dân chủ tiềm năng. Al Gore vận động mạnh mẽ trên khắp đất nước, và Hillary xuất hiện nhiều hơn bất cứ ai. Trong chặng dừng chân vận động ở New York, bàn chân Hillary bị sưng tấy và chảy máu bên dưới đầu gối khiến cô ấy phải dùng thuốc cầm máu. Bác sĩ Mariano muốn cô ấy nghỉ ngơi khoảng một tuần nhưng cô ấy vẫn tiếp tục làm việc, đem đến niềm tin và sự ủng hộ cho các ứng cử viên của chúng tôi. Tôi thật sự lo lắng, nhưng cô ấy cương quyết tiếp tục. Vẫn còn giận tôi, cô ấy càng lúc càng buồn phiền trước những gì Starr và đảng Cộng hòa đang ra sức thực hiện.

Các cuộc thăm dò do James Carville và Stan Greenberg cũng như của Mark Mellman, phụ trách trưng cầu dân ý của đảng Dân chủ cho thấy, trên phạm vi toàn quốc, 20% cử tri có thể sẽ bầu cho một người Dân chủ nào nói rằng tôi nên bị quốc hội ra nghị quyết khiển trách, và rằng chúng ta cần tiếp tục làm việc phục vụ công chúng, thay vì bầu cho một người Cộng hòa ủng hộ bãi nhiệm. Sau khi kết quả được công bố, Carville và một số người khác thuyết phục tất cả các đối thủ có cơ hội thắng sử dụng chiến lược này. Sức nặng của chiến lược nói trên là rất rõ ràng, ngay cả trong những cuộc đua mà chúng tôi thua sát nút mà lẽ ra đảng Cộng hòa có thể thắng dễ dàng. Ví dụ, ở bang New Mexico, ứng cử viên đảng Dân chủ Phill Maloof, người đã thất bại trong cuộc bầu cử đặc biệt hồi tháng 6 với sáu điểm chênh lệch, và tụt xuống xuống 10 điểm một tuần trước cuộc bầu cử tháng 11, cho phát đoạn quảng cáo chống bãi nhiệm vào cuối tuần ngay trước cuộc bầu cử. Ông ấy chiến thắng trong ngày bầu cử, nhưng thất bại chung cuộc vì thua 1% số phiếu bởi một phần ba cử tri đã bỏ phiếu trước khi họ nghe được thông điệp của ông. Tôi tin đảng Dân chủ lẽ ra đã giành thắng lợi tại hạ viện nếu như có nhiều ứng cứ viên hơn vận động về chương trình hành động tích cực và chống bãi nhiệm tôi. Rất nhiều người đã không làm như vậy bởi họ lo ngại; đơn giản là họ không thể tin vào bằng chứng đơn thuần trước những tin tức báo chí tiêu cực về tôi, cũng như trước quan điểm đồng nhất của các quan sát viên cho rằng việc Starr và Henry Hyde làm sẽ gây khó khăn cho đảng Dân chủ hơn cho đảng Cộng hòa.

Sau ngày bầu cử, tôi gọi điện cho Newt Gingrich để bàn về một số công việc; khi cuộc trò chuyên bắt đầu xoay quanh cuộc bầu cử, ông ấy tỏ ra rất độ lượng nói rằng trên cương vị một nhà lịch sử, và là "một tiền vệ của phe đối phương", ông vẫn muốn chúc mừng tôi. Ông ấy từng không tin là chúng tôi sẽ chiến thắng, và đó thực sự là một chiến thắng lịch sử. Cuối tháng 11, Erskine Bowles gọi cho tôi và kể về cuộc đối thoại hoàn toàn khác hẳn của anh với Gingrich. Newt nói với Erskine rằng đảng Cộng hòa sẽ tiếp tục điều tra bãi nhiệm tôi bất chấp kết quả cuộc bầu cử thế nào và bất chấp luôn cả thực tế là rất nhiều thành viên ôn hòa của đảng Cộng hòa không muốn bỏ phiếu bãi nhiệm. Khi Erskine hỏi Newt vì sao họ vẫn cố theo đuổi bãi nhiệm thay vì tìm kiếm giải pháp khác như phê bình hay khiển trách, ông Chủ tịch hạ viện của đảng Cộng hòa trả lời: "Bởi vì chúng tôi có thể làm được".

Những đảng viên Cộng hòa cánh hữu đang kiểm soát hạ viện tin rằng đến lúc này họ đã tốn kém cho bãi nhiệm nên phải tiếp tục và hành động trước khi quốc hội mới thay thế. Họ cho rằng cho đến kỳ bầu cử lần tới thì sẽ không còn sợ thất bại vì quan điểm bãi nhiệm nữa, bởi cử tri sẽ phải suy nghĩ về nhiều việc khác nữa. Newt và Tom DeLay tin rằng họ có thể ép tất cả các thành viên ôn hòa - từ các cuộc trò chuyện trên truyền hình của những người cánh hữu và các nhà hoạt động tại các khu vực của họ; bằng việc đe dọa cắt giảm ngân sách cho các cuộc vận động tranh cử, hoặc ủng hộ đối thủ của họ trong kỳ bầu cử sơ bộ đảng Cộng hòa, hoặc xóa bỏ các vị trí lãnh đạo, hoặc đưa ra các vị trí lãnh đạo mới hoặc nhiều quyền lợi khác.

Cuộc họp kín của các thành viên cánh hữu đảng Cộng hòa sôi sùng sục trước thất bại của họ. Nhiều người thực sự tin rằng họ thất bại là do họ đã nhượng bộ quá nhiều yêu cầu của Nhà Trắng trong hai cuộc đàm phán về ngân sách gần nhất. Thực ra, nếu họ vận động về cân bằng ngân sách năm 1997 và 1998, Chương trình Bảo hiểm Sức khỏe cho Trẻ em, và kế hoạch tạo công việc cho 100.000 giáo viên, thì họ đã có thể chiến thắng, như một số thống đốc phe Cộng hòa đã làm. Nhưng họ quá khác biệt về tư tưởng và quá giận dữ nên đã không làm như vậy. Giờ đây họ sẽ chiếm lại quyền kiểm soát chương trình nghị sự của đảng Cộng hòa thông qua việc bãi nhiệm.

Tôi đã có cả thảy bốn trận đấu tay đôi với phe cực hữu: cuộc bầu cử năm 1994, họ thắng và khoản chi ngân sách không được chấp thuận; cuộc bầu cử năm 1996 và 1998 khi chúng tôi hoàn toàn nắm giữ. Tạm thời, tôi cố gắng trung thành làm việc với quốc hội để tiếp tục vận hành đất nước. Bây giờ, trước ý kiến đa số của dân chúng chống lại việc bãi nhiệm tôi, và bằng chứng rõ ràng là tất cả những gì họ cáo buộc tôi chưa đến mức phải bãi nhiệm, họ trở lại với cuộc chiến gay gắt khác về hệ tư tưởng. Lúc này chẳng có gì hơn là sẵn sàng ra trận.