← Quay lại trang sách

Chương 53

Đầu tháng 6, tôi thực hiện một bài phát biểu trên đài phát thanh nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề bảo đảm sức khỏe tinh thần với Tipper Gore, người mà tôi đã bổ nhiệm vào vị trí cố vấn chính thức về tâm thần cho tôi. Gần đây, cô đã công bố cách điều trị của bản thân cô đối với chứng trầm uất. Hai ngày sau buổi phát biểu, Hillary và tôi cùng Al và Tipper đã tham gia buổi hội thảo tại Nhà Trắng về sức khỏe tinh thần. Trong buổi hội thảo, chúng tôi đã thảo luận các vấn đề liên quan đến những tổn thất về mặt con người, kinh tế và xã hội do những bệnh về tâm lý không được điều trị.

Trong suốt tháng đó, tôi đã nhấn mạnh việc bảo đảm an toàn sử dụng súng; rằng chúng tôi sẽ nỗ lực để phát triển nghiên cứu vắc xin chống AIDS; rằng tôi sẽ nỗ lực để đưa vấn đề về môi trường và quyền lao động vào các cuộc đàm phán thương mại; nhấn mạnh báo cáo của Cục Tham mưu Tình báo nước ngoài của tổng thống về an ninh tại phòng thí nghiệm nguyên tử của Vụ Năng lượng; kế hoạch hoàn trả lại những quyền lợi về sức khỏe và tư cách pháp lý cho những người nhập cư hợp pháp; kế hoạch cho phép Medicaid chăm sóc những người khuyến tật Mỹ không thể trang trải các chi phí cho việc điều trị do họ bị mất quyền bảo trợ chăm sóc sức khỏe khi tham gia lực lượng lao động; đạo luật về việc giúp đỡ trẻ em đã rời khỏi những trường giáo dưỡng có thể sống tự lập; và một kế hoạch hiện đại hóa chương trình Medicare của chính phủ và mở rộng thời hạn của quỹ hỗ trợ của chương trình.

Tôi trông đợi tháng 7 tới. Tôi mong nó sẽ là một tháng làm việc hiệu quả và tốt đẹp. Tôi sẽ thông báo rằng chúng tôi đang đưa đại bàng Bắc Mỹ (Đại bàng Bắc Mỹ - bald eagle - có lông đuôi trắng và đầu trắng dùng làm biểu tượng cho nước Mỹ - ND) ra khỏi danh sách những động vật đang trên đà tuyệt chủng, và Al Gore sẽ vạch ra một kế hoạch cho chúng tôi hoàn thành việc khôi phục khu đầm lầy Florida. Hillary sẽ bắt đầu chuyến "du lịch" nghe ngóng của cô ấy tại trang trại của Thượng nghị sĩ Moynihan ở Pindars Corners thuộc nông thôn bang New York, và tôi sẽ thực hiện một chuyến đi thăm những khu dân cư nghèo trên khắp đất nước để phát triển sáng kiến mới của tôi - "Những thị trường mới"- để thu hút đầu tư nhiều hơn nữa cho những vùng còn chưa hồi phục. Tất cả những kế hoạch đó đều đã được thực hiện, nhưng vẫn còn nhiều ý định vẫn chưa được tính đến, vẫn còn nhiều việc khó thực hiện và chưa được giải quyết.

Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif đã đề nghị đến thăm Washington vào ngày 4 tháng 7 để bàn về hiện trạng mối quan hệ chia rẽ rất nguy hiểm với Ấn Độ bắt đầu cách đó vài tuần khi tướng Pervez Musharraf chỉ đạo cho quân đội Pakistan vượt qua đường ranh giới kiểm soát giữa hai nước. Ranh giới này đã được công nhận là đường biên giới chung giữa Ấn Độ và Pakistan kể từ xung đột Kashmir năm 1972. Sharif lo ngại rằng tình huống mà Pakistan đã tạo nên đang diễn biến ngoài tầm kiểm soát, và ông hy vọng chúng tôi sẽ không chỉ giúp giải quyết xung đột mà còn đóng vai trò trung gian hòa giải với Ấn Độ về vấn đề Kashmir nữa. Ngay từ trước khi xung đột xảy ra, Sharif đã nhờ tôi giúp đỡ đối với vấn đề Kashmir và nói rằng đây xứng đáng là một vấn đề để tôi quan tâm, cũng ngang tầm như khu vực Trung Đông và Bắc Ireland vậy. Tôi đã giải thích với ông ta rằng Mỹ tham gia vào tiến trình hòa giải tại những khu vực đó là do sự mong muốn của cả hai bên. Trong trường hợp của Kashmir, Ấn Độ đã từ chối rất quyết liệt việc tham gia của bất kỳ một bên thứ ba nào.

Những động thái của Sharif rất khó hiểu bởi lẽ hồi tháng 2 cùng năm, Thủ tướng Ấn Độ Atal Behari Vajpayee đã đến thăm Lahore, Pakistan để thúc đẩy đàm phán song phương nhằm giải quyết vấn đề Kashmir và những vấn đề khác. Việc Pakistan lấn sang đường biên giới chung đã phá hỏng cuộc đàm phán đó. Tôi không rõ liệu Sharif có đồng ý uỷ thác cho quân đội thực hiện sự xâm lấn đó để tạo ra xung đột nhằm kéo Mỹ tham gia vào hay chỉ đơn giản phải châp nhận điều đó để tránh đối đầu với phe quân đội cực mạnh của Pakistan. Bất kể thế nào thì ông ta cũng đã đẩy mình vào tình thế rất khó có đường thoát.

Tôi nói với Sharif rằng ông luôn được chào đón tại Washington thậm chí vào ngày mùng 4 tháng 7, nhưng nếu ông ta muốn tôi dành ngày độc lập của nước Mỹ cho ông ta thì ông ta cần đến Mỹ để biết hai điều sau đây: thứ nhất, ông ta phải đồng ý rút quân đội khỏi đường biên giới kiểm soát; và thứ hai, tôi không đồng ý can thiệp vào tranh chấp tại Kashmir, nhất là để ủng hộ cho sự đột nhập sai trái của Pakistan.

Sharif nói ông ta vẫn muốn thực hiện cuộc viếng thăm. Vào ngày 4 tháng 7, chúng tôi gặp nhau tại nhà khách Blair House. Đó là một ngày nóng nực, nhưng đoàn khách Pakistan đã quá quen với cái nóng, trong trang phục quần trắng và áo chùng dài truyền thống, họ thậm chí trông còn thoải mái hơn cả đoàn phía chúng tôi. Một lần nữa, Sharif thuyết phục tôi can thiệp vào Kashmir, và cũng một lần nữa tôi giải thích rằng nếu không có sự đồng tình của Ấn Độ thì sự can thiệp đó sẽ trở nên phản tác dụng. Nhưng tôi cũng nói rằng tôi sẽ thuyết phục Vajpayee nối lại đối thoại song phương nếu Pakistan rút quân. Ồng ta nhất trí và chúng tôi đã ra tuyên bố chung rằng sẽ thực hiện các bước để khôi phục lại đường ranh giới kiểm soát và rằng tôi sẽ ủng hộ và hỗ trợ để nối lại và tăng cường các cuộc đàm phán song phương ngay khi hai bên ngừng bạo lực.

Sau cuộc họp, tôi nghĩ có lẽ Sharif đến thăm Mỹ là nhằm sử dụng áp lực từ phía Mỹ để có thêm sức ép yêu cầu quân đội tháo ngòi nổ xung đột. Tôi biết ông ta đang trong tình thế rất khó khăn ở trong nước và tôi hy vọng ông ấy có thể vượt qua được bỏi lẽ tôi cần sự cộng tác của ông ta trong cuộc chiến chống khủng bố.

Pakistan là một trong số ít những nước có mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng Taliban tại Afghanistan. Trước cuộc họp ngày 4 tháng 7, tôi đã ba lần yêu cầu sự giúp đỡ từ phía Pakistan để bắt Osama Bin Laden: trong cuộc gặp mặt lần trước của chúng tôi vào tháng 12 năm ngoái tại đám tang của Vua Hussein, trong cuộc nói chuyện qua điện thoại vào tháng 6 và một lá thư sau đó. Chúng tôi nhận được báo cáo tình báo rằng Al Qaeda đang chuẩn bị một kế hoạch tấn công các quan chức của Mỹ và các công trình tại khắp mọi nơi trên thế giới và có lẽ cả ở Mỹ nữa. Chúng tôi đã thành công trong việc phá vỡ các nhóm và bắt một số phần tử Al Qaeda, nhưng chừng nào Bin Ladeh và cận tướng của hắn chưa bị bắt hoặc tiêu diệt thì mối đe doạ vẫn còn tồn tại. Vào ngày 4 tháng 7, tôi nói với Sharif rằng nếu ông ta không hợp tác chặt chẽ hơn, tôi sẽ buộc phải tố cáo Pakistan đang ủng hộ chủ nghĩa khủng bố tại Afghanistan.

Cùng hôm gặp Sharif, tôi cũng ký một sắc lệnh cấm vận kinh tế đối với Taliban, phong toả mọi tài sản và cấm trao đổi thương mại. Trong thời gian đó, với sự hỗ trợ của Sharif, các quan chức của Mỹ cũng đã bắt đầu huấn luyện 60 binh sĩ Pakistan trở thành lính biệt kích để vào Afghanistan truy tìm Bin Laden. Tôi nghi ngờ về dự án này; ngay kể cả khi Sharif muốn hợp tác, quân đội của Pakistan cũng có rất nhiều thành viên ủng hộ Taliban và Al Qaeda. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi không có gì để mất khi xem xét tất cả mọi phương án.

Sau ngày họp với Sharif, tôi bắt đầu chuyến thăm Các Thị trường Mới của mình, mở đầu là Hazard, Kentucky, với một đoàn đại biểu rất đông bao gồm các giám đốc các công ty, đại biểu quốc hội, thành viên nội các, mục sư Jesse Jackson và Al From.

Tôi rất mừng là Jackson tham gia vào chuyến đi thăm và chúng tôi khởi hành chuyến đi từ Appalachia, một vùng toàn người da trắng nghèo nhất của Mỹ. Jesse đã làm việc nhiều năm để phát triển đầu tư khu vực tư nhân tới các vùng nghèo. Chúng tôi trở nên ngày càng thân thiết trong năm mà tôi bị đề nghị truất phế, khi ông đã luôn ủng hộ nhiệt tình cả gia đình tôi và đã cố gắng để an ủi cả Chelsea. Rời Kentucky, chúng tôi đến Clarksdale, Mississippi; Đông St.Louis, Illinois; khu Bảo tồn Pine Ridge ở Nam Dakota; vùng của người nói tiếng Tây Ban Nha tại Phoenix, Arizona; và vùng Watts tại Los Angeles.

Mặc dù tỷ lệ người thất nghiệp của Mỹ trong hai năm liên tiếp duy trì ở mức chỉ có 4% nhưng tất cả những vùng tôi đến thăm và còn nhiều vùng như thê nữa đều có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn thế rất nhiều và thu nhập bình quân đầu người cũng thấp hơn nhiều so với bình quân cả nước. Tỷ lệ thất nghiệp ở Pine Ridge là trên 70%. Tuy nhiên ở những nơi tôi đến, tôi đều gặp những con người rất thông minh và chăm chỉ, những người có khả năng đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền kinh tê đất nước.

Tôi nghĩ đầu tư vào những khu vực như thế này rất cần thiết và là một chính sách kinh tế thông minh. Chúng ta đang thực hiên một cuộc mở rộng kinh tế lớn nhất trong lịch sử với tốc độ tăng trưởng nhanh về năng suất. Đối với tôi có ba cách để tiếp tục tăng trưởng mà không có lạm phát, đó là: tăng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ hơn nữa; thúc đẩy sự tham gia hơn nữa vào lực lượng lao động của một số thành phần như những người nhận trợ cấp xã hội; và phát triển các thị trường mới ở Mỹ nơi mà đầu tư còn quá ít và thất nghiệp còn quá nhiều.

Chúng tôi thực hiện rất tốt tại hai khu vực đầu tiên và đạt được 250 hợp đồng thương mại và cải cách phúc lợi xã hội. Và chúng tôi khởi động rất tốt tại vùng thứ ba với hơn 130 khu vực, nhóm doanh nghiệp, ngân hàng phát triển cộng đồng được trao quyền hành động, và thi hành Luật Tái đầu tư cộng đồng. Nhưng có quá nhiều nhóm cộng đồng bị bỏ lại phía sau. Tôi đưa ra một kế hoạch mang tính chất pháp luật nhằm tăng nguồn vốn cho khu vực nội thị, thị trấn nông thôn và khu người da đỏ lên mức 15 tỷ đôla. Tôi hy vọng kế hoạch này sẽ phát triển doanh nghiệp tự do và sẽ nhận được ủng hộ của lưỡng đảng và sẽ được hưởng ứng bởi lẽ Chủ tịch hạ viện Hastert có vẻ đặc biệt quan tâm tới nỗ lực của tôi.

Vào ngày 15 tháng 7, Ehud và Nava Barak đã nhận lời mời đến Trại David với Hillary và tôi. Chúng tôi đã có một bữa tôi vui vẻ; Ehud cùng tôi thức và nói chuyện đến tận gần ba giờ sáng hôm sau. Rõ ràng ông ta rất muốn hoàn tất tiến trình hòa bình và tin tưởng rằng thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử đã trao cho ông ta quyền được thực hiện điều đó. Ông ta cũng tỏ ý muốn được làm một việc gì đó trọng đại tại Trại David, nhất là sau khi tôi chỉ cho ông ta xem tòa nhà đã diễn ra phần lớn các buổi đàm phán giữa Anwar Sadat và Menachem Begin do Tổng thống Carter đứng làm trung gian hồi năm 1978.

Cùng thời gian đó, tôi cũng đang cố gắng đưa tiến trình hòa bình Bắc Ireland trở về quỹ đạo. Tiến trình đã rơi vào bế tắc khi Sinn Fein và những người theo chủ nghĩa Hợp nhất không thể nhất trí với nhau về việc nên giải trừ IRA (quân đội Cộng hòa Ireland) trước hay sau khi chính phủ mới được thành lập. Tôi đã trình bày kỹ lại vấn đề đó với Barak bởi ông ta rất quan tâm đến những điểm giống và khác nhau giữa vấn đề của người Ireland và của bản thân ông.

Ngày hôm sau, John Kennedy Jr. cùng vợ ông, bà Carolyn và chị bà, bà Lauren qua đời khi chiếc máy bay chở John rơi xuống bờ biển vùng Massachusetts. Tôi luôn yêu mến John kể từ khi tôi gặp ông từ những năm 1980, khi ông còn là một sinh viên luật và làm thực tập tại Công ty luật của Mickey Kantor ở Los Angeles. Ông từng đến dự một trong những chương trình vận động đầu tiên của tôi tại New York trong năm 1991, và không lâu trước khi họ qua đời, tôi đã rất vui mừng khi được dẫn Carolyn và John đi thăm khu vực sinh hoạt trong Nhà Trắng. Ted Kennedy còn đưa ra một lời khen ngợi hết sức tuyệt vời đối với thành viên của gia đình xấu số này: "Cũng giống như bố vậy, anh ấy có đủ mọi năng khiếu bẩm sinh".

Ngày 23 tháng 7, Vua Hassan II của Marốc qua đời ở tuổi 70. Ông luôn là một đồng minh của Mỹ, là một người ủng hộ tiến trình hòa bình ở Trung Đông, và mối quan hệ cá nhân giữa chúng tôi rất tốt đẹp. Nhận được thông báo gấp, Tổng thống Bush đã nhận lời bay tới Marốc để dự đám tang cùng với Hillary, Chelsea và tôi. Tôi đi sau xe ngựa chở quan tài của nhà vua cùng với Tổng thống Mubarak, Yasser Arafat, Jacques Chirac và các nguyên thủ khác trên con đường dài ba dặm đi qua khu trung tâm Rabat. Có đến hơn một triệu người xếp hàng trên phố, than khóc và gào thét trong đau khổ bày tỏ sự tôn kính đối với vị quốc vương vừa băng hà của họ. Những âm thanh hỗn loạn chói tai của đám đông đang xúc động khiến cuộc diễu hành trở thành một sự kiện lạ thường nhất mà tôi đã từng tham gia. Tôi nghĩ Hassan được dân chúng nhất mực ủng hộ.

Sau cuộc gặp mặt ngắn ngủi với con trai và cũng là người kế vị của Hassan, Vua Mahammed VI, tôi lên máy bay trở về nhà làm việc vài ngày, sau đó lại lên đường tới Sarajevo. Tại đây tôi cùng một số lãnh đạo các nước châu Âu cam kết đưa ra công ước ổn định tình hình khu vực Balkan, một thỏa thuận hỗ trợ cho những nhu cầu ngắn hạn và phát triển dài hạn của khu vực bằng cách cho phép hàng hóa khu vực Balkan thâm nhập vào thị trường của chúng tôi nhiều hơn. Chúng tôi cũng bàn về việc gia nhập WTO của các nước đông nam châu Âu và cung cấp quỹ đầu tư và bảo lãnh tín dụng nhằm khuyến khích đầu tư tư nhân.

Mùa hè trôi qua nhanh và tôi tiếp tục duy trì quan điểm không nhất trí với phe Cộng hòa về ngân quỹ và việc phân bổ kế hoạch giảm thuế mà họ đưa ra; Dick Holbrooke cuối cùng cũng được bổ nhiệm làm Đại sứ Liên hiệp quốc sau 14 tháng trì hoãn rất vô lý; và Hillary đã tiến thêm một bước để tuyên bố rằng cô ấy sẽ tranh cử vào thượng nghị viện.

Tháng 8, chúng tôi đi New York hai lần để tìm mua nhà. Đến ngày 28, chúng tôi đến thăm một trang trại được xây từ cuối thế kỷ 19 và được tu sửa vào năm 1989 ở Chappaqua, cách Manhattan khoảng 40 dặm. Phần kiến trúc cổ của ngôi nhà rất quyến rũ, còn phần tu sửa mới thì rất nhiều không gian và đầy ánh sáng. Ngay khi tôi bước lên cầu thang để lên phòng ngủ chính, tôi nói với Hillary rằng chúng tôi nhất định sẽ mua căn nhà đó. Lần tu bổ năm 1989, trần nhà rất cao với hàng cửa kính đi ra vườn sau, và có hai cửa sổ lớn ở bức tường đối diện. Khi Hillary hỏi tôi tại sao lại chắc chắn đến vậy, tôi trả lời: "Vì em đang bắt đầu một chiến dịch rất khó khăn. Có thể sẽ có những ngày thật tồi tệ. Căn phòng này sẽ được tắm trong ánh sáng. Em sẽ thức dậy mỗi sáng tràn ngập niềm vui".

Cuối tháng 8, tôi đến Atlanta để trao Huy chương Tự do cho Tổng thống và bà Carter vì những công việc thật tuyệt vời mà họ đã làm với tư cách là một công dân bình thường kể từ khi rời Nhà Trắng. Sau đó vài ngày, trong buổi lễ kỷ niệm tại Nhà Trắng, tôi trao phần thưởng cho một số nhân vật ưu tú khác, trong đó có Tổng thống Ford và Lloyd Bentsen. Những người được thưởng khác bao gồm các nhà hoạt động dân quyền, lao động, dân chủ và môi trường. Tất cả mọi người đều không nổi tiếng như Ford và Bentsen nhưng mỗi người đều có những đóng góp rất riêng và nhất quán đối với nước Mỹ.

Tôi thực hiện một số cuộc vận động, tới Arkansas cùng Al Gore gặp gỡ nông dân địa phương và những người lãnh đạo da đen ở những tỉnh miền Nam và một nhóm quyên góp gây dựng quỹ với sự tham gia của đông đảo những người đã từng tham gia các chiến dịch vận động của tôi trước đây. Tôi cũng tham gia nói chuyện và thổi saxophone tặng Hillary trong một buổi tiệc ở Vườn nho Martha, và xuất hiện cùng với cô ấy trong một số buổi lễ khác ở New York, thậm chí còn dừng chân ở hội chợ bang ở Syracuse, nơi tôi đã đến thăm nhà của mấy người nông dân. Tôi rất vui khi tham gia vận động cùng Hillary và Al, và tôi bắt đầu hy vọng một ngày nào đó, sau cả một quãng đời nhận được sự trợ giúp của người khác, tôi sẽ có thể kết thúc cuộc đời chính sự của mình theo cách mà tôi đã khởi đầu, đó là tham gia vận động cho những người mà tôi tin tưởng.

Đầu tháng 9, Henry Cisneros cuối cùng cũng giải quyết được vụ kiện với công tố viên độc lập David Barrett, người đã buộc tội ông với tội danh nghiêm trọng vì một việc không thể tin được là đã khai giảm chi phí cá nhân với FBI trong cuộc thẩm vấn riêng vào năm 1993. Một ngày trước phiên toà, Barrett biết mình không thể thắng kiện, và đưa ra một thỏa thuận với Cisneros: bào chữa giảm nhẹ tội, xử phạt 10.000 đôla và không phải ngồi tù. Henry đã đồng ý để khỏi phải chịu chi phí pháp luật khổng lồ cho vụ kiện kéo dài này. Barrett đã dùng hơn 9 triệu đôla tiền đóng thuế của mọi người để dày vò người đàn ông lương thiện trong suốt bốn năm trời. Chỉ vài tuần trước đó, luật về công tố viên độc lập đã hết hạn.

Trong tháng 9, hầu hết thời gian tôi đều dành cho chính sách đối ngoại. Đầu tháng, Madeleine Albright và Dennis Ross đến Gaza để ủng hộ Ehud Barak và Yasser Arafat vì họ đã thỏa thuận được với nhau về những bước tiếp theo để thi hành hiệp ước sông Wye, chấp nhận một khu cho người tị nạn Palestine, một con đường nối khu Bờ Tây và dải Gaza, chuyển giao lại 11% khu Bờ Tây và thả 350 tù nhân. Albright và Ross sau đó đã đến Damascus để hối thúc Tổng thống Assad trả lời mong muốn của Barak được sớm bắt đầu đàm phán hòa bình.

Ngày 9, tôi thực hiện chuyến thăm tới New Zealand lần đầu tiên tham gia Hội nghị APEC. Chelsea đi cùng với tôi còn Hillary ở nhà để tiếp tục vận động. Những thông tin chính ở hội nghị liên quan đến Indonesia và hỗ trợ quân sự cho việc trấn áp bạo động trong phong trào đòi độc lập ở Đông Timor, vùng đất vẫn chìm trong rắc rối của những người theo đạo Thiên chúa La Mã tại quốc gia đạo Hồi đông dân nhât thế giới này. Phần lớn các nhà lãnh đạo APEC đều ủng hộ nhiệm vụ gìn giữ hòa bình quốc tế tại Đông Timor và Thủ tướng Úc John Howard rất sẵn sàng nhận vai trò chủ đạo. Ban đầu Indonesia phản đối nhưng sau đó họ cũng sớm nhận ra rằng họ buộc phải dịu bớt đi. Một liên minh quốc tế được thành lập để gửi quân tới Đông Timor dưới sự lãnh đạo của Úc, và tôi đã hứa với Thủ tướng Howard sẽ cử khoảng 100 quân tới để hỗ trợ hậu cần cho quân đồng minh.

Tôi gặp Chủ tịch Giang Trạch Dân để thảo luận về các vấn đề của WTO, tổ chức các cuộc hội thảo chung với Kim Dea Jung và Keizo Obuchi để khẳng định lại quan điểm chung của chúng tôi về vấn đề Bắc Triều Tiên. Tôi cũng đã có cuộc gặp lần đầu tiên với người kế nhiệm mới của Boris Yeltsin, Vladimir Putin. Putin có vẻ hoàn toàn trái ngược với Yeltsin. Yeltsin to lớn và thô chắc, trong khi Putin lại có vẻ gọn gàng và khỏe mạnh của một người đã tập võ nhiều năm. Yeltsin nói nhiều; còn người cựu nhân viên KGB lại rất thận trọng và kỹ tính. Tôi rời khỏi cuộc họp tin tưởng rằng Yeltsin đã chọn một người kế nhiệm có đủ trình độ và khả năng để thực hiện nhiệm vụ khó khăn, đưa Nga vượt qua những sóng gió trên chính trường và kinh tế, tốt hơn Yeltsin vốn đang trong tình trạng sức khoẻ không tot; Putin cũng có đủ sự cứng rắn để bảo vệ những lợi ích của Nga và kế thừa di sản của Yeltsin.

Trước khi rời New Zealand, Chelsea và tôi cùng đoàn tùy tùng đã dành chút thời gian đi thăm đất nước xinh đẹp này. Thủ tướng Jenny Shipley và chồng của bà, ông Burton, đón tiếp chúng tôi ở Queenstown. Ở đây tôi chơi golf với Burton, Chelsea đi thám hiểm hang động với lũ trẻ con nhà Shipley, và một số tùy tùng của tôi thì đi nhảy bungee từ trên một cây cầu cao xuống. Gene Sperling cố khích tôi chơi thử trò nhảy đó, nhưng tôi nói với anh ta là tôi đã có quá đủ những cú rơi tự do kiểu thế này rồi.

Chặng dừng chân cuối cùng của tôi là Trung tâm Nam cực Quốc tế tại Christchurch, một điểm bắt đầu cho chương trình hoạt động của chúng tôi tại Nam cực. Trung tâm có một trạm đào tạo lớn để tái tạo lại điều kiện băng giá tại vùng Nam cực. Tôi đến đó thể nhân mạnh sự nghiêm trọng của vấn đề nóng lên của toàn cầu. Nam cực là điểm lạnh nhất của hành tinh chúng ta với băng dày hơn hai dặm. Một tảng băng Nam cực lớn có kích thước bằng bang Rhode Island gần đây đã bị vỡ ra do tuyết tan. Trước đây, tôi đã cho xuất bản một loạt ảnh vệ tinh được phân loại chụp lục địa Bắc Mỹ để hỗ trợ nghiên cứu những thay đổi đang diễn ra. Bất ngờ lớn nhất trong đợt này đối với Chelsea và tôi là sự có mặt của ông Edmund Hillary, người từng thám hiểm Nam cực trong những năm 1950, là người đầu tiên chinh phục đỉnh Everest và quan trọng hơn cả, họ của ông trùng tên với mẹ của Chelsea.

Ngay sau khi trở lại Mỹ, tôi đến New York để khai mạc phiên họp đại hội đồng Liên hiệp quốc lần cuối cùng của thế kỷ 20, thuyết phục các đại biểu chấp nhận ba giải pháp: đấu tranh chống nghèo đói mạnh hơn nữa và đưa con người vào nền kinh tế toàn cầu; tăng cường nỗ lực để chống hoặc ngăn chặn việc giết hại những người vô tội trong các xung đột sắc tộc, tôn giáo, chủng tộc, hoặc bộ lạc; và tăng cường nỗ lực chống sự vô trách nhiệm của các nước hoặc các nhóm khủng bố trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học.

Đến cuối tháng, tôi chuyển sang tập trung vào chính sách đối nội, phủ quyết dự luật cắt giảm thuế mới của phe Cộng hòa bởi lẽ nó "quá lớn và quá ngạo mạn", giáng một gánh nặng quá lớn đối với nền kinh tế Mỹ. Theo luật ngân sách, dự luật này sẽ dẫn tới cắt giảm ngân sách lớn cho giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường. Nó sẽ khiến chúng tôi không thể kéo dài sự tồn tại của các quỹ như an ninh xã hội và chăm sóc người già, và không thể bổ sung thêm thuốc cần thiết cho Quỹ Chăm sóc người già.

Chúng tôi dự kiến sẽ đạt thặng dư khoảng 100 tỷ đôla trong năm nay, những dự luật cắt giảm thuế của phe Cộng hòa sẽ có thể làm thâm hụt mất 1.000 tỷ trong vòng một thập kỷ. Lý lẽ của những người Cộng hòa dựa trên những kết quả thặng dư dự kiến, về vấn đề này tôi thậm chí còn bảo thủ hơn họ rất nhiều. Nếu những dự kiến không diễn ra đúng như vậy, sẽ xảy ra thâm hụt và đi cùng với nó là lãi suất cao và tăng trưởng chậm. Trong vòng năm năm qua, các dự đoán của Văn phòng Ngân sách Quốc hội luôn bị sai số trung bình là 13%/năm, mặc dù chúng tôi luôn quản lý rất sát sao. Đó là một rủi ro thiếu tinh thần trách nhiệm. Tôi yêu cầu phe Cộng hòa hợp tác với Nhà Trắng và phe Dân chủ với tinh thần như lần đưa ra dự luật cải cách phúợ lợi xã hội lưỡng đảng năm 1996 và Luật Cân bằng Ngân sách năm 1997.

Ngày 24 tháng 9, Hillary và tối đã chủ trì một buổi lễ tại tòa nhà Hành pháp cũ để kỷ niệm thành công của hai đảng trong việc tăng cường việc nhận con nuôi trong hệ thống giáo dưỡng nói chung. Kết quả là họ đã tăng được 30% trường hợp nhận con nuôi trong vòng hai năm kể từ khi luật được thông qua. Tôi bày tỏ lời khen đối với Hillary người đã hoạt động trong lĩnh vực này hơn 20 năm qua, và người phụ tá tích cực nhất trong cuộc cải cách này ở phía hạ viện là Tom DeLay chính ông cũng đã nhận con nuôi. Tôi muốn có thêm nhiều khoảnh khắc như vậy nhưng trong trường hợp này, DeLay lại không tin tưởng lắm trong việc kết giao với kẻ thù của mình.

Tinh thần đảng phái lại dâng cao hồi đầu tháng 10, khi thượng nghị viện từ chối việc tôi đề cử thẩm phán Ronnie White giữ chức vụ quan tòa khu vực bầu cử của liên bang trong một cuộc bầu cử trong đảng. White là người Mỹ gốc Phi đầu tiên làm việc trong Tòa án tôi cao Missouri và là một quan toà được đánh giá cao. Ông bị đánh bại sau khi bị thượng nghị sĩ của phe bảo thủ vùng Missouri, John Ashcroft, xuyên tạc một cách thô bỉ về một vụ án tử hình của ông trước đó. John Ashcroft cũng là người từng tham gia đấu tranh kịch liệt yêu cầu bầu cử lại vị trí thống đốc bang của Mel Carnahan. White đã bỏ phiếu để ủng hộ 70% số án tử hình xảy ra trước đó. Trong hơn nửa số vụ ông bỏ phiếu để đảo ngược án, ông đã góp phần vào một quyết định đồng thuận dẫn tới xử tại Tòa án tối cao. Ashcroft bôi nhọ người đồng nghiệp phe Cộng hòa của mình bởi lẽ ông nghĩ việc này có lợi cho ông ta và sẽ tấn công được người ủng hộ của White là Thống đốc Camahan và những người bỏ phiếu ủng hộ án tử hình tại Missouri.

Ashcroft không đơn độc trong việc chính trị hóa hoàn toàn quá trình này. Cùng thời gian đó, Nghị sĩ Jesse Helms cũng đã từ chối không cho phép thượng nghị viện bầu ủng hộ một quan tòa người da đen vào Tòa phúc thẩm lưu động khu vực thứ 4, mặc dù từ trước đến giờ chưa bao giờ có người Mỹ gốc Phi nào được tham gia. Thế mà những người của phe Cộng hòa lại cứ thắc mắc rằng tại sao những người Mỹ gốc Phi không bỏ phiếu cho họ.

Sự khác biệt đảfrg phái ngày càng tăng, thậm chí đối với cả hiệp ước chống thử vũ khí hạt nhân vốn đã được tất cả lãnh đạo của cả hai phe Cộng hòa và Dân chủ luôn ủng hộ kể từ thời Eisenhower. Những nhà lãnh đạo chung đều ủng hộ hiệp ước này, và những chuyên gia hạt nhân cũng nói rằng không cần phải tiến hành các cuộc thử để kiểm tra khả năng sử dụng vũ khí của chúng tôi. Nhưng chúng tôi lại không nhận được hai phần ba số phiếu ủng hộ của các thượng nghị sĩ để phê chuẩn hiệp ước này, và Trent Lott còn cố buộc tôi cam kết không đưa vấn đề này ra cho đến hết nhiệm kỳ của tôi. Tôi không thể hiểu được liệu đó là do những nghị sĩ phe Cộng hòa đã cực đoan quá đối với quan điểm truyền thống của đảng của họ hay đơn giản chỉ vì họ không muốn tôi lại thành công một lần nữa. Bất kể vì lý do gì, việc họ từ chối không phê chuẩn hiệp ước chống thử vũ khí hạt nhân này đã làm giảm sức mạnh của Mỹ trong việc đàm phán yêu cầu những nước khác không được phát triển hoặc thử vũ khí hạt nhân.

Tôi tiếp tục tham dự các sự kiện chính trị cho Al Gore và phe Dân chủ, trong đó có hai sự kiện cùng với các nhà hoạt động cho quyền đồng tính vốn ủng hộ mạnh mẽ cả Al Gore và tôi vì chúng tôi tuyển dụng khá lớn những người công khai đồng tính nam lẫn nữ trong chính quyền, và vì chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ luật không phân biệt đối xử trong tuyển dụng cũng như đạo luật chống tội ác do thù hận, theo đó coi các tội có liên quan đến chủng tộc, khuyết tật hoặc xu hướng tính dục là tội liên bang. Tôi còn đi New York mỗi khi có thể để ủng hộ Hillary. Đối thủ đáng gờm nhất của cô ấy là thị trưởng New York Rudy Giuliani, một nhân vật gây tranh cãi và sẵn sàng tranh đấu nhưng lại ít bảo thủ hơn nhiều so với những nhân vật Cộng hòa ở tầm quốc gia. Tôi cũng có quan hệ lịch sự với ông ấy, chủ yếu là vì chúng tôi cùng ủng hộ chương trình COPS và các biện pháp an toàn sử dụng súng.

George W. Bush có vẻ đang giành được sự ủng hộ ngày càng lớn của những người Cộng hòa, một số đối thủ của ông ta đã bỏ cuộc, chỉ còn lại Thượng nghị sĩ John McCain cạnh tranh cùng ông. Tôi rất ấn tượng với chiến dịch tranh cử của Bush kể từ khi tôi nhìn thấy ông lần đầu tiên đọc rất dõng dạc bài phát biểu mang "màu sắc trung hữu" tại một khu trang trại ở Iowa. Tôi nghĩ bài phát biểu đó được trình bày rất tốt, hầu như chỉ với một lập luận duy nhất ông đã khiến những cử tri còn do dự bỏ phiếu chống chính phủ với tỷ lệ phiếu thuận là 65%. Ồng ấy không thể phủ nhận một thực tế là chúng tôi đã tạo thêm được triệu việc làm, nền kinh tế đất nước vẫn tiếp tục tăng trưởng và tội phạm tiếp tục giảm trong bảy năm liên tiếp. Nên thay vì phủ nhận ông đã gửi một thông điệp "trung hữu" tới những cử tri còn do dự là: "Tôi sẽ tạo cho các bạn những điều kiện tốt như các bạn đang được hưởng bây giờ, với một bộ máy chính qụyền gọn nhẹ hơn và cắt giảm nhiều thuế hơn. Các bạn có muốn như thế không?". Trong hầu hết các vấn đề, Bush đồng thuận với những nghị sĩ phái Cộng hòa bảo thủ mặc dù ông ta vẫn chỉ trích chính sách ngân quỹ gây khó khăn cho người nghèo bởi lẽ chính sách này tăng thuế đối với những người có thu nhập thấp bằng cách cắt giảm Tín dụng Thuế thu nhập trong khi lại giảm thuế cho những người Mỹ giàu có.