Chương 2
Những tảng đá bằng phẳng trọc lốc, trắng toát như xương người, những tảng đá chồng chất lên nhau. Trời xanh đến chóng mặt, và dưới chân bờ biển thẳng đứng cao hai trăm mét, lóa mắt. Đó đây, từng mảng ánh sáng chói chang không chịu nổi, nơi mà biển cưỡng lại sức thiêu đốt của mặt trời, phản chiếu những tia nắng bằng cường lực tập trung của kính hiển vi và sự mãnh liệt của sức nổ. Chiếc xe Rolls đậu trên khoảng bằng của một mỏm núi treo lơ lửng giữa không trung, lạc lõng trong cái quang cảnh nhức nhối vì sự vận động bị ngưng lại và thời gian tan thành chất lỏng. Phải nóng đến trên bốn mươi độ. Ườn ra trên đệm xe, Niki sởn gai ốc, hạ bớt cường độ máy điều hòa không khí. Quen tay, anh ta gài lại khuy áo va-rơi màu sắt xám, trên ve áo cổ đính huy hiệu “S.S”. Hai chữ viết tắt ấy đã là đầu đề trêu trọc anh ta của những tay lái xe khác. Họ đùa giỡn trách anh ta sao lại đi đeo loại huy hiệu ấy. Anh ta thừa biết phần lớn bọn kia ghen tị anh. Vì bọn đầy tớ, cũng như chó, thường đánh giá lẫn nhau qua giá trị của chủ chúng. Còn như khách qua đường, trong các thành phố, khi ngoái cổ lại nhìn, thì họ bị ấn tượng quá nhanh do sự sang trọng của cái xe nên chẳng tỏ ra được một ý nào khác ngoài sự thán phục quỳ lụy. Điều này làm Niki khinh miệt họ nặng nề thêm. Bên ngoài xe nóng đến độ nổ lép bép, nóng đến độ trở nên hữu hình, cái sức nóng đem lại cho khung cảnh bại liệt bị ánh sáng nuốt chửng này những sắc độ dịu đi bởi những rung rinh màu nâu nhạt và xám. Niki nghĩ trước khi S.S [1] tới, không biết còn đủ thời gian hút thêm một điếu thuốc nữa không. Chủ anh ta hút nhiều thuốc, nhưng chỉ cho phép có mùi khói xì gà Ha-ba-na, cho rằng hương vị da bọc đệm xe Rolls không hợp với mùi khói tầm thường của thuốc sợi vàng. Anh ta đang đưa tay lên túi áo bỗng ngừng lại. Mắt anh ta chạm vào mặt đồng hồ: đúng ngọ. Đã hai lần, anh ta thử đi vài bước ra bên ngoài, nhưng anh ta đành vội vã bỏ cuộc, choáng váng bởi sức nặng của cái nóng đè trĩu lên hai vai. Anh ta tự hỏi không hiểu sao một xứ nghèo đến thế này mà lại sinh ra một con người giàu đến như thế.
Lúc này thì ông ta sắp tới rồi. Niki đảo mắt nhìn bầu trời. Anh ta đã trông thấy nó. Một chấm đen hiện ra không biết từ đâu, như từ hư không đang tiến gần lại. Niki gài lại khuy áo va-rơi, sửa lại ca vát, mở cửa xe, nhảy ra khỏi chỗ ngồi. Máy bay từ từ hạ thấp theo một đường thẳng đứng giả định và hoàn hảo, trong tiếng kêu ầm ĩ của những cánh quạt hút không khí nóng bỏng. Nó đỗ xuống cách chiếc xe hai mươi mét. Khóa cửa máy bay mở, một người mặc bộ đồ bay nhảy xuống, chắc là Jeff, giơ tay ra mời. Liền xuất hiện một người đàn ông nhỏ bé mặc toàn đen, như sắp đi dự hội nghị giám đốc: quần áo bằng vải alpaga đen, ca-vát đen và sơ-mi trắng. Bên trên, cặp kính gọng đồi mồi to tướng che kín đôi mắt, tóc rất cứng, màu sắt gỉ, hắt ra những ánh xin xỉn. Niki nghĩ không biết liệu S.S có chào mình hoặc có một dấu hiệu, một động tác gì đó chứng tỏ ông ta không coi anh là một bánh xe của chiếc xe không. Nhưng chuyện ấy không hề có. Socrate Satrapoulos mải suy nghĩ, chui ngay vào chiếc Rolls, chẳng để mắt tới Niki. Khi người lái xe đã ngồi vào chỗ, Socrate chỉ buông ra có một câu: “Vào làng bên kia”. Tuy chẳng nhìn thấy một căn nhà nào, Niki cũng nhẹ nhàng mở máy và lái vào những ngoằn ngoèo đầu tiên của một con đường mòn lờ mờ trải đá. Đường leo dốc rất dữ và xe phải khó nhọc lắm mới giữ được ở số hai. Đi được ba kilômét, Socrate nói: “Rẽ trái”. Niki tuân theo. Bây giờ thì anh ta nhìn ra rồi. Tít trên núi, cheo leo ở tận đỉnh, có những thứ như những túp nhà quét vôi trạng; nhìn từ dưới lên thấy lẫn với những mỏm đá gồ ghề. Họ kiếm đâu ra nước ăn nhỉ? Đã tới gần, S.S nói: “Ngừng!”. Có thế thôi, và ông ta đã vọt ra ngoài, đang leo cái dốc dẫn đến những túp lều đầu tiên. Một đống đá lở làm khuất mắt ông ta.
Bước vào cái hẻm dài giữa những bức tường, Socrate không khỏi ngấm ngầm lo lắng. Chính trên cái mảnh đất khốn khổ này, ông phải chơi canh bạc của ông, trong lúc quân chủ bài trả đắt lắm mới; có được thì lại phải bỏ ở ngoài hành lang. Mỗi bước chân lại dẫn ông chìm sâu thêm vào một nỗi khó chịu không thể định nghĩa là gì, hay đúng hơn ông cũng có thể định nghĩa được lắm, nếu như không có một sức mạnh không kiểm soát nổi cưỡng lại. Ông tự cảm thấy trần truồng, yếu đuối, mỏng manh. Đôi giày đen, đôi giày giá ba trăm đô-la, bị xước ra bởi những hòn đá lửa nho nhỏ lấp lóa của con đường mòn.
Lúc ông còn là thằng bé con, một hôm ở ngoại ô Athènes trong một bãi đổ rác, nơi bọn con trai đã chọn làm bãi chơi tốt nhất, thằng Tony đề ra một cuộc thi, xem đứa nào trong bọn chúng đái xa nhất.
“Có lấy đà chứ?” - Socrate hỏi - “Không được lấy đà!” - Bọn chúng trả lời - Phải tranh luận dài dòng mãi để làm rõ những luật lệ kiểm soát cuộc thi tài. Socrate nhận định chính xác rằng nếu thằng Tony đề ra cuộc thi thì chắc chắn nó khá tự tin vào tài của nó để có thể thừa sức thắng cuộc. Và Socrate thì không thể chịu được chuyện ai hơn mình trong bất cứ thứ gì khi có mặt mình ở đó. Trong lúc đang cãi cọ om xòm, hắn nghĩ rất lung tìm cách khỏi thua. Hắn đã tìm ra: “Tao chưa mắc đái, tao vừa mới đái cách đây mười phút”. Chúng nó bảo là hắn định chuồn. Hắn cãi lại không phải hắn, mà chính thằng Tony đã đề ra cuộc thi tài. “Vả lại - Hắn nói thêm - tao cũng chỉ mong được dự thôi. Chúng mày khoan cho tao một lúc, đủ thời giờ về nhà uống nước, tao trở lại ngay!”. Rất cao thượng, bọn kia đồng ý.
Socrate lao qua quảng trường bên cạnh bãi đất hoang, chạy tuốt vào căn phòng của bà cô ruột. Bà ta đang phơi quần áo ở sân trong, kêu toáng lên: “Có chuyện gì thế?” Socrate lục lọi cái hộp khâu, làm rơi tung những cuộn chỉ, những kim băng, những thước đăng ten, và vớ được cái vật hắn định tìm. “Cháu đây mà!” - Hắn trả lời. Hắn chỉ còn nghe thấy: “Liệu mày có thể nói cho tao biết...”. Phần cuối câu nói lọt thỏm mất, vì hắn đã chui vào nhà xí đóng chặt cửa lại, nếu như có thể gọi là nhà xí, một tấm xi-măng chọc thủng một lỗ. Ở trong đó, hắn làm một việc bí mật khiến hắn nhăn mặt cau có.
Khi hắn trở lại bãi đổ rác, hắn mới hay mọi người đã thỏa thuận rằng các đối thủ sẽ dựa lưng vào hàng rào, và lần lượt từng người một đái. Chiều dài của tia nước đái vọt ra sẽ được tính rất cẩn thận bằng một loạt dây do những đối thủ khác làm trọng tài đo. Socrate tuyên bố đồng ý. Và cuộc đọ tài bắt đầu. Trong lúc hắn vắng mặt bọn kia đã làm những lá cờ nhỏ bằng các que gỗ và một mảnh giấy. Những lá cờ nhỏ được cắm trên đất rất nhanh, quanh các bãi nước đái. Đến lượt Socrate.
“Mày che dái à?” - Bọn bạn hỏi, ngạc nhiên vì vẻ ngượng ngùng thái quá mà hình như theo chúng thì không hợp lệ trong một cuộc đọ sức quan trọng đến thế này. Tựa lưng vào những tấm ván cũ, Socrate chẳng nói chẳng rằng, tập trung sức lực, tính toán hết cỡ máy của mình, bất chấp tia nước đái lượn cầu vồng kỳ diệu của Tony. Thấy như người hắn phình ra thật do ảnh hưởng của hai hành động ngược nhau: nhịn đái và rặn đái, cả hai hành động làm cùng một lúc rất dữ dội. Hắn ta giữ thăng bằng vài giây nữa, rồi phóng bung ra. Tony thua cuộc. Lát sau, kẹt cứng vì thắng cuộc, Socrate không làm sao thoát khỏi bạn bè để chuồn ra một góc, tháo sợi cao su buộc chặt lấy dái làm hắn đau đớn. Chẳng bao giờ hắn kể lại chuyện ấy với ai. Nhưng tại sao lúc này, câu chuyện ấy lại đến trong trí nhớ ông, khi mà trong cả một quãng đời dài, chiến thắng, ông vẫn phải dùng mưu đỡ cho cái thể lực thua kém của mình?
Bà cụ ở cái chuồng thỏ nào trong loạt chuồng kia? Ông hỏi một người đàn ông - ông đoán ra hơn là nhìn thấy - ở sau tấm bao tải làm cửa căn lều: “Nhà bà Athina?”. Người đàn ông gạt tấm bao tải sang một bên, ngắm nghía Socrate và chỉ lên đầu đường: “Nhà cuối cùng”. Socrate cảm ơn bằng một cử chỉ mơ hồ. Chỉ vài thước nữa, và có thể tất cả sẽ được gỡ ra. Hoặc thêm rắc rối gay go, ông chẳng biết nữa. Chẳng ai chọn lựa được trận địa khi cuộc đời đặt ra những giây phút quyết định. Socrate chắc chắn là một trong những kẻ giàu nhất thế giới, nhưng trong ngôi nhà nát này, những tỉ bạc của ông lẫn chục ngàn người làm thuê của ông đều không có nghĩa lý gì hết, càng không có nghĩa lý hơn những đoàn tàu thủy chở dầu của ông, những mỏ kẽm, mỏ vàng, những ngân hàng của ông, những luật sư, những chính trị gia cầm quyền và bọn tay sai của ông. Bây giờ, ông đứng ở cửa như một gốc nho cằn đen ngòm trong những tia mặt trời chói chang. Và ông không dám quyết định bước vào, lưỡng lự, khốn khổ, hoang mang, lóng ngóng, mất hết oai phong. Như ở căn nhà ông ta dừng lại hỏi đường, ở đây cửa ra vào cũng được che bằng một mảnh bao tải rách. Nếu có ngữời trong nhà, chắc người đó đang quan sát ông ta. Một tiếng động vẳng ra, tiếng bẻ cành cây khô làm củi. Ông ta chần chừ một giây cuối cùng nữa và nói bằng một giọng chính ông ta cũng không nhận ra được nữạ: “Có ai không?”... Không có tiếng trả lời, vẫn cái tiếng bẻ cành khô răng rắc.
Cao giọng hơn và yên tâm hơn; ông ta nhắc lại: “Có ai không?” Giọng một bà già hỏi: “Ai đấy?” Socrate vung tay gạt tấm bao tải. Trong khoảnh khắc, bộ mặt ông biến đổi hẳn: từ trĩu nặng ưu tư thành hòa nhã, thân mật, từ lo sợ thành thoải mái. “Có vào được không ạ?”. Ông vừa hỏi vừa cười khoáng đạt. Đôi mắt ông cố nhận ra những chi tiết nhưng chỉ nhìn thấy những hình thù lờ mờ, có lẽ là một cái lò sưởi và một bóng người đứng trước cái lò sưởi đó. Ông bỏ kính ra. Không có kính, mặt ông lấy lại những kích thước nguyên cốt: một cái mũi, một cái mũi kỳ lạ, hình như không ăn nhập gì hết với các bộ phận khác trên mặt, tựa hồ cả bộ mặt đã chọn lấy cái mũi ấy làm chỗ đến quây quần ở chung quanh đó y như ở các làng quê, nhà dân được sắp đặt quanh nhà thờ vậy - những cơ mặt bám lấy nó, hố mắt bắt đầu từ đó, vòm trán tựa lên nó. Dĩ nhiên, cái mũi của S.S đã nổi tiếng khắp thế giới. Những người quen thuộc ông cho rằng mũi như thế thì dái phải ngoại cỡ đây. Điều ấy thật ra chẳng phải là một chuyện hoang đường gì, nhưng cũng không đúng hẳn như thế. Với một vài người thân, khá suồng sã để có thể hỏi những câu dễ làm ngượng nghịu, nhưng lại làm cho ông thầm khoái trá, Socrate trả lời bằng một cử chỉ đầy vẻ bối rối, một cử chỉ và những cái lắc đầu nói là không phải, trong lúc nụ cười và nét mặt ông lại kêu lên là rất đúng! Để bù đắp lại cho phần dưới sự thăng bằng của một bộ mặt quá nặng phần trên, hai vết nhăn rất sâu đóng khung lấy cái miệng, một cái miệng rộng, đầy đặn, đôi môi sẵn sàng mím lại khi bàn chuyện làm ăn, nhưng lại tham lam, ngây thơ và ngốn ngấu trong tình ái.
Bây giờ thì ông ta đã nhìn rọ bà già. Bà cụ ngừng bẻ củi. Bà cụ nói:
- Ông là ai?
Socrate ngọt ngào:
- Bà không nhận ra tôi ư?
- Ông muốn gì?
- Kìa...
- Tôi đã nói hết với các ông rồi.
- Nói với tôi ấy ư?
- Ông và những người khác, các ông tới đây cũng vì một chuyện ấy thôi.
- Không phải tôi. Tôi là Socrate.
- Ai thế nhỉ?
- Socrate mà!
- Socrate? - Socrate nào?
- Thôi mẹ ơi, mẹ đã nhận ra con rồi...
Bà cụ đứng lặng, bàng hoàng, không hiểu gì nữa.
- Mày là Socrate à?
- Thì con đã nói với mẹ rồi mà.
Không chủ tâm, giọng nói Socrate dịu hẳn đi. Và ông ta bực mình vì chuyện đó. Nhưng con người tàn tạ này, con người đen đủi giống hệt những cành củi khô bà ta đang bẻ, chính là mẹ ông. Ông không thể tưởng tượng được rằng nhìn thấy ông, bà cụ lại không nhận ngay ra ông, rằng tiếng nói của huyết thống - câu bịp ba láp ấy - lại không thể giúp ích được cho ông. Thật ra vào cái ngày tháng Tám năm 1952 này, tính ra ông đã không gặp lại mẹ đúng ba mươi năm. Con người thay đổi... Ông ta như nhìn lại thấy căn nhà bé tí, nơi ông ta đã được nuôi dạy, trong làng Moutalaski mất hút trong cái xứ Cappadoce cổ xưa ở Thổ Nhĩ Kỳ. Và một căn nhà khác, sau này ở gần Salonique. Ông cũng nhớ lại căn phòng ở chân núi Pirée, sau Nikéa, cuối phố Ikonioy, hai người chị, ông anh. Bà mẹ đã bỏ bốn anh em ông ở nhà một mình suốt ngày để đi làm thợ dệt trong cái cửa hiệu bán đồ len dạ. Nhớ lại ông bố Alexandre luôn mơ màng những chuyện xoay xở oái oăm để trở thành chủ tàu, trong lúc sống thoi thóp bằng cách thuê vài người thợ lặn lấy bọt biển. Và một cái làng khác, ở Thổ Nhĩ Kỳ, lúc ấy Socrate còn mới gần như một đứa trẻ ẵm ngửa, nơi những chuyện khốc liệt hình như đã xảy ra, những chuyện đôi khi làm cho ông xót xa âm thầm mà không thể nói rõ là những chuyện gì. Trong khoảnh khắc ấy không phải chỉ những hình ảnh hiện lên, mà cả những mùi vị, đánh dấu cái không gian trong đó có những đường trục chính của cuộc đời Socrate. Nhất là cái mùi của phòng cắt tóc, vào một giai đoạn khác, trong một khu phố khác, gần Smyrne, một cái mùi lẫn lộn màu hoa tím, mồ hôi, hơi nước, kem cạo râu rẻ tiền, lúc người đàn ông choàng vào cổ khách những chiếc khăn mặt mà người vợ, mỗi thứ hai hàng tuần, khi cửa hàng đóng cửa nghỉ mới lại đem giặt, luộc.
- Họ đã tới đây - Bà cụ nói.
- Con biết. Chính vì thế mà con có mặt ở đây, mẹ ạ.
- Họ muốn gì tôi?
- Họ muốn làm hại con, dùng mẹ làm hại con.
- Tôi không thể làm hại anh. Tôi không thể giúp đỡ gì anh hết. Tôi không biết anh là ai cả.
- Con thì con có thể giúp đỡ mẹ.
- Thế thì bẻ hộ củi đi.
Socrate nhặt vài cành củi. Ông ta cố bẻ một cách vụng về.
Bà cụ Athina giằng lấy những cành củi ở tay ông. Sức bà cụ thật bất ngờ ở cái tuổi ấy. “Đưa đây! Hình như xưa kia, tôi cũng có một đứa con trai, nhưng nó đã chết cách đây ba chục năm rồi. Còn nếu như anh là thằng con trai ấy thì tôi chẳng yêu cầu ở anh điều gì hết, kể cả chuyện nhìn thấy mặt anh!”
- Mẹ...
- Mẹ!... Anh đã đợi suốt ba mươi năm để xem tôi còn sống hay không! Anh lại làm thêm một trò lếu láo gì nữa rồi?
- Mẹ đã nói với chúng nó những gì!
- Tại sao anh quan tâm tới chuyện ấy? Anh đã kiếm được công ăn việc làm tử tế chưa? (Socrate không nhịn được, thoáng mỉm cười). Tôi biết anh sẽ chẳng ra gì hết mà, tôi đã nhắc đi nhắc lại chuyện đó với anh từ ngày xưa kia!
- Có lẽ mẹ đã nói quá nhiều về chuyện đó...
- Còn thằng anh của anh, anh có giúp đỡ cho nó không? Còn bố anh nữa? Anh cũng chẳng thèm về đưa đám! Còn tôi, anh thử nhìn xem tôi sống ra sao đây này!
- Con cũng muốn giúp đỡ bố đấy chứ! Nhưng chính mẹ, mẹ đã từ chối...
Tự nhiên tiếng “mẹ” ấy làm ông ngượng mồm. Danh từ ấy làm ông nghẹt thở đến nỗi ngay chính vợ ông, khi đã thành người mẹ, cũng không còn gợi ra được ở ông một thèm muốn gì nữa. Ngay đến cả chuyện làm tình cũng không thể làm được nữa. Tiếng thét của bà cụ xoáy vào tai ông:
- Tôi không mong gì ở anh cả! Chẳng ai mong đợi gì ở anh hết! Anh hãy giữ lấy những thứ anh định giúp tôi, tôi chẳng cần gì đến những thứ ấy! Không có anh, tôi cũng xoay xở sống được. Tôi sẽ tiếp tục xoay xở để sống!
- Mẹ đã nói với bọn chúng như thế à?
- Tôi không phải thú tội gì với anh hết! Anh đã muốn sống không có bố mẹ thì cứ tiếp tục sống như thế đi!
- Mẹ không thể hiểu được...
- Bố anh đã nói anh có những ý nghĩ điên rồ! Ông ấy nói đúng đấy! Anh đã làm mọi người chung quanh phát điên lên vì anh.
Socrate nắm hết sức chặt các ngón tay vào một thanh củi, thanh củi như chống lại và không chịu gãy. Như hồi lên bảy tuổi, ông ta chỉ còn biết lắp bắp.
- Mẹ... con xin mẹ...
Và ra ngoài ý ông, ông thét lên những lời sau cùng của câu nói dang dở:
- Mẹ chẳng bao giờ săn sóc tới con hết! Mẹ yêu thằng anh con hơn!
Bây giờ thì bà cụ khóc, những tiếng khóc khô khan như tiếng kim khí, quái lạ trong một cái cổ họng tàn tạ như thế.
- Cút đi! Cút đi! Đừng có bao giờ trở lại đây nữa!
- Mẹ hãy nghe con nói đã!
- Cút đi!
Bà cụ vung tay chỉ ra cửa. Bà cụ cố tìm ra cái chữ mà bà cụ có thể nó cho đích đáng, đến nơi...
- Mày là một... một đứa bại hoại hư hỏng!
Bằng bản năng, bà cụ đã tìm lại được câu nói quen thuộc: “Bại hoại hư hỏng”. Bản thân câu ấy tự nó chẳng có nghĩa gì, nhưng ở miệng bà cụ, cộng với những kỷ niệm sống lại, nó đã biến thành câu nói ác mộng đối với Socrate, câu nói làm tan nhà nát cửa, làm ông vùng lên cưỡng lại xưa kia.
Khi ông rời nhà ra đi, ông mới mười sáu tuổi. Suốt bốn năm liền, ông say sưa với cái tự do hoàn toàn mới mẻ, và khoái trá vì đã vượt được ông bố, đóng lấy vai trò của mình, sống với những ước mơ của mình, thành công ở những điều ông bố thất bại. Những chuyện đó hình như cũng không làm bà mẹ vui mừng lẫn xúc động. Thất vọng và hơi khó chịu vì sự thờ ơ của người khán giả độc nhất mà ông mong làm cho phải ngạc nhiên, rồi chẳng biết phải chứng minh chuyện gì cho ai nữa, rồi mong muốn giữ được uy tín mà vẫn bắt buộc kiêu kỳ, ông đã tự cho phép mình được chơi sang bằng cách gửi tiền về cho bố mẹ trong vài năm. Bây giờ nghĩ lại chuyện đó, ông mới thấy rõ gửi tiền về chính là để chứng tỏ ông có tiền, và làm cho gia đình cảm thấy uy thế trẻ trung của ông, chứ chẳng phải chuyện hiếu đễ, bổn phận làm con gì hết.
Thế rồi mọi chuyện như cơn gió lốc, công cuộc làm ăn đầu tiên, cái tàu thủy đầu tiên, tỉ bạc đầu tiên, người vợ đầu tiên. Bà cụ, người đàn bà xa lạ mặc toàn đồ đen coi ông là thằng bé ranh nứt mắt kia hiểu sao nổi khúc ca khải hoàn đó. Thì chính ông, ông có hề chọn bà cụ làm mẹ đâu? Và ông biết làm sao, khi đáng lẽ đặt tên ông là Machiavel, thì bà cụ lại đặt là Socrate? Ở trình độ bà cụ, bà cụ làm sao quan niệm - không nói quan niệm nữa, đến tưởng tượng cùng không được sự thăng tiến đặc biệt khác lạ của ông? Ngay từ buổi đầu, thành công lúc ấy còn mỏng manh, nhưng chỉ đời nảy nở mãn khai, ông đã coi gia đình như một quả tạ, một cục gang kéo ông chìm xuống. Trong những ngày tự nghi ngờ bản thân, khi ông tự hỏi: không biết mình có phải như Icare đã bay lên quá cao hay không? Thế rồi đến hôm nay, tiếp sau một trò xỏ xiên, đểu cáng, số phận ông lại gắn liền với tính khí thất thường của mụ nông dân già này. Mụ nông dân mà ông mong muốn dữ dội vứt ra khỏi ký ức của ông. Tại sao ông không được mồ côi như bao nhiêu kẻ khác nhỉ?
Bà cụ đã nói gì với những tên kia? Và nếu bà cụ đã nói, thì Kallenberg sẽ phải mất bao nhiêu thời gian để khai thác những lời nói đó?
- Cút đi!
- Một lần cuối cùng...
- Cút ngay cho mau, nếu không...
Không thể nào ngờ được! Bà cụ Athina đã nắm lấy một cái gậy và dọa đánh ông!
- Đừng có bao giờ về đây nữa! Và nếu tao chết trước mày, tao cấm mày đi đưa đám tao? Tao nguyền rủa mày!
S.S tái mặt. Chẳng biết cái vị tanh tanh trong miệng ông có phải là do hàng ngàn lời chửi rủa chen lấn, quay cuồng mà ông không thốt ra được không? Chửi được thì thật hả hê, chửi hết những điều đó thẳng vào mặt mụ ta. Nhưng chẳng có lời nào buột ra cả. Ông quay người bước qua ngưỡng cửa. Điên dại, ông cố bẻ gãy thanh củi trong tay. Thế là ông lại phải chờ đợi buổi dạ hội ở nhà Kallenberg tại Luân Đôn hàng giờ nữa rồi mới biết được là nên bấu víu vào đâu.
Người ta có thể nói đủ điều về Raphaël Dun, chỉ trừ một điều là anh không đẹp trai. Cao lớn, mảnh dẻ, tóc hơi điểm bạc, anh cử động uyển chuyển như thú vật, dễ làm phụ nữ phải chú ý tới. Đã ba mươi hai tuổi, anh vẫn còn sự hấp dẫn cám dỗ của trai mới lớn bằng sự ngơ ngác giả vờ và những bấp bênh, sự lật lọng và những trò ngông. Đôi lúc, anh tự hỏi không biết trời còn thương tới bao giờ nữa. Hoàn toàn trần truồng, anh đứng vươn mình trước tấm gương đồ sộ phủ kín cả một mảng tường, trong phòng ngủ của anh ở khách sạn Ritz. Anh luôn luôn bị những đại khách sạn mê hoặc, nhất là tòa khách sạn ở quảng trường Vendôme. Bị mê hoặc đến nỗi những khi thua bạc không còn khả năng ở đó nữa, để khỏi phải ở quá xa nơi ấy, anh đã thuê một căn phòng nhỏ độc thân ở tầng bốn một ngôi nhà phố Cambon, đối diện với tiệm rượu Bar-Bleu. Những ngày may mắn, anh chỉ cần gọi điện thoại cho phòng tiếp tân cử đến một tên bồi xách va-li cho anh. Còn bản thân anh, đổi hè phố là đã đổi sang thế giới khác.
Giấy chứng minh của anh ghi: “Nghề nghiệp: Nhà báo”, thực tế, anh chẳng phải phóng viên, cũng chẳng phải nhiếp ảnh, tuy anh có mầy mò làm cả hai nghề đó, lúc thành lúc bại. Có lẽ vì thế nên người ta đánh giá anh như anh tự đánh giá mình: phóng viên tầm cỡ: Cái quy chế đa giá trị, không mùi vị, hơi tâng bốc và đến đâu cũng lọt mà sự thiếu chuyên môn hóa đã làm cho nó trở thành cần thiết trong một môi trường xã hội cũng đa giá trị đến mức rất cao. Một môi trường mà sự mờ ảo là chuyện bắt buộc. Trong môi trường đó không thú nhận những cái mình biết làm, hoặc tốt hơn vừa cười vừa thú nhận mình chẳng biết làm gì cả, điều đó lại có nghĩa là mình có thể làm bất cứ việc gì.
Raphaël Dun đã xây dựng cuộc đời mình trên sự lập lờ ấy. Bố mẹ ạnh bán hàng ngũ kim - đúng là chẳng có nghề nào là nghề ngu cả. Nhưng anh vẫn giấu kín nguồn gốc của mình như một dị tật. Vì phải tế nhị với bạn bè, nói ra gốc gác đó, sợ bạn bè chướng. Khi anh tự hỏi biết làm thế nào để thoát ra khỏi cái tổ ong vò vẽ ấy thì thẳng thắn và hoàn toàn khiêm tốn mà nói, anh chịu không tìm ra được câu trả lời. Có lẽ nhờ may mắn, và một sự thính nhạy vô song, anh đã tìm ra mình phải bấu víu vào ai, bấu víu vào lúc nào. Và dứt khoát không gặp lại những ai làm vướng víu anh trong những vị trí anh vừa mới đạt được ngay tức thì. Tính tự nhiên của anh bắt nguồn từ toán học: mỗi nụ cười, mỗi cái nháy mắt, mỗi cái bắt tay đều có liều lượng và được cân nhắc chính xác như đưa lên cân điện tử. Raph (gọi tắt Raphaël) chia thế giới làm hai loại người: loại có thể phục vụ anh và loại khác. Rất đúng quy tắc, anh chỉ đi lại với loại thứ nhất. Vì không có tài cán gì, ngoài việc chơi bợm bài pô kơ, anh đã xây dựng cho mình một danh tiếng trọng tài rất béo bở. Xem một bộ phim, người ta nói: “Còn Dun, anh nghĩ gì về bộ phim này nhỉ?”.
Nói về một họa sĩ, người ta phát biểu: “Phải đưa Raph tới xem tranh của ông ta mới được!”.
Căn cứ địa chỉ của anh là New York. Nơi nghỉ mát của anh là Acapulco và thành phố tâm đắc là Roma. Anh sinh ra ở Paris, phố Folie Regnault, phường Charonne.
Vào lúc Raph Dun sắp mười sáu tuổi (khó nhọc lắm anh mời lấy được cái bằng tiểu học), một hôm anh khoác cái áo choàng màu xám của những người bán thuốc tây [2], như ông bố đứng trong tiệm của mình. Một cái xe hơi rất sang trọng bị đâm bẹp gí ngay trước cửa tiệm. Trong lúc người ta đi gọi cảnh sát cấp cứu, anh bước ra khỏi tiệm, lại gần để xem cho rõ. Mui xe gần như lồng hẳn vào gầm một cái xe tải nhỏ chuyên chở rau. Ở tay lái, có một người phụ nữ trẻ, đẹp tuyệt vời. Mặc dù vết máu loang trên mặt cô ta, anh nhận ngay ra đó là Clara Marlowe, nữ nghệ sĩ điện ảnh mà anh ta ưa thích nhất. Xúc động, anh muốn đến gần hơn nữa, nhưng bị một cảnh sát giao thông đứng canh xe đợi bạn đồng nghiệp, đẩy mạnh lùi ra xa. Xe ca chở cảnh sát đã tới, và tiếp theo ngay tức thì, một chiếc xe cấp cứu lớn, trong đó những người y tá mặc áo trắng được cảnh sát tiếp tay, khiêng cô gái lên. Như mọi người ở xung quanh: nói thì Clara Marlowe chỉ bị thương thôi, nhưng cô ta say rượu, túy lúy.
Ngày lức đó, Raph chưa biết rằng tai nạn kia đã quyết định cả tương lai anh. Một giờ sau, hai thanh niên trẻ, đẹp trai, lừng khừng, đẩy cửa tiệm bưởc vào. Họ tự giới thiệu là phóng viên của tờ “Paris buổi chiều”. Nói chuyện với Raph - lúc ấy anh chưa là Raphaël Dun mà còn mang tên thật Paul Gueffier họ hỏi kỹ các chi tiết về vụ xe đâm nhau. “Xin mời sang tiệm rượu bên kia uống một cốc và kể lại cho bọn tôi nghe”. Ông bố anh chẳng dám nói gì hết. Anh cởi chiếc áo choàng màu xám và đi theo họ. Lúc đó người ta vừa tuyên chiến với Đức, cuộc đời chẳng vui vẻ gì. Cả tiệm bàn tán được cũng vậy. Ông bố thì ỉu xìu. Khi họ ngồi vào bàn, Paul (sau này là Raph) bị choáng ngợp bởi vẻ thoải mái của hai anh chàng chỉ hơn anh có tí tuổi. Anh thì chưa bao giờ dám đẩy cửa bước vào tiệm rượu. Còn họ, họ xử sự như đã quen thuộc tiệm rượu này từ bao giờ rồi, tuy anh ta biết chắc rằng chưa bao giờ họ vào đây. Khi đã moi hết các điều bí mật mà họ cần biết, họ cảm ơn anh. “Này cậu, cậu tinh lắm! Cậu có thể thành một nhà báo cừ đấy! Bọn này đi đây. Ở lại nhé! Người ta đang đợi bọn này ở Cannes tối nay”. Thế đấy. Cũng chẳng cần thêm để hun nóng đầu óc anh ta và để anh ta ném vào mặt bố mẹ cái danh từ to lớn: “Thiên hướng” khi bố mẹ trách anh ta lơ đãng lúc tiếp khách hàng...
Chỉ bốn giờ đồng hồ nữa, anh đã ở trên máy bay đi Luân Đôn. Lịch sự, Kallenberg đã đề nghị anh dùng chiếc phản lực riêng của anh ta. Raph đã khôn khéo từ chối. Đúng chín giờ tối không hơn không kém, trong bộ lễ phục cắt tại tiệm Cardin - bộ lễ phục ba lần thử, do đích thân bậc thầy xem xét - anh sẽ bước vào biệt dinh kỳ diệu của Kallenberg, so với biệt dinh ấy thì Lâu đài Buckingham chỉ như một ngôi nhà cổ ảm đạm, hào nhoáng mà lại vô duyên. Buổi dạ hội ấy hứa hẹn sẽ thành một buổi dạ hội đáng ngạc nhiên nhất trong các buổi anh đã từng dự, tuy rằng anh đã trải qua các loại dạ hội như thế này từ bao nhiêu năm nay rồi.
Thằng bé Spiro đang đập hạnh nhân. Nó ngồi, ngay trên mặt đất, cạnh một mảng rêu mà từng đoàn quân kiến lửa đi vòng qua để tránh. Trên đùi chú bé, một lọ mật ong nhỏ, bên phải, đặt ngay trên đất, hạnh nhân. Bên trái, những mảnh vỏ. Khi được kha khá hạnh nhân rồi, chú bé dùng, một cái que trộn với mật ong. Đôi lúc, chú ta phải đuổi ba trong số bốn con dê của mình, đập khẽ vào mõm chúng khi chung xán quá gần tới món chiến lợi phẩm. Khóe mắt Spiro liếc nhìn một con thằn lằn xanh lớn choáng váng vì nóng, nằm trên tảng đá trắng, chỉ cách chú ba mét. Trò chơi là không được động đậy, cả chú ta và con thằn lằn. Hễ chú bé hơi động dậy, con thằn lằn sẽ lao vút đi như một mũi tên. Muốn đến gần để bắt được nó, phải di chuyển bằng đít, không được vươn người ra, khẽ nhích từng tí một. Đối với loài thằn lằn, thú nhất là có thể lấy que cứng xóc từ đầu đến đuôi. Bị que xóc như thế, lúc chúng chạy, chúng sẽ cứng đờ như những con rết nom rất ngộ. Vì lười, Spiro cũng đã tính tới chuyện dùng đá ném con thằn lằn. Nhưng ném đá, nếu không trượt, thì lại mất cái thú dùng que xóc suốt người con vật. Chú bé đang ngần ngừ trong sự chọn lựa gai gốc ấy thì một đàn kiến đổi đường đi, xếp hàng chặt chẽ, tiến thẳng về phía những hạt hạnh nhân. Đúng lúc đó, Spiro nhận ra ba sự việc cùng xảy ra: sự tiến quân của đoàn kiến, con thằn lằn bỏ chạy, và tiếng động cơ xe hơi. Suốt ba tháng, chú bé chẳng trông thấy một cái xe hơi nào hết. Thế mà chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ, đây là chiếc xe thứ ba tới phá tan cái im lặng của vùng núi của chú ta. Ấy là chưa nói tới những máy bay trực thăng. Ông chú của Spiro, đã từng đi lính thủy, nói cho chú bé biết tên gọi những loại máy bay kỳ lạ ấy. Cũng ngày hôm qua, hai lần liền, máy bay đã đỗ xuống cái mỏm nhọn nhìn xuống bờ đá, cao tít trên mặt biển. Xúc động, Spiro vứt vội những hạt hạnh nhân vào lọ mật ong, đặt xuống gốc cây ô liu, và chạy ra một mỏm đá khô ráo, nằm ẹp xuống.
Bên dưới một trăm thước, chú bé nhìn thấy chiếc xe hơi leo dốc, lượn theo những đường ngoằn ngoèo như một con sâu bận bịu. Khốn thay, chú bé không nhìn thấy những người đi trong xe. Hôm qua, chú được thấy rõ không bỏ sót một tí nào những người lạ mặt, hai lần từ trên trời đổ xuống, lao vào những chiếc xe, chạy về phía làng chú ta, rồi quay trở lại chỗ xuất phát và biến vào bầu trời. Khi bị chú bé hỏi, ông chú chỉ nói đó là máy bay lên thẳng, không chịu giải thích tại sao nó đỗ xuống đây. Ông ta còn nhấn mạnh với Spiro là phải quên những điều trông thấy đi. Bây giờ chiếc xe đã biến mất trên đỉnh dốc. Phía sau dốc là căn nhà của chú bé, nép mình giữa các căn nhà khác. Chú bé chăn dê vừa ngẫm nghĩ vừa rời vị trí quan sát, quay lại gốc ô liu. Khốn khổ rồi! Bọn dê đã ăn hết hạnh nhân, liếm hết mật và để cái lọ lại cho bọn kiến đang bò nhổn nhổn trong đó. Cáu kỉnh, Spiro thét lên, đập cái lọ vào tảng đá vỡ tan, nhặt một cái gậy dài, đuổi theo những con dê. Mấy con dê đang tản mạn trên một sườn dốc thoai thoải đầy những cây khổ sâm, và hình như đang chọc tức chú bé.
Lena Satrapoulos nhìn trộm Marc. Thế là đến mười phút, họ không nói với nhau lời nào. Từng người vờ chìm đắm trong suy nghĩ, lơ đãng nhấm nháp những thức ăn trong đĩa. Gà tơ nhúng nước sôi trên đĩa cô ta, bít tết kiểu tartare trên đĩa anh ta. Dưới gầm bàn, theo thói quen, Lena đã tháo giày bên phải ra. Nhưng bàn chân Marc không tới đặt lên bàn chân cô. Qua chỗ trống của gác thượng, người ta nhìn thấy lâu đài đúc tiền, bên kia bờ sông Seine.
Dòng sông chạy trên bờ kè lâu đài Louvre, băm vụn bức tranh xa vời vàng rực ấy. Đôi lúc, đèn đỏ ngừng xe làm cho bờ sông im lặng vài giây. Lúc đó mới nghe thấy tiếng chim nhiệt đới ríu rít trong lồng ở cái cửa hiệu giáp vách với tiệm ăn, đáp lại những tiếng chim sẻ vô hình trong các cây tiêu huyền mà lá mọc rậm đến độ không ai có thể nghĩ rằng một ngày nào đó lá có thể rụng được.
Lena tuyệt vọng, cố tìm cách phá tan cái bình phong ác cảm vừa buông xuống giữa hai người. Cái bình phong gần như trông thấy được, mà đường biên giới vô hình chạy qua lọ mù tạt, len lỏi đến tận đáy chai rượu Château-Lafite để kết thúc ở góc trên cái bật lửa của Marc. Kể cũng lạ, cũng một chuyện như thế đặt vào một hoàn cảnh khác lại có thể có một ý nghĩa ngược lại. Sự im lặng của chồng cô ta càng cho phép cô thoát khỏi sự có mặt của chồng bao nhiêu, thì sự im lặng của người yêu lại càng làm cô đầy ứ lên những ý nghĩ về anh ta bấy nhiêu. Phải nói rằng S.S dưới lớp vỏ ông vua độc đoán, là một người lo lắng kinh niên. Ông lao vào việc, nói năng vội vã như đi tìm một nơi trú ẩn. Có khi, sợ người ta ngắt lời, ông ta vừa uống vội vừa huơ huơ mạnh tay để người nghe hiểu rằng ông ta chưa nói hết lời.
Lena nhớ lại hoàn toàn ngày gặp Socrate lần thứ nhất. Chuyện ấy xảy ra bốn năm sau khi bố cô chết. Lúc ấy, Lena còn là một cô bé mười ba tuổi. Socrate đã gần bốn mươi. Cô bé vào phòng làm việc của mẹ để lấy một cuốn vở học mà cô muốn xem lại. Ở một trong những cái ghế bành đồ sộ dành cho khách, cô vừa đi qua đầu một điếu xì gà cháy đỏ và hai chiếc giày đen bóng loáng không thể tưởng được. Rồi một người đàn ông nhỏ bé mặc toàn đen, tóc màu gỉ sắt, rất kỳ lạ, đứng dậy và cô thấy một cái mũi, không phải khôi hài, nhưng quả không phải loại mũi bình thường. Vì chẳng ưa gì loại đàn ông bốn mươi tuổi, nên Lena chỉ nhún chân chào khẽ một cái, cầm lấy cuốn vở mẹ đưa cho và trở về phòng của cô. Ở đấy, bà nữ phó người Anh đang đợi cô. Ở Hy Lạp, theo truyền thống, các bà nữ phó đều là người Anh. Vì tiếng Anh là thứ tiếng đếm tiền tốt nhất. Nếu có ai nói với Lena rằng một ngày kia, cô sẽ thành vợ người đàn ông bé nhỏ đó thì... Ấy thế mà...
Sự việc tiếp theo, cô đã dựng lại được một phần nhờ những lời S.S tâm sự với cô; một phần nhờ đối chiếu những lời cửa S.S với những lời kể lại của mẹ. Những chỗ thiếu thì cô đoán ra. Lúc cô bước ra khỏi phòng, Socrate đã đứng thẳng, im lặng, không nhúc nhích, như thoát khỏi thời gian. Rồi rơi trở lại mặt đất, ông ta hơi ngượng vì cảm thấy cái nhìn của bà Médée Mikolofides nặng trĩu trên người. Ông đã hỏi với sự sỗ sàng cho thấy ông quá xúc động: “Thưa, con gái bà bao nhiêu tuổi ạ?” - “Mười ba tuổi!”, bà ta trả lời. “Ông hỏi làm gì?”. Socrate ấp úng: “Cô ấy... cô ấy thật... Tôi thấy cô ấy đẹp”. Bà mẹ Lena, ít nhất cũng tinh tế như người khách đối diện, mau mắn lái câu chuyện chuyển sang hướng khác. Hôm sau, Socrate chịu ký một hợp đồng không có lợi cho ông ta. Điều đó thật ngược với thói quen tham lam của con sói trẻ. Để trả lời bà Médée, tuy bà ta không hỏi gì hết, ông đã nói rõ: “Thưa bà, bà cũng biết rằng không phải tôi không biết đâu là quyền lợi của tôi”. Mụ Médée đột nhiên trở nên lạnh lùng, vì câu nói của Socrate làm mất niềm vui chiến thắng của mụ. “Ông hãy nói cho rõ!”, mụ yêu cầu như ra lệnh. Dù sao, là người chủ tàu giàu nhất thế giới, mụ không thể tha thứ, cho phép một kẻ hãnh tiến, dù thông minh đến đâu đi nữa, nói với mụ một cách lập lờ láo xược được. Kẻ đến cầu xin không phải là mụ mà chính là kẻ kia. Kỳ lạ thay, Socrate đột ngột trở thành qụy lụy, vô phương tự vệ, như đứa trẻ con. Ông ta ấp úng giải thích rằng ông ta đã mê cô bé Helena như điếu đổ. Điều đó làm mụ Médée bực mình: “Hình như ông không nhận ra rằng cháu mới mười ba tuổi, còn ông... ông...”.
- Thưa bà, tôi biết - Socrate kêu lên - Tôi biết tôi đã ba mươi tám. Nhưng bốn năm nữa, cô ấy mười bảy, mà tôi thì bốn mươi hai, khoảng cách không đến nỗi ghê gớm gì lắm! Tôi chỉ xin bà cho phép đợi...
Bà vợ góa của Ngài Mikolofides nhận thấy rất rõ ông ta thành thật. Rất dịu dàng, bà ta cố làm cho Socrate hiểu rằng việc hôn nhân như thế, trong tình hình hiện nay không thể có được, rằng chuyện hôn phối không thuộc quyền bà ta, rằng Helena khi lớn lên, sẽ có ý kiến riêng của cô ấy, sẽ có sự chọn lựa riêng của cô ấy. Nhưng Socrate vẫn vững như bàn thạch, đến nỗi mụ Médée cũng xúc động phải nói với ông ta: “Ông nghe nhé, tôi xin thưa thẳng thắn với ông. Tôi có ba cô con gái. Hai cô kia cũng xinh như Lena. Nếu ông muốn một ngày kia vào làm rể gia đình này, thì tại sao ông không chọn một trong hai cô kia? Melina thì không rồi, vì nó mới chỉ mười lăm tuổi. Nhưng Irène đã mười chín, sao không chọn cô ấy?” Socrate khẽ lắc đầu: “Thưa bà Mikolofides, đợi bao lâu nữa, tôi cũng xin đợi. Tôi sẽ đợi đến ngày Helena có thể thành vợ tôi”.
Ông đợi bốn năm. Rồi đám cưới, Lena đẹp như một tiên nữ giáng trần, nhưng chỉ có cô là không nhận ra được điều đó. Một khuôn mặt mỏng mày, hay hạt, nước da trong suốt, đôi mắt thật lớn ẩn sau một rèm tóc dày màu vàng sẫm, mũi dọc dừa nhỏ nhắn. Cô là hiện thân của cái tuyệt mỹ được các thiên tài vô danh khắc tạo trên đất nung các đồ sành năm thế kỷ trước Công Nguyên. Socrate biết mình đã thành công trong việc sắm được thứ đồ chơi đẹp nhất đời mình. Suốt một năm, ông đã là người chồng cuồng si nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra. Và rất bất ngờ, vừa như người cha, vừa là người tình của Lena.
Rồi bản tính ông lại thắng. Giữa Lena và ông từ nay có một máy điện thoại ở trước mặt, trên bàn ăn điểm tâm, đặt tại đầu giường ngủ, trong dịp nghỉ hè. Và những chuyến đi chớp nhoáng đưa họ đến khắp nơi trên thế giới trong hai ngày hoặc một tuần tùy theo việc kinh doanh. Những chuyến đi không ngừng khó nhiều hơn, đồ sộ hơn, giết người hơn. Lena, sau khi đã quen với sự âu yếm thái quá ấy, đột ngột cảm thấy trần trụi, lạnh buốt, bị bỏ rơi. Cô chưa có thời giờ chuyển từ lòng thương yêu của bố sang tình yêu xác thịt của Socrate. Không va vấp, không gián đoạn, cô đã đi từ đôi tay của bố sang cái giường của chồng, coi chồng như người bố thứ hai, thêm chuyện làm tình với mình. Mặc dầu có mang sau lễ cưới hai năm, cô lại thấy mình mồ côi khi cô chỉ còn gặp Socrate giữa một cuộc nghiên cứu thị trường Cu-ba hay cuộc họp các giám đốc của ông trên bờ biển Ả-Rập Xê-út nữa mà thôi. Cô rất ngạc nhiên khi đẻ sinh đôi. Hai đứa trẻ mang tên Achille và Maria. Chuyện ấy làm cô có cảm tưởng khó chịu là không những cô mồ côi, mà còn như là chửa hoang. Cô tự khép kín mình lại, chỉ hơi quan tâm chút ít tới hai cái vật nhỏ bé khóc oe oe kia, tự nhiên lại tìm thấy những hành động thời ấu thơ, nằm bẹp trong phòng ngủ để nghe đĩa hát hàng giờ liền, bị cô lập bởi gia tài riêng của mình, bởi tên tuổi của mẹ và sự nổi tiếng ngày càng tăng của chồng, chẳng khác nào như cô sống ở giữa một hòn đảo hoang vậy.
Do lúc còn con gái cô đã mơ đến một hoàng tử đẹp trai, cho nên những cô chị vừa cười nói với cô về “người chồng chưa cưới” của cô, vừa đưa tay véo lên mũi một cái đầy ngụ ý, luôn luôn làm cho các cô chị phá lên cười. Chỉ là một trò đùa, cuộc hôn phối chỉ là một trò đùa, và những đứa con cũng là một trò hề dở òm. Cô đã gặp Marc trong một cuộc du ngoạn bằng du thuyền, ngay sau khi Irène, chị cô, vừa lấy Kallenberg. Đám cưới ấy làm bà Médée Mikolofides khá vui mừng vì bà đang lo cô chị cả thành gái già. Đối với Lena, Marc Costa không phải người lạ. Đã nhiều lần cô mơ màng trên khuôn mặt anh ta, trong bóng tối căn phòng tiếp khách, nơi bà mẹ thỉnh thoảng lại cho chiếu những phim Mỹ mới nhất. Marc cao, mảnh dẻ, bắp thịt rắn chắc, mình trắm, lại càng làm Lena cảm thấy rõ hơn, do đối tỉ, Socrate ngắn, nặng nề, vai u thịt bắp như thế nào.
Khốn khổ thay, mụ Belle vẫn giữ. Riêng cái tên gọi tắt Isabelle đã lố bịch rồi, bởi vì Belle có nghĩa là đẹp, mà trái lại mụ rất xấu, thấy rõ mụ ta già hơn chồng đến mười tuổi - Lena biết chắc như thế - tuy mụ ta cứ nhất định nói với cái vẻ ngọt ngào của các cô bé con, rằng mụ ta mới có ba mươi lăm tuổi như chồng. Rất mê đánh bài brít-giơ, mụ ta có cái đặc điểm chỉ nhìn bài có một con mắt, còn mắt kia thường trực canh giữ chồng. Khi tự nói về mình, không bao giờ mụ ta nói “tôi” mà nói “chúng mình” như để chứng tỏ sự sở hữu độc quyền đối với Marc. Ví dụ mụ ta thốt lên: “Chúng mình phải về vì chúng mình nhức đầu”. “Chúng mình ghét Modiglianii nhưng chúng mình tôn thờ Cranach”. Hình như chữ “chúng mình” ấy còn chưa đủ và để cho không ai không biết điều đó, trong câu dài câu ngắn nào mụ ta cũng nhất loạt nhét vào tiếng “chồng” kèm theo từ “tôi”: “Chồng tôi thích được cùng vào phòng tắm với tôi”, hoặc: “Chồng tôi ngồi ở đầu giường tôi, để đọc sách cho tôi nghe”, hoặc: “Chồng tôi và tôi, khi chúng tôi bị đầy bụng”, hoặc: “Chồng tôi như đứa trẻ ấy. Khi anh ấy đóng phim, dù ở nơi nào đi nữa, anh ấy cũng gọi điện thoại cho tôi nhiều lần trong một ngày, nếu như chẳng may tôi không đi cùng anh ấy được” và nhấn rất mạnh hai tiếng “chẳng may”.
Lena thật tâm thương hại Marc. Cô cảm thấy anh thất bại, bị giam giữ trong hai tay con ác quỷ đang sử dụng mọi thứ cám dỗ để anh bị sa lầy hơn. Anh ghét những chi tiết vật chất nên cần người quản gia - Mụ ta là người quản gia. Anh sợ những con số, những kế hoạch, những tính toán của các ông quản trị thì mụ ta tính toán mọi khoản chi tiêu trong gia đình cho anh. Anh sợ sự chính xác về giờ giấc, sợ những cuộc gặp gỡ - thì mụ ta là nữ thư ký, tính từng phút những cuộc gặp gỡ. Anh bàng quan với sự tiến triển của sự nghiệp, thì mụ ta là bà bầu, ký mọi thứ hợp đồng. Còn khủng khiếp hơn nữa, trong những trường hợp yên trí là không bao giờ bị truất ngôi, mụ cả gan dám chỉ cho Marc, kèm theo những lời bình luận phù hợp, những người đàn bà nào mụ ta thấy dễ mến. Và cái chàng ngốc đáng yêu kia tuân theo hệ thống của mụ ta, đã không hiểu rằng lòng chăm nom kiểu mẹ hiền đó, sự săn sóc không ngừng đó sẽ khiến anh phải bám vào mụ còn chắc chắn hơn cả dao cạo nhiều lắm.
Không phân tích kỹ cái rung động ấy, đôi lúc Lena thấy thèm ghê gớm được chạm vào người Marc, đến độ khi ngồi cạnh Marc, cô thường điểm cho những lời cô đang nói với anh bằng những cái đập khẽ vào tay hoặc vào đùi anh. Cử chỉ bề ngoài có vẻ vô hại, nhưng lại rất tố cáo đối với những đôi mắt thạo đời. Trong đó có đôi mắt Belle. Những cái động chạm ấy làm Lena cảm thấy toàn thân như bị điện giật khoan khoái. Belle không hề bị lừa. Mụ ta đã quen phát hiện ra trong đám đàn bà con gái ngưỡng mộ chồng mụ những sự thèm muốn nhỏ nhoi nhất ngay khi chính kẻ kia chưa tự thấy rõ. Ngay từ đầu cuộc đi chơi trên biển, mụ ta đã đánh hơi thấy, nhưng chưa thể quyết định coi cái con bé tiểu tư sản chưa nở nang tuy rất đẹp kia là đối thủ đáng gờm của mụ. Mụ ta thấy Lena quá vô duyên, quá ngớ ngẩn. Tất nhiên, phải mặc quần và áo chẽn suốt ngày - mụ ta mắc chứng xệ mông xệ đùi - trong lúc cái con gà con ngơ ngác kia biết rõ thân hình nó không hề có một nhược điểm nào, cứ biểu diễn trên boong tàu trong bộ áo tắm nhỏ xíu hai mảnh thì thật là bực mình! Riêng về phần Socrate, tự phụ như mọi người chồng, ông chẳng thấy gì hết, quá tin tưởng vào thứ bậc đã được sắp xếp, không hề xem xét lại những của nả đã thu vào tay, kể cả vợ.
Buổi sáng hôm đầu, Lena vừa ra khỏi phòng riêng trên tàu thì đột ngột Marc vọt lên chiếc du thuyền, chống tay dướn một cái đã ra khỏi mặt nước như một vị thiên thần xuất hiện. Nước chảy trên thân rám nắng, đẹp vô cùng. Lena không bao giờ quên nụ cười rực rỡ anh dành cho cô. (Anh đã thoát khỏi đôi mắt canh giữ của Belle đang bám riết một vị khách danh tiếng - cầu Trời phù hộ ông ta! - mà mụ đã lột khá nhiều tiền trong canh bạc đêm trước). Hơn cả một lời hứa hẹn, nụ cười của Marc là một sự khẳng định. Nụ cười ấy có nghĩa là một ngày kia, cô và anh...
Được nuôi dạy một cách cứng nhắc và gần như theo phương Đông, Lena chưa bao giờ biết thêm một vòng tay người đàn ông nào ngoài chồng cô. Ngược lại trước và sau khi lấy chồng, những lúc một mình trong phòng ngủ, và tự vuốt ve mình, cô đã tưởng tượng ra hàng nghìn vòng tay khác mà những cái ảo đã bù đắp lại cho cô những điều mà thực tế cự tuyệt cô. Phải nhờ một hoàn cảnh đặc biệt lắm, ngày thứ năm trong chuyến đi, ở ngoài khơi các đảo Hy Lạp, câu chuyện mới xảy ra.
Belle đang đánh một canh bạc lớn với một chính khách ở boong sau. Mụ tập trung vào ván bạc nhưng yên tâm vì một vài phút trước, mụ thấy Marc bơi một mình dưới biển, bên cạnh mấy tấm ván trôi phủ đầy rêu xanh. Chỉ cần quay đầu lại ba mươi độ là mụ có thể thấy anh chàng bơi đi bơi lại dưới những tấm ván bằng những động tác mềm mại, lướt nhanh. Cùng lúc đó, Lena trườn xuống nước ở bên trái tàu, bơi vòng quanh chiếc du thuyền. Tới đuôi tàu, cô khoát tay cao về phía Marc. Anh giơ tay chào lại cô và im lặng ra hiệu cho cô bơi lại với anh. Socrate lúc đó ở phòng làm việc, điện thoại áp vào tai, hồ sơ ôm vào ngực. Lena thong thả bơi nhái về phía Marc. Nhưng hình như cô thay đổi ý kiến, quay lại, bơi theo sườn tàu, tới mũi tàu thì dừng lại trong bóng con tàu, nằm ngửa trên mặt nước, lười biếng uốn lượn cặp đùi. Còn Marc thì đẩy cái bè trôi đi, để không còn ở trong tầm mắt của Belle nữa. Cảnh tượng đó diễn ra hoàn toàn im lặng. Cả đoạn tiếp theo cũng vậy. Khi Marc đẩy những tấm gỗ sắp tới chỗ có thể chạm vào người Lena, cô chụm hai chân lại, lặn thẳng đứng so với mặt nước mà không có một cồn sóng nào... Xuống sâu sáu thước, cô lại nằm ngửa và nhìn thấy tít trên cao, trong một màu tím và xanh chàm óng ánh, thân hình của Marc bé nhỏ và mảnh khảnh, màu đỏ da cam rực rỡ, tuy trong suốt. Chung quanh vầng mặt trời của cái thân hình bị khúc xạ làm cho bí mật thêm lên ấy là ánh sáng trắng phản chiếu bị vỡ ra hàng nghìn mảnh bởi nhịp xô đẩy chậm chạp của sóng và bọt nước. Nhấn mạnh gót chân, Lena trườn từ dưới sâu lên cái hào quang thần kỳ ấy. Trong lúc đang lên, cô quên hết, quên, cô là ai, tên là gì, đang ở đâu, tháng, năm, ngày, giờ, quên cả ông chồng ở trên kia, cái nhân vật bé tí đang bị bẹp gí trong bụng con tàu đầy những tên thủy thủ vờ vờ vịt vịt, những quan khách chán ngấy và những bà vợ chính thức của họ. Không còn gì hết, không còn ai hết ngoài thân hình màu lửa mà hai chân cô đập mạnh đang đẩy cô lao tới kìa.
Cô lên tới mặt nước và bám vào những tấm gỗ. Đôi chân của Marc chạm nhẹ vào chân cô. Lúc này họ đang ở dưới boong trước cửa chiếc Phi Mã, trong một bóng râm xanh lợt, thoát khỏi mọi trọng lực, bồng bềnh trên mặt nước gần như ấm áp, tim đập, theo nhịp của biển và sóng. Mười một giờ sáng... Lena không kịp nghĩ ngợi, phản đối hoặc nói rõ và Marc không hề tắt nụ cười nhiều ẩn ý thì Lena đã thấy bàn tay anh đặt lên vai cô, trượt theo dọc lưng... Và thế là nổ tung ra những pháo hoa kỳ diệu mà cô chưa bao giờ dám ngờ tới nhưng lại lạ thường đến thế. Chỉ chưa tới một phút nhưng mãnh liệt, toàn vẹn đến thế, như thoát khỏi thời gian, thoát ra ngoài tất cả. Một phút mà tập trung ở trong mức độ dữ dội của nó sự dãn nở bùng nổ của tất cả những mảnh vụn của thời gian đã từng sống, của tất cả những năm tháng sẽ còn sống. Bây giờ thì cô biết chắc chắn rằng có Thượng đế, và đối với cô, Thượng đế luôn luôn mang khuôn mặt của Marc. Từ nay, cô có thể chết đi vì đã trải qua tất cả, cô đã biết hết mọi chân lý. Như mất hồn, bản thân là bèo bọt nổi trôi. Lena cố bám vào những tấm gỗ như một nhánh rong biển mềm oặt chẳng có hình thù, nghe thấy như trong sương mù, Marc thì thào bên tai: “Tôi sẽ ra hiệu cho cô”. Đập mạnh chân, anh đã lặn xuống và biến mất dưới bụng con tàu “Kẻ Du Đãng”.
Anh đã lên trên boong tàu từ lâu rồi, đang lấy khăn chà xát người, dưới cặp mắt tán thành của Ben, mà Lena vẫn còn lâng lâng giữa lưng chừng trời đất, giữa sống và chết, không động đậy mảy may, má áp vào mảnh gỗ xốp, thân hình dập dờn và ru vỗ theo sóng nước mặn róc rách. Khi đã hoàn hồn, cô khó nhọc theo thang lên tàu, như người sắp chết đuối, nằm vật xuống giường, sau khi đã khóa cửa phòng lại, sợ niềm vui quá lớn này bay mất.
Sau này, đã có những choáng ngợp như thế - do Marc làm nảy ra một cách dễ dàng quá đáng - nhưng chẳng bao giờ mãnh liệt, trong sáng và bất ngờ như ngày đầu tiên ấy. Người ta có thể nói anh tiết kiệm cả thân hình anh lẫn những cuộc hẹn hò. Và điều ấy lại càng làm tăng thêm khoái cảm của Lena, mỗi khi cô có dịp được gặp anh. Những cuộc gặp gỡ mà hình như anh thích thú được khất lần, khất lần mãi.
Ngay tối hôm qua thôi, lấy cớ phải đi dự buổi dạ hội của Kallenberg, cô đã dừng lại ở Paris, rất sung sướng vì sẽ làm anh bất ngờ. Cô tưởng tượng ra muôn nghìn kỳ thú trong cái đêm sẽ ở lại với anh. Chẳng nước non gì hết. Không tìm thấy Marc. Hai lần liền, đã liều gọi điện thoại đến nhà anh ở Saint-Cloud và chẳng may lại rơi đúng phải mụ Belle. Cô đặt máy xuống ngay. Và đêm ấy, ở khách sạn Plazza thật là một đêm khủng khiếp. Mặc dầu những bó hoa hồng như có phép kỳ diệu đã tới phòng cô, tuy không ai biết là cô ghé đây. Buổi sáng, sau khi đã mất công gọi điện đến nhiều tiệm nhảy mà anh có thể chơi ở đó, cô đã nuốt liền ba viên thuốc ngủ và rơi vào một giấc ngủ độc địa, để ba giờ sau tỉnh dậy, mỏi nhừ, mặt mũi phờ phạc. Mãi đến trưa cô mới tìm được anh trong một xưởng phim. Anh đang lồng tiếng một bộ phim quay năm trước ở Mỹ. Cứ bề ngoài mà xét, hình như anh chẳng thích thú gì khi nghe thấy tiếng nói của cô, càng không thích thú khi biết cô đang ở Paris. Gần như miễn cưỡng, anh nhận ăn cơm trưa với cô, nói rõ là thời gian anh bị hạn chế, anh lại phải làm việc vào lúc ba giờ. Lena đã giấu nỗi thất vọng của mình dưới một giọng đùa bỡn - thà chịu mọi chuyện, còn hơn không được nhìn thấy anh. Nhưng bữa ăn đã bắt đầu trong tai họa. Marc có vẻ khó chịu, xa vắng, lạnh lùng, mặc những cố gắng của Lena để làm vừa lòng anh. Có thể anh bực bội vì hai cú điện thoại vô danh mà chắc mụ Belle đã cằn nhằn anh? Lena quyết định liều. Cô phá tan sự im lặng:
- Anh giận em đấy à?
Anh lấy mũi dao ăn vẽ những vòng tròn trên tấm khăn bàn, như không muốn trả lời. Cuối cùng, mắt không nhìn lên - làm cho bóng của cặp lông mày thêm dài ra - anh buông ra một chữ, bằng cái giọng đùng đục:
- Không.
- Anh làm sao thế?
- Không sao cả.
- Anh không thích gặp em à?
- Có chứ... có chứ...
- Thế thì tại sao?
Anh ngước mắt nhìn cô gây gổ:
- Tại sao cái gì?
- Em làm sao mà biết được... Em đến Paris chỉ vì anh, đêm qua mất một phần đêm để tìm anh, và đến khi tìm được anh, thì anh lại giận dữ với em. Anh có điều gì trách em nào?
- Khi em tới, anh muốn em báo trước cho anh.
- Mãi đến phút chót, em mới trốn thoát được. Mà ngay đến phút ấy cũng không tin là thành công nữa. Em hy vọng làm anh ngạc nhiên.
- Em đã thành công đấy! Mà đáng lẽ em phải tránh không nên tìm anh vào ban đêm, như em vừa kể.
- À, ra là chuyện đó à?
- Phải, chuyện ấy đấy! Anh thì phải làm việc, phải tập trung vào công việc sắp làm, anh cần nghỉ ngơi.
- Mụ ta cằn nhằn anh phải không?
- Lại không ư? Em thử nghĩ xem! Hai lần người ta cắt điện thoại ngay vào mũi mụ ta, mà mụ ta lại bỏ qua à?
- Anh sợ mụ ta lắm hả?
- Anh đếch cần mụ ta! Anh chỉ cố không để mụ ta có lý do gì gây sự với anh! Còn em thì bưng những lý do ấy đến dâng mụ ta!
- Anh muốn em làm gì nào? Em phải tìm cách gặp anh chứ?
- Để làm gì? Anh làm sao tổ chức được công việc của anh, nếu em thông báo cho anh biết trước những nhõng nhẽo của em?
Lena hy vọng sẽ giữ được bình tĩnh. Cuối cùng, sự việc đã diễn ra không như người ta tưởng. Việc cô chăm chút chọn quần áo, trang điểm, việc chọn nước hoa, thứ mà cô không thích lắm nhưng cô lại dùng vì anh thích, tất cả những chi tiết lặt vặt ấy tốn bao nhiêu thời giờ của cô bây giờ đều bị quét sạch. Mặc kệ! Cô chỉ có một ý nghĩ trong đầu, bắt anh làm tình với mình, ôm Marc trong vòng tay, chiếm riêng lấy anh cả buổi chiều nay. Người lái xe riêng của cô ở Paris mãi sáu giờ chiều mới tới đón cô ở khách sạn Plazza để đưa cô ra sân bay. Bây giờ mới hai giờ mười phút, như vậy là cô có cả ba tiếng đồng hồ trước khi khỏi hành đi Luân Đôn. Bằng mọi giá, phải ở riêng với anh trong những giờ ấy. Cô đành dùng mưu làm vẻ quy lụy:
- Anh Marc, đúng thế, em sai rồi. Sai vì không báo trước cho anh, sai vì đã gọi điện thoại về nhà anh. Đừng giận em, em thèm gặp anh quá!
- Thôi được, thôi được...
- Em cứ yên trí là Belle ở lại Eden Roc.
- Em thấy đấy. Mụ ta đã trở về.
Trước thái độ ác cảm ấy, Lena cố gắng một lần chót:
- Anh hãy tha lỗi cho em, anh Marc ạ, lần sau em không thế nữa đâu. Anh thấy đấy, điều đáng kể là cả hai chúng ta được ở đây, cả một buổi chiều trước mắt chúng ta, để được nói chuyện với nhau.
Anh ta nhìn cô, gần như ngạc nhiên:
- Sao được? Anh còn phải trở lại xưởng phim kia mà!
- Kìa anh, họ có thể đợi anh lắm chứ? Ngày mai anh tới cũng được mà.
- Này, Lena ạ... Em không nghĩ thật như thế chứ? Hình như em không biết thế nào là điện ảnh hay sao ấy. Có phải anh làm việc một mình đâu. Đây là cả một nhóm người. Nếu một người trong bọn anh nghỉ, thì tất cả những người khác kẹt cứng hết.
- Điện thoại cho họ...
- Em đùa đấy chứ?
- Anh nói với họ anh mệt...
Anh nói với cô bằng cái gi