Chương 3
Mày có mang theo đèn chụp ảnh đấy chứ, Robert?
- Thôi đi mày! Đã bốn lần mày hỏi tao chuyện đó ấy rồi!
Jean Michel im miệng và tập trung vào việc lái xe, sau lưng hai người Pháp, người phiên dịch tủm tỉm cười. Với số tiền người ta trả cho anh ngày hôm nay, anh có thể ăn được suốt một tháng ròng mà không phải làm gì hết. Khi ở trong nước, anh chàng người Hy Lạp này sẵn sàng sống một cách lang thang tại chỗ, nhất là trên các hòn đảo nhỏ mà mỗi ngày là một ngày dứt điểm. Ở đó, thức ăn trông vào mùa, vào vụ gặt hái hoặc vào đánh bắt cá biển. Ở hải cảng cách đây ba mươi ki-lô-mét, người ta đã tìm ra hắn ta trong cái nghiệp đoàn tự do làm việc có nửa ngày, một năm làm có hai tháng. Tìm ra hắn vì hắn biết nói thạo tiếng Pháp. Công việc là dịch một cuộc trao đổi với một mụ nông dân ở một cái làng khỉ ho cò gáy, mà cho đến ngày hôm nay Skopelos cũng không ngờ có cái tên làng như thế. Hai anh chàng nhà báo kia đi viết một phóng sự về một việc thừa kế gia tài, đại khái họ nói như vậy. Nhưng Skopelos cóc cần biết đến, cũng coi như cốc rượu nho đầu tiên hắn uống trên đời thôi - Có một hôm, hắn bật ra cái ý thử tính xem số lượng rượu nho hắn đã uống suốt cuộc đời hắn và đã cộng lại tới con số đáng ngạc nhiên là 14.600 lít! Cơ thể một con người có thể tiêu đi ngần ấy rượu ư! Chuyện đó làm hắn bàng hoàng mê mẩn, lẫn một chút kiêu hãnh. Kiêu hãnh vì đã kiếm ra đủ tiền đủ mua được ngần ấy rượu.
Nhà nhiếp ảnh bấm thử đèn điện tử chụp ảnh. Tia chớp của đèn thật lố bịch trong ánh sáng chói chang của mặt trời, y như quẹt que diêm giữa đêm pháo hoa. Còn người kia, người cầm lái xe, đã thử đi thử lại chiếc máy ghi âm. Trên chiếc máy đó, Skopelos đọc được dòng chữ Nagre. Người kia đã bảo hắn nói vào mi-crô để điều chỉnh âm lượng. Skopelos ngạc nhiên khi được nghe chính tiếng nói của mình, không nhận ra, gần như không tin rằng đó là tiếng mình. Hai người Pháp có vẻ bồn chồn, kích động. Có lẽ tại nóng quá...
- Thế nào, anh đã hiểu rõ rồi chứ? Anh chỉ có việc dịch lại những câu hỏi của chúng tôi. Thỉnh thoảng anh mới nói qua cho chúng tôi biết mụ già đã trả lời ra sao. Khi chúng ta trở lại hải cảng, thì anh mới dịch toàn bộ những lời của mụ ta. Đồng ý chứ?
- Đồng ý.
- Tuyệt! Sắp tới rồi. Đã thấy nhà kia rồi. Tôi để cái xe bò này lại đây. Nào, anh bạn! Mọi người xuống xe hết!
Ba người bước đi giữa hai dãy lều vách làm bằng vôi trắng, chói lòa ánh sáng. Skopelos hỏi một người đàn ông vừa bước ra khỏi nhà, xem bà cụ Athina ở chỗ nào. Chẳng nói chẳng rằng, người kia chỉ căn lều ở cuối dãy, rồi quay lưng lại, vào thẳng trong nhà ông ta ngay.
- Thằng cha già ít lời quá!
Skopelos mỉm cười:
- Ở cái nơi khỉ ho cò gáy này, họ hoàn toàn lạc hậu mà! Không có nước, không có báo chí, không có ra-đi-ô. Đối với họ chỉ có một điều đáng kể: đó là những con dê của họ.
- Còn những đàn bà của họ? - Robert đùa.
- Chỉ nhìn thấy những người đàn bà ấy có một lần trong lễ cưới của họ. Trước đó, các cô đã phải trả tới nửa triệu đồng tiền phrăng cho các ông, để được quyền lấy người chồng mà ông bố họ đã chọn hộ. Sau lễ cưới là khóa chặt lại trong nhà. Chỉ còn việc đẻ con, chăn dê và trông nom nhà cửa.
- Cuộc đời kiểu ấy mới thật quả là đẹp! Phải đưa mấy bà nhà mình tới đây dạy dỗ theo kiểu ấy mới được! À, tới nơi rồi!
Lúng túng, Robert đi tìm một cái cửa không hề có. Chỉ có một cái màn cửa cũ, làm bằng bao tải rách. Robert lật cái màn đó ra và thấy lờ mờ một bà cụ già đang lục lọi trong một cái túi và lôi những quả đậu ra.
- Hỏi bà ấy xem bà ấy có phải là Athina Satrapoulos không? - Jean Michel nói với Skopelos.
Anh chàng Hy Lạp dịch lại. Bà cụ gật đầu.
- Tuyệt lắm - Jean Michel tiếp tục nói - Bây giờ có thể làm việc được rồi, Robert chụp lia lịa đi! Còn anh, dịch ngay những câu tôi hỏi bà ấy đây.
Anh ta ghé sát vào mặt bà cụ mà nói, cố nói to, coi như một người già đến thế thì tất nhiên phải điếc. Cái của lọm khọm này ra là mẹ của ngài Socrate vĩ đại đây ư? Bài này mà tung ra thì giật gân phải biết! Một vụ om sòm khắp thế giới đây!
- Cụ Satrapoulos, chúng tôi tới đây gặp cụ về chuyện ông Socrate... Socrate, con trai của cụ ấy...
Ngay lúc Skopelos chưa kịp dịch, bà cụ đã xổ ra một tràng tiếng Hy Lạp, tám đến mười tiếng gì đó.
- Bà cụ nói gì thế? - Jean Michel hỏi.
- Bà ấy bảo bà ấy không điếc, đừng có quát vào tai bà ấy.
Có vẻ không bằng lòng, Jean Michel lùi ra xa hai bước. Trong lúc Robert không vội vàng nhưng theo một nhịp đều đều, ghi vào phim: nền nhà bằng đất, những bó củi, cái nồi đồng đang đun nước để luộc đậu, cái lò sưởi ám khói đen kịt, cái bàn dài và cây thánh giá bằng gỗ đen, đóng trên tường. Bà cụ lại nói.
Skopelos liền dịch:
- Bà ta bảo...
- Thôi, đừng “bà ta bảo” nữa, cho nó đơn giản. - Jean Michel cắt ngang.
- Bà ta bảo: “Nó lại giở thêm trò gì nữa rồi?”
- Nó là ai?
- Thì nó... là con trai bà ta mà.
- Hỏi bà cụ xem bao nhiêu lâu nay bà cụ không gặp mặt ông ta rồi?
- Ba mươi năm nay.
- Họ giận nhau à?
- Bà ấy bảo nó là một thằng đểu.
Cuộn băng ghi âm cứ cuốn dần lại. Thế là chữ viết bay đi, lời thì ghi lại.
- Bà cụ có biết rằng ông ta rất giàu không?
- Không, bà cụ chẳng biết gì hết.
- Ông ta có gửi tiền cho bà cụ không?
- Chẳng bao giờ gửi cả. Bà cụ nói ông ta còn lấy thêm của bà cụ nữa.
Mỗi câu của người phiên dịch nói ra, bà cụ lại gật đầu rất mạnh.
- Khi còn nhỏ, ông ta là người như thế nào?
- Vừa bẩn vừa hay ăn cắp.
- Ông ta có yêu bố ông ta không?
- Nó chỉ yêu có bản thân nó thôi.
- Thế còn khi học, ông ta học giỏi chứ?
- Nó bị đuổi khỏi mọi trường. Không trường nào chứa nó được lấy tám ngày.
- Vì sao?
- Hồi ấy nó đã bị ma quỷ ám rồi.
- Có bao giờ ông ta giúp đỡ cụ không?
- Không bao giờ hết!
- Có lý do gì chính xác để ông ta ghét cụ không?
- Nó không chịu nổi những kẻ đã nhìn thấy nó hồi còn yếu hèn, kể cả mẹ nó. Một hôm, nó đã đánh cả tôi.
- Cụ chắc chắn như thế chứ? Hồi nào? Tại sao?
- Nó leo vào đánh tôi. Bố nó vừa vặn tới, phải kéo tôi ra khỏi tay nó.
- Lúc ấy ông ta bao nhiêu tuổi?
- Mười ba tuổi.
Jean Michel không thể cưỡng lại, đưa mắt nhìn Robert một cách khoái trá. Những điều bà cụ nói là một thứ gì quá ghê gớm. Quả tình Raph Dun rất thính trong việc tìm những đề tài quái đản như thế này. Phần lớn thời gian, thằng cha ấy chẳng làm quái gì hết. Nhưng khi nó đã chộp được một chuyện thì chuyện ấy đúng là một quả bom! Thằng cha quả là quá điệu, điệu đến thối khẳn lên.
Nhưng điều đó có gì đáng kể nếu so với khả năng chuyên môn của hắn? Robert hỏi Skopelos xem bà cụ có đồng ý để anh ta chụp ảnh trong phòng ngủ bà cụ không? Bà ta sẵn lòng đồng ý thôi, nhưng còn phòng ngủ nào nữa, ngôi nhà chỉ có một phòng. Bà ta ở chung với đàn dê. Quả là tuyệt diệu! Jean Michel nhẩm tính những món tiền anh ta sẽ thu được về bài phóng sự như thế này. Bài phóng sự viết về bà mẹ không ai biết đến, giấu kín một nơi của tay tỉ phủ nổi tiếng giàu nhất thời hiện đại. Say sưa, anh ta tắt máy ghi âm, và nói với những nhân chứng bằng một giọng ra lệnh:
- Thôi. Ngừng hết ở đây. Đưa bà ta ra ngoài nhà, chụp lấy vài cuộn phim màu. Nếu có thể được, chụp chung cả đàn dê nữa. Đại khái là chụp những cái gì tởm nhất, có vẻ nghèo nhất.
Và anh ta nói với Skopelos:
- Còn anh, anh nói lại với bà cụ, chúng ta còn nhiều thời gian lắm. Ta sẽ bắt đầu lại từ đầu. Trước hết, hỏi bà cụ ngày sinh tháng đẻ chính xác của Socrate. Tôi muốn nắm được tất cả mọi chuyện về cuộc đời ông ta, từng ngày một!
Trong gia đình Mikolofides, người ta hà tiện một cách bệnh hoạn từ đời ông sang đời cháu. Hà tiện đến cái mức Ulysse Mikolofides đã quyết định không sinh con thừa kế. Ông ta muốn chắc chắn rằng không ai được phép sống sau ông ta để hưởng thụ của cải của ông ta mà không có mặt ông ta. Ngoài ra, ông cũng thích thú được là cái mầm cây cuối cùng của dòng họ.
Khốn thay, bà vợ ông ta lại không nhất trí với ý kiến ấy. Tuy rằng bên ngoài có vẻ phục tùng những quyết định của chồng, bà Médée vẫn luôn luôn van xin một cách bướng bỉnh, đau đớn để ông ta cho bà một đứa con. Theo thời gian, ý muốn của bà ta biến thành một tật thần kinh. Bà ta trí trá về những thời kỳ có thể thụ thai, bảo đảm rằng không có điều gì nguy hiểm cả. Ulysse thì không tin chút nào những lời của bà ta. Rất đa nghi, những lần hiếm hoi ông ta yêu đương bà ta, ông ta vẫn rất cẩn thận, giữ gìn ghê gớm.
Sau ba năm làm cái trò ấy, ông ta bị dồn tới một sự chọn lựa: hoặc Médée có con, hoặc bà ta thành người điên dại. Đôi khi ông ta bắt được quả tang bà ta vừa đan quần áo trẻ con, vừa buồn rầu đọc những tập sách nuôi dạy trẻ, những tờ tạp chí về nuôi con bày đầy trên bàn trước mặt bà ta. Bà ta đưa mắt nhìn ông, vẻ chịu đựng nhưng đầy trách móc và thở dài não ruột. Rồi bà ta lại tiếp tục đan. Một mũi lên, một mũi xuống, đan những chiếc tất bé xíu màu xanh da trời hoặc những áo tắm trẻ con màu hồng nhạt. Một buổi chiều, không thể chịu nổi vẻ mặt ỉu xìu của bà, ông hằn học nói:
- Lên phòng ngủ ngay! Tôi sẽ cho bà một đứa con của bà! Mà bà dè hồn, nếu bà không đẻ cho tôi một thằng con trai!
Bà nhìn ông bằng con mắt thán phục, và chạy vội lên gác, tới mức sắp ngã gãy xương. Bà lắp bắp, vẻ biết ơn nói:
- Ôi! Ulysse, xin cám ơn! Trời ơi! Ngay lập tức, tôi lên ngay lập tức!...
Một tháng sau, chẳng có gì hết. Hơi không bằng lòng, tuy không dám thú thật điều đó, Ulysse bắt đầu làm phận sự chồng một cách cuồng nhiệt, suốt những tuần sau. Vô ích, kín đáo, ông đi nhờ thầy thuốc khám hộ. Không, ông không phải là người vô sinh. Ông bảo bà Médée đến lượt bà đi xét nghiệm kỹ. Các nhà chuyên môn không tìm ra chuyện gì khác thường có thể ngăn cản việc thụ thai. Cáu tiết, Ulysse biến thành một người tình không biết mệt mỏi, nguyền rủa thần linh đã không cho ông điều mà bất cứ ai cũng được các vị ban cho: một đứa con.
Ấy thế mà cái bụng bà Médée vẫn cứ lép kẹp một cách tuyệt vọng. Bà sống năm này qua năm khác thẫn thờ một cách đáng sợ. Chẳng thích thú một cái gì hết, ăn uống cảnh vẻ, cho con cái bọn đầy tớ không biết bao nhiêu quà bánh, tặng phẩm, tặng các cô nhi viện những món tiền khổng lồ.
Hai năm trời trôi qua trước khi bà nói tới chuyện “con nuôi”. Bà gặp phải sự từ chối dứt khoát của Ulysse. Những nỗi lo lắng xưa cũ sống lại. Ngay cái việc để của cải lại cho con mình đứt ruột đẻ ra, ông đã không muốn rồi, bây giờ lại nói tới chuyện để gia tài cho một đứa con hoang chẳng biết bố mẹ là ai hết ư?
Giữa lúc đó thì Nina chết trong khi sinh nở. Nina là chị của Médée. Toàn bộ gia đình hoảng hồn lên khi cô ta thú thật đứa con của cô ta không có bố, nhưng dù thế nào đi nữa cô ta cũng chịu trách nhiệm hết và nhất định để con.
Đứa bé là con gái. Médée lăn xuống chân Ulysse, xin ông ta nhận nó làm con nuôi. Ông trả lời:
- Không được! Thà nó là con trai thì may ra còn...
Và ông lên đường đi du lịch để cắt đứt mọi chuyện mè nheo. Khi ông trở về nhà, ông thấy một cái nôi đặt trong phòng ngủ của vợ. Bà ôm choàng lấy chồng:
- Nhìn con chúng ta này! Em đã đặt tên con là Irène!
Ông không làm thế nào được, đành giữ lại đứa con gái tại họa mà ông tin chắc rằng nó sẽ là cái nguồn làm lụn bại nhà ông chứ chẳng lợi lộc gì kia. Đành đóng vai ông bố trước mặt mọi người vậy! Một hôm, đột nhiên ông biết tin bà Médée có mang! Lần này thì chắc chắn bà phải chuộc tội bằng cách đẻ cho ông đứa con trai để nối dõi. Ông sẽ đặt tên nó là Ulysse như tên ông. Rồi Melina ra đời. Sự điên cuồng bất lực lần trước nhường chỗ cho thất vọng. Nhưng ông chưa hết khổ đau!
Lần thứ hai, Médée không tế nhị chút nào, lại đẻ thêm một đứa con gái nữa, con bé Helena! Nghĩ tới chuyện phải gặp mặt chồng sau trận đại bại ấy, Médée thoáng có ý định bế con đi trốn. Bà ta may mắn đã không làm như thế. Coi rằng số phận mình đen đủi, Ulysse có vẻ thương xót bà. Bởi vì Thượng đế đã muốn như thế, Ulysse cho rằng bổn phận mình bây giờ là phải coi sóc sao cho gia tài khỏi tan nát trong tay những cái con “bị thiến” ấy. Lúc nổi giận, ông vẫn thầm gọi con bằng danh từ ấy.
Tuổi dậy thì của Irène thật khó khăn. Thật kỳ lạ, lông tay cô cứ mọc dài ra, trong lúc ở chỗ khác thì lại không có. Dù sao đó cũng là điều bà mẹ cô nói như vậy. Vì mọi người cứ luôn luôn nhắc đi nhắc lại điều này nên làm, điều kia nên tránh, từ chỗ rụt rè e lệ, cô đã trở thành yên lặng ít nói, từ chỗ thâm trầm trở thành mê tín. Ban đêm, cô giấu diếm bôi thuốc triệt lông vào cánh tay, vì cô đã quyết đối phó quyết liệt với nữ tính của mình. Tất nhiên không ai nói cho cô biết điều bí mật về nguồn gốc của cô, nên thực tế cô đã thành đứa con gái trưởng trong gia đình Mikolofides cả về mặt xã hội và về mặt tâm lý. Tuy vậy, người ta đã không nhịn được mà tỏ ra cho cô biết rằng người ta chỉ tha thứ cho cô đến mức nào thôi trong cái dòng họ đang cần lắm đàn ông, nên cô có cảm tưởng hơi có lỗi là đã ra đời mà không đáp ứng được những hy vọng của dòng họ. Sau này, nhờ tác dụng phối hợp của những lời Kinh và thuốc mỡ, những đám lông loăn xoăn trên tay cô đã bằng lòng biến đi. Nhưng như do một sự đền bù sinh học, lông lại mọc quá nhiều ở chỗ kín và ở đùi, thậm chí còn mờ mờ ở cả môi trên mòng mọng của cô nữa. Cô khiếp sợ nghe bà nấu bếp bảo là “râu mép” khi nói về những cái lông ấy. Đôi mắt cô xanh đen mờ mờ rất đẹp, lông mi gần như quá dài, mượt như nhung an ủi được cô phần nào.
Khi Melina ra đời, người ta đã dặn Irène lúc ấy mới bốn tuổi, phải vui thích. Cô chưa thật hiểu rõ vì sao, và vốn tính đa nghi, cô chỉ cảm thấy từ nay phải xẻ những tình cảm ít ỏi mà ông bố dành cho cô với đứa trẻ không quen biết ấy. Một đêm, hai năm sau ki Melina ra đời, cô tìm thấy một niềm vui ghê gớm. Đã gần nửa đêm, cô bỗng choàng thức dậy trong căn phòng cô ở chung với em gái cô. Mắt mở to trong bóng tối, cô nghĩ đi nghĩ lại mãi cái ý định đã làm cho cô băn khoăn mấy ngày nay. Cô bật đèn ngủ lên, đó là điều cấm, và rón rén lại gần cái nôi. Melina hiền lành há miệng ngủ. Irène đứng ngắm mãi em gái, rồi run rẩy, như khi ta run rẩy vì sắp biết câu trả lời một điều bí mật, cô lật hết chăn của em, lột hết tã lót, cho đến khi đôi chân đứa bé lộ rõ ra. Thế rồi cô nhẹ nhàng dạng hai cái chân bé nhỏ để xem ở giữa có gì không: KHÔNG CÓ GÌ HẾT! Như vậy là bố mẹ cô chẳng có lý do gì để yêu quý cái đứa mới đến này hơn cô! Chẳng có gì khác với cô cả! Sung sướng, vừa hết lo lắng, cô vừa hôn ngoạm vừa nựng đứa bé một cách điên cuồng. Đứa bé khóc ầm lên. Nghe tiếng khóc, bà mẹ và người vú nuôi ở ngay phòng bên cạnh chạy vào: “Nhìn kia! - Bà mẹ kêu lên - Nhìn xem nó yêu em nó đến thế nào!”. Ngày hôm sau, câu chuyện được truyền tụng khắp nhà: mới sáu tuổi đầu mà Irène đã như một người mẹ thực thụ rồi đấy!
Khi Ulysse âu yếm ôm lấy cô vào trong tay, vuốt tóc cô, thì cô không hề bị bịp, thừa biết rằng cái ân huệ đặc biệt ấy chỉ được ban cho cô vì “kẻ kia” thôi. Vậy thì muốn được thêm những sự chú ý như thế, phải mưu mẹo giả vờ yêu thích ghê gớm tất cả những thứ bản thân ông bố yêu thích.
Cô vừa hơi hồi phục lại sau cơn choáng váng vì Melina, thì Helena lại ra đời. Nhờ một ân huệ không công bằng, ngay từ phút đầu tiên của cuộc đời, Lena đã xinh đẹp. Người ta trầm trồ trước màu xám sâu thẳm của đôi mắt cô bé, cái mũi tí xíu tuyệt mỹ, bàn tay thon thon mềm mại, tóc nuột như tơ. Và Irène đành phải công nhận rằng đối thủ đích thực chính là Helena. Vì vậy cô càng kêu to cái Phép lạ mầu nhiệm ấy hơn mọi người, càng làm ra bộ khâm phục em như thần tượng, điều khiến cô phát buồn nôn lên bởi chính cô phải trấn tĩnh hết sức để bóp nghẹt những tâm tư thầm kín của mình. Cô sẵn sàng tham dự vào mọi chuyện tắm táp, rửa ráy cho em bé. Và rình lúc mọi người không chú ý, cấu vào đùi nó một cách man rợ. Để thanh minh những tiếng khóc của Lena, cô đẩy sự bố trí đến mức nắm tay con bé vào một mớ tóc của mình, làm như nạn nhân chính là cô vậy. Như vậy cô có lý do thể xác để được đau đớn về cái việc đã làm cho kẻ khác đau đớn. Và trong tiếng khóc xác thực của cô làm cô đỡ ấm ức, có pha lẫn vào nỗi hối hận là đã hành động tàn nhẫn như vậy. Những hành động mà động cơ sâu xa vượt khỏi tầm suy nghĩ của cô.
Irène sẽ bị mang dấu vết suốt đời bởi cái sự lập lờ về tâm thần. Kiên quyết cưỡng lại những thèm muốn của mình, không bao giờ bộc lộ chúng, ngột ngạt vì phải giữ kín chúng, vun trồng một niềm phấn khích nguy hiểm tại cái điểm nút bấp bênh kia, nơi mà dục lục và văn hóa đối chọi nhau trong cái chiến trường khép kín là tâm hồn cô. Cuộc chiến tranh ấy không bao giờ chấm dứt, được chính cô chăm nom săn sóc để cho tiếp diễn với một sự kiên nhẫn mà cuộc chiến đấu càng không lý do, càng vô cớ bao nhiêu thì nó lại lắm tà tâm bây nhiêu. Một ví dụ về hiện tượng phạm tội - tự trừng phạt: có khi cô cô nhồi nhét một món ăn mà vừa trông thấy, cô đã lộn mửa, như món dưa chuột chẳng hạn. Hoặc để tự trừng phạt mình thích món cá nướng, thấy món cá nướng bày trước mặt, cô nhất định không ăn. Khi cô ác cảm với một người nào, mà loại đó thì nhiều lắm, cô lại chăm sóc người đó cực kỳ chu đáo, giả vờ một cách có hệ thống, thích thú những thứ cô ghét và ngược lại, tỏ vẻ khinh rẻ những thứ cô thích thú.
Với cái tính cách khác người ấy, cô rất bằng lòng thấy mình bị suy nhược thần kinh từ năm mười sáu tuổi, trốn vào trạng thái bệnh tật ấy một cách khoái trá, cái trạng thái làm cô thấy lợi bất ngờ là cướp lại được vị trí thứ nhất mà các cô em đã lần lượt cướp đi của cô. Thấy cả nhà lo lắng ân cần lần lượt nối đuôi nhau diễu binh trước đầu giường mình thì thật ngon lành quá! Thấy cả nhà phụ thuộc vào lúc vui lúc buồn của mình để tỏ ra mình dũng cảm chấp nhận bệnh tật của mình, quả là khoái trá! Từ nay cô biết được phương pháp rất công hiệu để kéo lại phía cô những cảm tình đang bị giảm sút, những lòng thương yêu đang lạc đi hướng khác. Cô mãi mãi sẽ không quên phương pháp ấy: mỗi lần cô thấy thiếu thốn tình cảm, cô liền lao vào cái pháo đài vờ ốm mà bọn thầy thuốc ngoan cố và dốt nát cứ lôi cô ra khỏi, họ nhìn mặt cô để nhồi cho cô thuốc an thần, thuốc bổ, hoặc thuốc kích thích.
Ba ngày sau sinh nhật lần thứ mười bốn của cô, Ulysse Mikolofides chết vì nhồi máu cơ tim. Irène dự vào việc vào nhà xác đón ông bố mà người ta chở về bằng chiếc xe tải thương, sau khi đã uổng công cứu chữa ở bệnh viện. Ông chủ tàu đã chết ngay trong phòng làm việc: “Đã ngã xuống ngay khi làm việc” theo như lời tuyên bố chính thức. Tuy những miệng lưỡi xấu xa đã cải chính, nói rằng ông ta chết vì uống một lúc quá nhiều thuốc cường dương nhằm để gây ảo tưởng cho một cô thư ký riêng mới mười chín tuổi. Giữa lúc người ta đang bàn tán về số phận những của cải khổng lồ gom góp được, thì bà Médée đã phản ứng như sét đánh. Cảm thấy mình phải chịu một trách nhiệm nặng nề, bà đã họp rất nhiều ban giám đốc lại và tuyên bố bà tiếp tục sự nghiệp của ông chồng. Bà đã làm biến đi rất nhanh những nụ cười lễ phép lạc trên những bộ mặt nghi ngờ. Vài vụ cho thôi việc và một quyền uy lạnh lùng khinh khỉnh cuối cùng đã chiến thắng những kẻ cộng tác bướng bỉnh. Ngay những địch thủ của bà cũng nhanh chóng nhận thấy không ăn nhằm gì trong trò lừa phỉnh bà ta.
Từ trước đến nay vẫn sống dưới bóng chồng, bà Médée đã tự khẳng định là một nhà kinh doanh tuyệt vời, đủ khả năng có những quyết định chớp nhoáng, được một sự thính nhạy đáng gờm giúp sức. Chỉ ba năm là đủ để bà ta làm số vốn, tuy đã quá khổng lồ của Ulysse để lại, tăng lên gấp đôi. Trong thời gian đó, ba cô con gái của “bà góa” như người ta đã đặt tên cho bà tiếp tục đi học với những kết quả khác nhau.
Đến năm hai mươi tuổi, Irène vẫn không nhận được một lời xin cưới nào đáng quan tâm hết. Sợ thành gái già, cô đột nhiên phát hiện ra mình say mê đến điên cuồng được sống độc thân. Trong lúc đó, vừa mười bốn tuổi, Lena đã làm cho người ta bàn tán om sòm về cô. Người ta thì thầm với nhau rằng Lena đã làm trái tim một người đàn ông đứng tuổi phải mê mệt, đó là ngài Socrate nổi tiếng. Còn về phần Melina, năm mười sáu tuổi, cô đã làm cho những anh chàng ở lân cận phát cuồng. Họ không sợ cả đàn chó, vượt tường vào trong trang trại, chỉ để được thoáng nhìn thấy bóng dáng cô, lẩn trong bóng những cây trắc bách diệp.
Dù sao đi nữa, Irène cũng thấy được ngày vinh quang của mình khi vừa bước vào tuổi hai mươi hai. Cô đã mất trinh một cách khác xa điều cô tưởng tượng với một anh lính gác. Anh lính ấy đã bị bà mẹ trưng dụng để đi đi lại lại gác bên ngoài hàng rào, trong một đêm tiếp tân. Anh ta đủ ngốc để chẳng biết phép lịch sự là gì hết, đủ mờ mịt để không biết cô là ai, đủ huênh hoang để tưởng rằng mình đẹp trai đến mức không cô gái nào cưỡng lại được. Lúc đó Irène đang đứng ở thềm đợi một bà cô rất đáng ghét, đã nhận ra đôi mắt chú ý tới mình của anh lính. Với một giọng xấc xược và khinh miệt, cô đã hỏi anh lính tại sao nhìn cô chăm chú như thế? Rất tự nhiên, anh lính cười to và đáp: “Không phải anh nhìn mặt em đâu nhé. Anh nhìn cái đít của em. Anh thấy đít em tuyệt lắm”... Irène đã đứng lặng đi vì ngạc nhiên, không tìm ra thái độ nào cho phù hợp với hoàn cảnh ấy cả. Bao giờ người ta cũng chỉ nói tới đôi mắt, tới trí thông minh, tới tinh thần trách nhiệm của cô, chưa bao giờ nói tới cái đít cô cả. Đúng là một phát hiện! Chẳng biết trả lời anh lính ra sao cô đành cười ngượng nghịu. Trong suốt buổi tiếp tân, cô trả lời qua loa những lời chúc tụng cô - vẫn chỉ khen đôi mắt - Bừng bừng cả người, nhớ tới con vật to khỏe, tóc nâu ngốc nghếch, cô đã quyết định người đầu tiên phá trinh cô sẽ là anh lính.
Đến mười một giờ đêm, cô tìm đến với anh lính...
Một năm sau chuyện phiêu lưu ấy, cô làm quen với Kallenberg. Ông được mời tới dự lễ cưới của Lena và Socrate. Ông chủ tàu người Đức này đã nổi tiếng ghê gớm là một người tán gái giỏi. Các cô con gái có của hồi môn ở cái xã hội thượng lưu quốc tế đã đặt tên ông ta là “Con yêu râu xanh”. Lúc đó ông kém Socrate một tuổi, tuy ông đã lấy vợ và ly dị tới bốn lần. Người vợ gần nhất là một bà người Mỹ, nguyên là một quả phụ của nhà đại-tư-sản về thép. Kallenberg đã đầu tư hết số vốn chưa dùng của bà ta vào công việc vận tải đường biển của mình. Ngay khi vừa xong lễ cưới của Socrate, Kallenberg đã cãi nhau kịch liệt với người vợ tẻ nhạt, hơn tuổi ông, to béo đến mức mọi phương pháp xoa bóp cho tiêu mỡ cũng chẳng ăn thua gì. Phải nói rằng ông khó chịu vì sự có mặt của bà ta bên cạnh mình. Ông nghĩ rằng bà ta đã làm giảm giá trị của mình trước mặt Socrate, kẻ địch thủ, kẻ thù ghê gớm của ông. Ông ấm ức vì lần này Socrate không những đã lấy được một tuyệt thế giai nhân mười bảy tuổi, mà từ nay trở đi sẽ thành người góp vốn tương lai, lại còn có thể thành người toàn quyền thừa kế gia tài khổng lồ của Mikolofides.
Thật là quá đáng: khi vợ ông rời khỏi buổi tiếp tân, tái mặt vì bị làm nhục, trong óc nặng trĩu những lời nhiếc móc, “Con yêu râu xanh” vờ không nhìn thấy bà ta. Bà ta đã mất quá nhiều thời gian mới hiểu được rằng nên để ông ta tự do. Và bây giờ thì ông thấy mình trở lại là mình. Ông hít mạnh không khí với một vẻ thách thức. Rộng cẳng rồi, ông đưa mắt khống chế nhìn khách khứa tìm xem sẽ tiến công vào người phụ nữ nào đây. Ông vô liêm sỉ liếc Melina, cô phù dâu vừa bỏ trường phổ thông nước Anh trở về. Nhưng đám thanh niên nhạt nhẽo mặt đầy mụn trứng cá đang vây quanh Melina, làm ông ta chưa kịp tiến công đã vội rút lui. Irène vẫn quan sát những trò của ông. Cô có thể đọc rõ được như trên màn ảnh những ý nghĩ của ông, và đoán trước được sự phát triển lô-gích những ý nghĩ ấy. Cô đợi. Cô lẩn vào một góc vắng nhất trong phòng khách, sau bàn bày thức ăn. Và cô lơ đãng làm duyên với hai ông cố đạo già và bẩn, ba lão nhân viên trung thành, quá sạch sẽ, được mời theo kiểu bố thí đến dự lễ tiếp tân.
Cuối cùng thì Kallenberg đã tìm ra cô. Ông mỉm cười lại gần cô cứ như vừa phát hiện ra người đẹp! - mời cô khiêu vũ và nắm lấy bàn tay cô. Chuyện ấy không lọt khỏi đôi mắt lo lắng của bà Médée Mikolofides. Vì bà cũng theo dõi rất sát cái cảnh vửa xảy ra. Irène không thấy cái anh chàng cao to tóc vàng ấy hấp dẫn ghê gớm gì, cái anh chàng quá tự tin nói năng ồn ào, bằng một cái giọng ra lệnh. Nhưng cô ta thầm cảm ơn ông đã làm cho cô nổi giá lên ở trước công chúng. Và cô ngạc nhiên chợt thấy mình rung động khi ông ta vừa ôm lấy cô trong vòng tay một cách vừa thô lỗ vừa có quyền, rung động đến mức mỏ ác nóng ran lên. Cô cảm thấy những ngón tay chuối mắn của ông ấn sâu vào thịt hông mềm mại của mình. Những ngón tay cứ nán lại mãi ở đây, từ từ xoay xoay, vừa man rợ, vừa làm cho đau.
Sau điệu nhảy, thế là mọi chuyện coi như đã xong. Cô đã tìm thấy ông chủ của mình, hy vọng ông sẽ mãi mãi là như thế để bắt ông phải đền bù lại những xúc động cô vừa cảm thụ. Về phía Kallenberg, ông cũng chẳng mong gì hơn thế. Lạ thật, tại sao trước kia ông không nghĩ ra điều đó nhỉ? Nếu ông thành người của gia đình này, ông sẽ có hai lợi thế: vừa có thể kiểm soát được những mưu mô lắt léo của Socrate, cũng như việc điều động vốn của mụ béo Médée, mẹ vợ ông.
Mọi chuyện không kéo dài. Một tháng sau, Kallenberg tiến hành thủ tục ly dị lần thứ tư trong đời. Lý do: tàn nhẫn trong tâm thần. Không phải ông tàn nhẫn, bà người Mỹ kia tàn nhẫn!
Trong lúc đó, “bà góa” âm thầm suy nghĩ về diễn biến của những sự kiện, một mặt, mụ vui vì đã gả được chồng cho cô con gái cả. Mặt khác, mụ lo rằng việc đón hai con chó sói ấy vào nhà, có thể làm cho chúng nảy ra ý định lợi dụng sự quen biết giao dịch và đoàn tàu chở hàng của mụ. Ngoài ra, tuy mụ vẫn cảm thấy mình không ai có thể đánh đổ nổi, nhưng có lẽ nắm được ở trong tay những thằng cuồng của cái thế hệ đang lên, một ngày kia sẽ thành những địch thủ của mụ - mụ không tin điều đó chút nào - thì âu cũng là một điều hay. Cuối cùng, mụ ta đã chọn giải pháp chính trị này, tự hứa với mình sẽ hết sức chú ý đến hai thằng con rể. Mụ sẽ gả Irène cho Kallenberg khi nào mụ thấy việc đó có lợi. Trước đó, mụ đã cho điều tra rất nghiêm túc về “Con yêu râu xanh”, vẫn dùng những thám tử đã điều tra về Socrate. Gia tài, tật ở cơ thể và thói quen, tật xấu ngoài đời, lý lịch tư pháp, nguồn gốc. Đọc những báo cáo của các thám tử, mụ đã lắm lúc giật mình, nhưng tổng kết lại, những chuyện đó rồi có ngày mụ sẽ biết cách dùng có lợi cho mụ. Irène, vẫn là một khán giả chăm chú, trong hậu trường, dự vào mọi việc thương lượng chính thức, dự cả vào những quay ngoắt thầm kín trong lòng mọi người. Cô chỉ mong được đối mặt với ông chồng tương lai, để bắt ông ta phải quy phục trong thời gian ngắn nhất. Cô đã vỡ mộng.
Kallenberg tàn nhẫn như một quả trứng bằng thép không hề có kẽ hở, không thể bị ai hạ, hoàn toàn vô tri vô giác với mọi thứ ngoài bản thân ông ta. Đêm tân hôn, trong lúc cô chuẩn bị làm nũng làm nịu, định bắt ông trăm tội trăm nợ rồi mới đạt được điều ông mong muốn, thì ông bỏ nhà ra đi, mãi năm giờ sáng mới trở về. Trong thời gian đó, bộ mặt trang điểm cầu kỳ của Irène đã chảy hết phấn son, cái áo ngủ mỏng trong suốt nhàu nát như giẻ rách và cô đã phải uống thuốc an thần hết viên này đến viên khác để khỏi điên lên vì giận. Khi “Con yêu râu xanh” trở về, vẻ mặt đắc thắng và mệt mỏi, cô đã nằm trên giường nửa tỉnh nửa mê. Theo bản năng, cô quay lưng lại phía ông. Ông cởi quần áo, chỉ mặc độc một xì-líp lăn ra cạnh cô. Lúc ấy, cô đang giả vờ ngủ say thì ông nắm tóc cô giật mạnh, lật ngược cô lại. Irène vờ tỉnh ngủ, vờ coi hành động thô lỗ ấy như một sự vuốt ve. Mặc dầu mớ tóc bị bàn tay con người thời kỳ hang động kia túm lấy làm cô ta phát khóc, cô cũng mỉm cười với ông trong ánh sáng lờ mờ: “Kìa, anh đã về... Em vừa thiếp đi”. Ông đã phản ứng lại một cách đáng ngạc nhiên: “Dậy đi con đĩ! Và trình bày cho tao xem mày biết sử dụng cái đít mày như thế nào!”.
Cái tiếng ấy mà lần thứ hai một người đàn ông dùng trước mặt cô, lại có sức mạnh làm cô thoát được khỏi mọi điều tự cấm đoán. Thế là bắt đầu một cuộc chạy đua tìm khoái cảm kỳ diệu. Cô thì tập trung vào cái kỷ niệm với anh chàng lính gác: ông thì gầm gừ, lần lần theo đuổi những cảm giác của riêng mình. Mỗi người làm tình với riêng mình, dùng kẻ khác để thủ dâm một cách hung dữ.
Chẳng mấy chốc, cộng với những tiếng gầm gừ của chồng, là những quả đấm, cái đánh mà cô nhận được như một món quà dâng và làm tăng thêm gấp bội sự kích thích của cô. Khi ông đã đi sâu vào người cô, lúc ấy cô mới vỡ lẽ tất cả, hiểu được lý do của sự cằn nhằn, hiểu được động cơ của lòng thèm muốn quyền lực ấy: Kallenberg chỉ có một dương vật bé xíu, càng lố bịch vì của ấy lại được ghép vào một thân xác quá khổng lồ. Cô ta thấy ngay trong sự tương phản ấy một cơ hội rất tốt để có được một lợi thế với ông. Cô lại nhầm một lần nữa. Kallenberg biết rõ được sự thiếu hụt ấy của mình, đã bù đắp lại một cách hung dữ bằng một sự gây gổ thường xuyên, biểu hiện bằng những tiếng cười lớn đắc thắng, những cơn điên dại bất ngờ, lòng khao khát chinh phục, thống trị, ý muốn đánh người và làm nhục để đi đến tận cùng sở thích...
Quan hệ giữa hai người như vậy là được đặt ra dưới biểu hiện kép của thù hằn và chịu lép, của tàn phá và của những lời nói cay chua. Rất nhanh, Irène đã tự tổ chức cho bản thân mình trong cuộc chiến tranh mà tiền đặt là kẻ này sống thì kẻ kia chết. Đôi khi, cô vờ rút lui để ông tiến sâu hơn, rồi đột ngột chặn đứng lại một cách không thương tiếc khi ông hở sườn. Có những lúc, khi thấy bâng khuâng trong lòng, cô chịu nhận không chống lại những luật lệ của ông. Và từ sự chịu đựng nhất thời ấy mà tìm ra khoái cảm. Thực tế, cô ta căm thù Kallenberg. Cái ý định của ông cử hành lễ Thiên Chúa giáng sinh vào ngày 13 tháng Tám quả là lố bịch và báng bổ Chúa Trời. Để đối phó lại, cô chỉ có hai giải pháp: hoặc là bỏ đi du lịch, hoặc là tham dự vào cái trò hề ấy, giả vờ như chính mình đã tổ chức ra. Giải pháp thứ nhất nguy hiểm ở chỗ có thể gây ra những lời đàm tiếu: “Kallenberg đã sa thải con mụ vợ thứ năm rồi!”. Dù sao đi nữa, cái bọn ăn cướp tràn ngập vào cái tòa lâu đài lịch sử của cô ở khu Môn, sẽ chẳng để lại cái gì nguyên vẹn đâu. Cô ngồi trên giường, băn khoăn suy nghĩ. Trước mặt, trên một cái khuy làm toàn bằng vàng khối - quà tặng của ông chồng nhân dịp kỷ niệm hai năm ngày cưới - bày những viên thuốc đủ màu sắc, có nhiều tác dụng khác nhau, mà cô luôn luôn mang theo bên mình. Thiếu những thứ thuốc ấy, cô thấy hoảng sợ một cách ám ảnh. Điện thoại dùng riêng trong nhà khẽ kêu. Cô cầm máy lên: “Nghe đây nhé, con bò cái kềnh càng kia! Ngày mai cô phải mặc một cái áo hở hang khêu gợi. Tôi chán ngấy những bộ áo bà già của cô rồi. Vì cô không làm ai cười được thì hãy thử làm cho động đực vài thằng xem sao!”.
Cô phiên dịch ngay ý nghĩa thầm kín của những lời lẽ tế nhị ấy: Kallenberg lúc này đang ở trong phòng làm việc, chắc chắn có kèm theo một gái điếm, niềm say mê lớn của ông, và muốn biết chắc chắn xem cô có ở trong phòng ngủ không. Cô chợt có một ý nghĩ châm biếm đối với cô gái điếm: Con bé sắp được hưởng một trận ra trò đây! Với một nụ cười lập lờ nhiều ý, Irène rót một cốc sữa, nuốt những viên thuốc theo một thứ tự rất nghi thức: đầu tiên là những viên xanh lơ, rồi đến những viên hồng, viên vàng, viên xanh lá cây, viên trắng sau cùng. Cô ta nằm ngửa hẳn ra, vươn vai và mơ thấy mình đẹp, thành gái điếm và đang làm Kallenberg phải đau đớn.
Kallenberg chưa bao giờ tâm sự điều này với ai, nhưng đôi khi nguyện vọng tha thiết của ông là được làm đao phủ. Được phép giết người theo đúng luật pháp, không nguy hiểm cho bản thân chút nào, ông ta cho là sự thỏa mãn tột đỉnh. Nhưng con người ta thường giả dối. Trong bọn họ, kẻ nào dám trực diện thú nhận cái khao khát ấy nào? Đạo đức đã làm cho họ nhạt nhẽo đi, tôn giáo đã làm họ mềm yếu đi. Ông rót một lượng lớn Uýt-xki vào cốc ông đang uống và đưa cho cô gái tóc vàng.
- Này, con lợn cái, uống đi!
Cô ta nhăn mặt từ chối và ngắm ông với một vẻ mặt lạ lùng. Lại thêm một con nữa biết rõ ông mất rồi.
- Mày không thích rượu à?
- Tùy lúc, tùy người.
- Thế thì mày thích gì?
- Tiền!
- Tao đã trả tiền mày rồi!
- Có ai nói khác đi đâu?
- Nếu mày có tiền, mày sẽ dùng tiền làm gì?
- Em sẽ bắt những thằng như ông bò bốn chân như chó ấy.
- Mày ngộ quá đấy! Mày thích nhìn người khác bò trước mặt mày à?
- Vâng.
- Những thằng như tao hả?
- Vâng.
- Tại sao? Mày thấy tao xấu trai à?
- Không. Ông còn hơi đẹp trai hơn nữa kìa.
- Thế thì tại sao?
- Vì trông ông tởm!
Ông tát cô gái. Tát phải, tát trái, nhanh và mạnh đến độ gò má cô gái tím bầm lại ngay.
- Còn cái tát này có tởm không? Mày nghĩ sao?
Bướng bỉnh, cô gái nhìn thẳng vào mặt ông, lấy hết nghị lực để nước mắt khỏi trào ra và giữ vẻ thản nhiên. Kallenberg tiếp tục nói bằng cái giọng bình tĩnh, như không có chuyện gì xảy ra:
- Mày còn chịu làm thêm những trò gì nữa để lấy tiền?
Cô gái không trả lời, đăm đăm nhìn ông, mắt không chớp - con chuột nhắt cố gắng lên gân trước khi bị con mèo xé xác.
- Nếu thế thì để tao nói cho mày biết, mày sẽ làm bất cứ trò gì! Đây này, nhìn đây...
Ông móc túi quần ra một cuộn giấy bạc to tướng, có lẽ đến năm nghìn bảng Anh:
- Mày thấy không... Chỉ cần tao rút ra vài tờ, thế là theo lệnh tao, mày sẽ nhảy múa, bò lổm ngổm, cởi quần ra cho tao xem hoặc liếm gót giày tao. Mày muốn bắt đầu bằng trò gì trước?
- Tôi muốn lấy cái ví của tôi.
- Trả lời đi! Bắt đầu bằng trò gì?
- Ông cho tôi xin cái ví của tôi.
Bây giờ thì cô gái bắt đầu sợ. Cô chẳng còn nghĩ tới chuyện đương đầu với ông nữa, chỉ mong rút khỏi đây lành lặn mà thôi. Dù sao thì cô cũng đã lấy tiền rồi. Còn ông thì cũng đã làm tình với cô theo cách của ông và ông đã tát cô, như thế là tiền trao cháo múc rồi. Tất cả những gì cô mong muốn hiện nay là đi khỏi đây, đi thật nhanh!
- Đây. Cái ví của mày đây, con đĩ!
Ông ta vứt cái ví xuống tấm thảm Trung Quốc tuyệt mỹ, đỏ tuyền, mua bằng một giá rất cao của những tên chuyên tiêu thụ đồ ăn cắp, chắc đã mua của bọn ăn trộm các bảo tàng. Cái ví xấu xí bằng nhựa trắng và kim tuyến, vô duyên, có vẻ làm bẩn tấm thảm quý, còn bẩn hơn cả một bãi đờm hoặc một bãi cứt chó.
Cô gái cúi xuống, nhặt cái ví ôm chặt vào người, và đợi, đứng ngoài tầm tay của Kallenberg.
- Thôi, cút! Mày đừng có giở cái bộ mặt ấy ra! Một ngày nào đó, tao sẽ cho người tới tìm mày!
Ông ấn tay vào một cái nút. Một mảnh tường gỗ của phòng đọc sách quay ngang ra. Hiện ra một tấm cửa thép. Ông quay chữ trên một mặt số để mở tấm cửa thép ấy. Ông đứng ở khung cửa, to lớn, đồ sộ, đợi cho cô ta đi ra.
- Sao? Còn đợi gì nữa?
Cô ta sợ không dám đi qua trước mặt ông. Và cảm thấy nỗi sợ của cô, ông coi đó là được thêm một khoái cảm không ghi trước trong cuộc mặc cả với cô gái.
- Bây giờ thì nhanh lên, tao đang bận việc đây. Khi nào đi đến cuối cầu thang, nói với thằng gác rằng mày vừa từ phòng tao đi ra. Nó sẽ để cho mày qua.
Cô gái nhìn ông, ngần ngừ như khi ta nhìn một bờ biển dốc đứng mà ta đinh ninh nó sắp đổ sụp xuống đầu. Đột nhiên, cô quyết định liều, tập trung lòng dũng cảm còn lại trong người, nhảy một cái vượt qua mặt ông. Ông vừa phá lên cười, vừa phát thật mạnh như trời giáng vào mông cô, làm cho cô lao trượt xuống cầu thang trên đôi gót gỗ rất cao của cô. Cô còn được nghe thêm:
- Mày còn may là hôm nay cái thằng tởm này đang vui đây!
Đằng sau lưng cô gái, Kallenberg đóng tấm cửa thép lại. Chỉ riêng trong phòng làm việc của ông ta thôi, đã có những bức họa giá trị tới khoảng bốn triệu bảng Anh. Ngổn ngang những bức họa của trường phái ấn tượng, do những tay sai của ông ở khắp thế giới vơ vét về bằng cách trả giá thật cao. Tranh của Sisley, của Renoir, của Pissarro, nhiều phác thảo của Monet vẽ cảnh nhà thờ Chartres và những bông sen trắng. Hai phác họa của Degas về múa, ba bức của Lautrec, bốn bức của Van Gogh. Một bức vẽ khỏa thân tuyệt đẹp, màu đỏ của Modigliania, bức họa đồ sộ, không khí tế lễ, bí hiểm. Một bức đại danh họa của Gauguin, thời kỳ Tahiti, màu sắc nhờ xỉn, ba hình người đứng trên một bãi cát vàng óng ánh, và xa xa, một con ngựa thả rong, trắng xanh, và biển dữ dội, màu xanh cô-ban man dại, và trời màu gạch, gần như đỏ. Để đối lập với những bức họa hiện đại ấy, có ba danh sư cổ điển. Một chân dung của Raphaël, một đồ họa của Vinci, vẽ bán thân một chàng thiếu niên đẹp đến ngạt thở, và một bức tự họa của Rembrandt, bức đối lại với bức “Người đội mũ vàng” của bảo tàng hội họa ở Munich. Tất cả những bức tranh ấy bày theo một kiểu lộn xộn thông thái, với một vẻ lơ là có nghiên cứu ở trên những bức tường phủ bằng gỗ quý.
Trên hai bức tường khác, Kallenberg trưng bày những bức đồ họa vẽ những tàu buôn đầu tiên, vào thời kỳ tàu có buồm chuẩn bị đầu hàng những tàu chạy bằng máy. Tàu Washington, đóng bằng sắt và biến thành tàu nhỏ hai buồm, chạy bằng guồng hạ thủy năm 1865 và sau ba năm, lại biến thành tàu có hai chân vịt và ba cột buồm. Tàu Lafayette, ra khỏi xưởng cùng năm, cũng chạy bằng guồng, nhưng ngay ở trên đà đã được thực hiện thành tàu chạy bằng một chân vịt. Người Anh đã mua tàu này và đổi tên là tàu Lancing năm 1988. Kallenberg thuộc lòng lịch sử từng ông tổ vinh quang ấy, biết rõ năm sinh tháng đẻ, thời thanh xuân, những chuyến đi và cái chết của chúng hai mươi năm hoặc bốn mươi năm sau. Bức đồ họa vẽ tàu “Thành phố Paris” của Kallenberg đối với khách dù danh tiếng đến đâu cũng chẳng có nghĩa gì. Nhưng Kallenberg thì vẫn như nhìn thấy con tàu ấy rẽ sóng trên Thái Bình Dương, trong cái nhịp hổn hển của bộ máy tám trăm mã lực, tưởng tượng ra rõ ràng những cuộc thương lượng mặc cả để mua bán nó ở Brème năm 1888, trước khi nó thành chiếc tàu bốn cột buồm Bischoff và mắc cạn ở sông Elbe. Một con tàu, không phải chỉ là một cái khung cốt bằng kim khí, vải bạc và gỗ, mà là một cái gì đó có đời sống riêng, nhằm để vĩnh viễn rạch xé ngang dọc biển ra để làm giàu cho những kẻ đã sản sinh ra nó. Xét cho cùng, còn hơn cả những tác phẩm nghệ thuật, những con tàu đã đem lại cho ông niềm lạc thú thật sự, niềm lạc thú duy nhất thuần túy là mỹ học. Có tâm hồn của dân tộc Vai-king cổ xưa, ông đứng ngắm mãi được những mẫu thu nhỏ các tàu chở dầu của ông, trước khi các xưởng đóng tàu bắt đầu sản xuất ra chúng. Ông mân mê, vuốt ve âu yếm những cái mẫu thu nhỏ ấy, tưởng tượng rồi đây, sau khi chúng được lao xuống đà, chúng sẽ đi xuyên thế giới, phấp phới cờ hiệu của ông.
Một hôm, ở Ai Cập, nhà vua Faroukc béo mập đã hỏi ông:
- Tôi sẵn sàng mua lại toàn bộ đoàn tàu của ông. Nhưng ông hãy nói tôi nghe, ông sẽ dùng tiền đó để làm gì?
Tiền, được lắm, nhưng tiền dùng làm gì? Cuối cùng, tất cả đều xoay quanh câu hỏi đó. Nó đã được đặt ra với ông, người có thể mua hết mọi thứ trên đời, hoặc với cô gái điếm ở Soho chỉ có trôn để bán! “Con yêu râu xanh” đã trả lời ngay, không nghĩ ngợi:
- Tôi sẽ dùng tiền mua một đoàn tàu khác để cạnh tranh với ngài.
Và nếu bây giờ có ai hỏi ông tại sao ông cứ luôn luôn muốn cạnh tranh với mọi người, thì ông sẽ lúng túng. Thì đã sao? Điều chủ yếu không phải là tìm hiểu xem “tại sao” mình lại chạy đua mà là chạy, cảm thấy mình chạy ra sao. Gia đình dòng dõi ông ở Hambourg, từ đời ông đến đời cha đều làm nghề cướp biển. Đi ngược lịch sử đến bao nhiêu nữa, người ta vẫn tìm thấy một Kallenberg đứng trên một con tàu, đang đuổi bắt một con mồi nào đó. Để phá vỡ cái truyền thống đó, ông bố của Kallenberg, khi đã đứng tuổi, muốn con trai mình nên danh nên giá đã hy vọng con trai mình trở thành một nhà ngoại giao. Ông già không từ một cố gắng nào để con đạt được mục đích ấy. Trong lúc chỉ nghĩ tới biển, Kallenberg lại thấy mình bị lưu đày ở Thụy Sĩ, điều hài hước chỉ riêng ông cảm thấy vị chua chát. Ông kết bạn trước hết với con cái các tiểu vương Ả Rập, con cái các chủ nhà băng: một ngày kia sẽ trị vì trên mặt biển.
Sau khi ông đã qua hết các chương trình đại học, ông bố liền gửi con sang Anh, để tiếp tục học thêm ở Oxford. Ông cũng không cưỡng lại nhiều. Ít nhất ở Anh, còn ở trên một hòn đảo. Và tuy không nhìn thấy biển, ông vẫn tưởng tượng ra biển bao quanh ông ta, bên kia những đồng cỏ đáng buồn bị những ngọn đồi thoai thoải đầy những con bò cái bao chặt chân trời. Thứ mà ông đọc thích thú nhất là những báo chí chuyên về thị trường chứng khoán mà giá trị với những thăng trầm dạy cho ông tiên đoán, đã làm cho ông luôn luôn hồi hộp. Ông học tiếng Ả Rập, đoán trước được rằng vũ khí ngôn ngữ ấy sẽ có lợi cho việc xây dựng vương quốc tương lai của ông, hơn cả tiếng Đức, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà ông thông thạo. Ông kiên trì học tiếng Ả Rập. Đã từ lâu, ông đành cam chịu cái nhược điểm về cơ thể của mình. Nó làm ông ngượng ngùng vô cùng. Khi ở chỗ thay quần áo một sân vận động, bắt buộc phải cởi quần áo trước mặt bạn bè, bao giờ ông cũng thu xếp để quấn một khăn bông quanh hông, đợi cho đến khi khói nước nóng mù mịt từ hoa sen tỏa xuống mới chịu buông nó ra. Mặc dù những sự giữ gìn cẩn thận ấy, vẫn không tránh khỏi nọt đôi lời nhận xét châm biếm làm cho anh chàng khổng lồ Herman Kallenberg ấy phải đỏ mặt tía tai. Vẻ khinh bỉ, ông trả lời những kẻ phá bĩnh rằng chúng nó chẳng biết gì hết, rằng khối lượng không có nghĩa gì, vì đó là một thứ như bọt biển, máu dồn vào sẽ cương lên ghê gớm và Kallenberg này sẵn sàng thách ai bằng được khi Kallenberg đã cương lên. Tất nhiên, ông không thể lý luận như thế với những cô gái đầu tiên mà ông âu yếm. Sự im lặng của những cô gái ấy làm ông khó chịu hơn cả những lời nhận xét chính xác. Chỉ có một cô gái đã dám úp mở nói về chuyện ấy, một cô bé tóc đỏ ông bắt được trong một buổi khiêu vũ ở trường đại học. Cô vừa cười vừa bảo ông:
- Ô này! Cái ấy của anh bé như một con khỉ con ấy nhỉ!
Ông không giận cô bé. Thà rằng cứ âu yếm nói thẳng ra còn hơn những im lặng đầy ngụ ý. Và ông đã tìm mọi cách làm cho chuyện vặt ấy bị quên đi trong lúc làm tình với cô ta.
Vả lại, ông đã làm hết cách để bản thân cũng quên chuyện ấy đi, giận dữ, gây gổ, làm những kẻ sống chung quanh bị mê hoặc vì sự gan góc, vẻ tỉnh bơ không hề xúc động của ông, đứng đầu trong mọi chuyện, lấn lướt mọi người nhờ sức khỏe, mưu mô vờ vịt và duyên dáng của ông, vờ tình cảm để giết cho ngon hơn, vờ đóng vai trẻ con ngơ ngác để làm cho phụ nữ chú ý, ăn gian nói dối trắng trợn trong mọi trò chơi, chẳng sợ hải, chẳng hối hận.
Khi ông tốt nghiệp, ông bố hỏi ông định bước vào “Nghề ngoại giao” bằng cách nào. Ông già say sưa, kiêu hãnh đã nhìn thấy con mình là bí thư thứ ba Đại sứ quán ở một nước Cộng hòa Mỹ La-tinh xa xôi. Lạnh lùng, Kallenberg tuyên bố với ông già rằng ông sẽ không thành nhà ngoại giao, ông sắp lao vào chuyện làm ăn buôn bán. Nhưng để an ủi ông bố, ông sẽ lấy vợ của một vị Đại sứ. Ông ta đã gặp cô trong một buổi tiếp tân uống trà... Cô ba mươi tuổi, ông hai mươi hai. Cô hoa mắt về cơ thể của ông, ông bị thần phục vì những mối quen biết của cô.
Ngay lập tức, ông đem số vốn cô có thể huy động được mua liền những cái tàu cũ người ta sắp phá bỏ đi ở Athènes. Với số tiền còn lại, ông thuê một kíp thợ, trao cho họ trách nhiệm phải làm cho những con tàu đó mất cái vẻ ọp ẹp sắp đắm và cho chúng có cái bề ngoài của những con tàu. Trên những cái thân tàu mọt ruỗng, người ta trát lên những lớp sơn dày tới mức vỏ tàu nhẹ mộng ra thực tế đã được gắn kín. Bây giờ chỉ còn việc tạo ra một công ty đường biển, đăng ký bảo hiểm đoàn tàu của ông và đi tìm khách hàng. Dĩ nhiên, thủy thủ trên tàu sẽ gặp nhiều nguy hiểm. Nhưng Kallenberg không làm theo kiểu những tên chủ tàu chuyên nghiệp hư đốn vẫn làm: lúc đầu, cho tân trang những con tàu khốn nạn thành tàu tốt bằng bọn lưu manh, chuyên gia ngụy trang và đánh đắm tàu theo mọi kiểu. Sau đó, bịp chuyên gia của các công ty bảo hiểm tàu để họ chịu bảo hiểm với giá bồi thường đắt gấp trăm lần giá trị thật của các khung cốt gò tán lại và màu sắc lòe loẹt kia. Bây giờ chỉ còn việc đánh đắm cả cái đoàn tàu ma ấy. Bọn thủy thủ, đồng lõa với trò bịp bợm, kéo những con tàu tồi tàn ấy ra khơi, phá thủng một lỗ ở vỏ tàu, đánh điện S.O.S cấp cứu, để cho các tàu cứu hộ tới cứu. Và một tháng sau lại cái trò tàu đắm. Một kiểu khôn khéo khác là đưa tàu vào đường đi của các tàu lớn, để cho chúng đâm phải. Trò này dễ làm người ta tin hơn rằng tàu đắm thật.
Với số lãi thu được trong các chuyến vận tải hàng đầu tiên, tuy giá thuê của Kallenberg rất thấp so với những người cạnh tranh, ông ta mua những con tàu vững vàng. Ông ta dành một phần tiền mua những tàu đánh cá nhỏ đã quá lão, mà các thuyền trưởng được lệnh đẩy nổi hơi lên tới độ muốn tắt thở. Ấy thế là khi mới hai mươi bốn tuổi, trong lúc các bạn đồng học còn đang băn khoăn chọn lựa nghề nghiệp thì Kallenberg đã giàu có rồi. Thành công của ông khởi đầu tốt đẹp lắm...
Chót vót trên đỉnh cao của cái hệ thống đẳng cấp mà ông ta đang leo lên ấy là nhà Mikolofides không ai dám chạm tới. Trên con đường làm ăn của ông luôn luôn có kẻ ngáng chân, ngáng cẳng. Đó là kẻ cùng tuổi với ông nhưng đã bắt đầu được người ta vì nể: Socrate. Ở vị trí Kallenberg, ông thừa hiểu rằng tên Hy Lạp kia, để làm giàu đã dùng những phương pháp tương tự với ông, cũng chuyên nghề vờ đắm tàu, cũng không hề bị lương tâm cắn rứt. Cuộc cạnh tranh kích thích Kallenberg. Ông nhận định rằng cuộc đọ sức sẽ tàn bạo, không bị ràng buộc gì hết, và vỏ chuối họ vui vẻ vứt kỹ vào chân nhau ở trên đường thì vô khối. Điều làm ông bực dọc là mức tiến không cảm thấy được của Socrate vẫn cứ hơn ông, tựa như hắn cũng có những sáng kiến như ông nhưng sớm hơn vài tiếng đồng hồ. Thế mà Socrate lại không có duyên, cũng chẳng có học thức như ông. Hắn tác phong thô kệch, nhỏ con, không đẹp trai, tóc hung đỏ mà lại còn cận thị nữa. Chỉ có điều, hắn có thiên tài đánh hơi tìm thấy ngay những món béo bở, nhất là những món bất hợp pháp.
“Con yêu râu xanh” nhận ra điều đó trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, một cơ hội trời cho đối với các chủ tàu, đứng đầu là Socrate. Socrate đã biến các tàu đánh cá nhỏ thành tàu chở vũ khí, đêm đêm lần mò đi ngược các bờ biển Tây Ban Nha để bán vũ khí cho cả phe phát xít lẫn phe cộng hòa, không phân biệt. Cứ mỗi lần Kallenberg phong phanh thấy một món hàng có thể ăn được, thì đã thấy Socrate chớp mất từ hôm trước. May thay, những đơn đặt hàng không thiếu, và việc trao hàng đã đem lại cho Kallenberg những món lãi kếch xù, lập tức được đầu tư mua những thứ khác ngay. Kallenberg cũng đầu tư vào thị trường chứng khoán, với những phương pháp làm cho những người quan sát sợ rùng mình, vì chúng có thể làm lụn bại bất cứ ai. Những đối thủ của ông ta cho rằng thành công ông ta thu được bằng những hệ thống đầu tư bề ngoài hoàn toàn phi lô-gích là nhờ may. Thật ra, phương pháp đầu tư của ông chặt chẽ vô cùng: “Con yêu râu xanh” nhận ra rằng về phương diện tài chính, cùng một nguyên nhân chưa chắc đã đẻ ra cùng một kết quả. Không phải tại những bất ngờ về kinh tế, vì những bất ngờ này vẫn có thể đoán trước được do đã từng xảy ra nhiều lần trong quá khứ. Mà chính tại những con người đã phán đoán được trước những bất ngờ ấy. Như trong một cuộc đua ngựa, nếu chỉ có ba người, chỉ ba người thôi, biết được con ngựa sẽ giật giải, thì ba người đó sẽ được phân chia toàn bộ số tiền đánh cá của những kẻ khác. Nhưng nếu trái lại, một triệu người biết được điều thấy trước đó thì tuy họ đều đặt tiền đúng vào con ngựa giật giải cả, họ vẫn chỉ được một món tiền xoàng xĩnh thôi.
Vì vậy, “Con yêu râu xanh” thường nghi ngờ những chứng khoán “chắc ăn”, thừa biết rằng chúng sắp chẳng chắc ăn gì nữa, nhất định sẽ bị hạ giá do quá đông người ủng hộ chúng. Chính theo tinh thần ấy, ông đã đặt tiền vào lão tiểu vương xứ Baran. Xứ Baran nằm trong vịnh Persique, chỉ là một lưỡi đất chẳng có bóng cây chẳng nước nôi, nóng chảy mỡ, có mười ngàn dân cuồng tín quần áo rách rưới, vừa đang chết đói vừa quá tin sùng tôn giáo. Tiểu vương tên là Hadj Thami el-Sadek, được dân ở đó coi là một Nhà tiên tri. Lão ta là một chính trị gia ngoan cố, truyền cho dân phải trong sạch và phải tiến hành Thánh chiến, vì ở mảnh đất của lão ta có dầu hỏa. Sáu tháng trước đây, khi cung cấp cho tiểu vương một tàu vũ khí, Kallenberg ngạc nhiên được biết Socrate cũng đã làm như vậy trước ông. Có điều là Socrate chỉ cho một số tiền hạn chế, hoàn toàn có tính chất chiến thuật. Rõ ràng là ông em cột chèo không hề bỏ lỡ thời cơ và tiền bạc.
Được một nhóm binh lính cuồng tín ủng hộ, tiểu vương xứ Baran nhanh chóng chiếm được vị trí của mình ở khu vực đó, bởi vì lẽ ông ta luôn mồm dẫn Kinh Co-ran, coi thánh A-la là động cơ của mọi hành động của ông ta, thực hiện khổ hạnh tuyệt đối, nâng cao uy tín bằng lời nói và sức mạnh lòng tin của ông ta. Mọi tín nhiệm của ông đều tập trung vào một hướng: đó là tất cả các ông hoàng và tiểu vương trong vùng vịnh Persique phải tôn ông là lãnh tụ tôn giáo của họ và công nhận uy quyền tinh thần của ông ta, người mà không ai có thể nghi ngờ rằng đã hành động vì những quyền lợi vật chất thấp hèn. Người nọ tiếp theo người kia, những đồng nghiệp chúa đất của ông, đã dần dần chịu đứng dưới ngọn cờ lãnh đạo tinh thần của ông. Họ đành phải làm như thế để bù đắp lại cái nghèo của ông và họ cũng chẳng biết họ sẽ bị dẫn đi tới đâu nữa. Chẳng bao lâu ảnh hưởng của Hadj Thami el-Sadek lớn dần. Khi xảy ra những chuyện tranh chấp, người ta mời ông tới đứng giữa dàn xếp. Trước khi gặp các tiểu vương khác, đại sứ các nước đều kính cẩn tới hỏi ý kiến ông, biết rõ rằng mọi hiệp ước có được ký