← Quay lại trang sách

2 Tháng Bảy

Mình chỉ bị trễ có vài ngày, làm sao mà có bầu được, nhưng bụng mình làm sao vậy, rồi tự dưng có cái vú thứ ba nổi gân xanh mọc ra giữa bầu ngực mình, cặp vú mà Vinny từng đặt tên là Dolly và Parton? Má điên lắm, không tin là mình không biết tác giả là ai: “Phải có đứa làm chứ! Cô đâu phải Đức Mẹ Đồng Trinh, đúng không?” Nhưng thực tình mình không biết. Vinny là nghi can số một, nhưng làm sao mình dám chắc là không có chuyện gì với Ed Brubeck ở trong nhà thờ? Hay với Gary ở Trại Black Elm, hay với thằng Alan Wall dân gypsy? Một khi trí nhớ của mình bị đảo lộn một lần, làm sao biết chắc là mình vẫn còn nhớ gì nữa? Mụ bò cái ở quán Smoky Joe đang cầm tờ Financial Times, giương mắt nhìn lên. “Hỏi đứa nhỏ. Nó phải biết chứ.”

Rồi mọi người bắt đầu hô, “Hỏi đứa nhỏ! Hỏi đứa nhỏ!” rồi mình cố nói là mình không thể hỏi được, nó còn chưa sinh ra kia mà, nhưng miệng mình như bị ai may lại, và mình nhìn xuống bụng, bụng mình đang to lên. Cứ như mình đang bị cột vào một cái lều bằng da khổng lồ. Đứa nhỏ bên trong đỏ rực, như khi chiếu đèn pin lên bàn tay, nó to lớn như một người lớn trần truồng. Mình sợ quá.

“Hỏi nó đi,” má rít lên.

Vậy là mình hỏi, “Ai là cha của ngươi?”

Rồi đợi câu trả lời. Nó lộn đầu về phía mình, nói bằng một giọng ghép quái dị, giọng một người ở xứ nóng: Khi Sibelius bị đập vụn, đúng ba giờ, Ngày của Ngôi Sao Riga, ngươi sẽ biết ta ở gần…

…rồi giấc mộng tan dần. Nhẹ cả người, túi ngủ, bóng tối dày đặc, mình không có bầu, một giọng xứ Wales thầm thì. “Không sao, Holly, cưng đang nằm mơ thôi.”

Vách ngăn bằng ván ép, trong nhà kho, ở một nông trại: tên chị ấy là gì? Gwyn. Mình thì thầm lại, “Xin lỗi nếu tui đánh thức chị.”

“Tui ngủ không sâu lắm. Nghe kinh vậy. Cơn ác mộng của cưng đó.”

“À… có gì đâu. Mấy giờ rồi?”

Ánh sáng trên đồng hồ của Gwyn có màu vàng óng, đục đục. “Năm giờ kém hai mươi.”

Vậy là gần hết đêm rồi. Có đáng đi ngủ lại không?

Một sở thú đầy những kẻ ngáy ngủ đang khò khò theo nhịp điệu khác nhau.

Mình cảm thấy một nỗi nhớ nhà, như dao đâm nhói trong bụng, nhưng mà mình đâm lại ngay. Nhớ cái tát không.

“Cưng biết không Holly,” Tiếng thì thầm của Gwyn lần giở giữa những lớp màn đêm. “Ra ngoài đời không đơn giản như cưng nghĩ đâu.”

Nói chuyện gì kỳ quá, đang đêm hôm nữa. “Nếu đám kia làm được,” ý mình là đám sinh viên, “thì mắc gì tui làm không được.”

“Không phải nói chuyện đi hái dâu. Là nói chuyện bỏ nhà ra đi kia.” Nhanh, chối ngay lập tức. “Tại sao chị nghĩ tui bỏ nhà đi?”

Gwyn vờ như không nghe mình nói gì, lờ đi như thủ môn lờ cú sút xa lắc vớ vẩn. “Trừ khi biết chắc, biết chắc là nếu quay trở lại thì sẽ…” rồi chị ta thở dài “…nát đời, thì tui nghĩ, cưng nên quay lại đi. Khi hết hè, hết tiền, không có tay Richard Gere nào cưỡi con Harley-Davidson tới mời ‘Nhảy lên đi cưng,’ thì cưng sẽ phải đi giành chỗ cạnh thùng rác sau tiệm McDonald mỗi ngày, lúc đó Gabriel Harty có nói gì gì nữa, cưng vẫn sẽ nghĩ rằng Trại Black Elm đúng là khách sạn năm sao. Cưng có một danh sách này. Gọi là ‘Những việc mình không bao giờ, không bao giờ làm để sống qua ngày.’ Danh sách đó không thay đổi gì cả, trừ tiêu đề, sẽ đổi thành “Tất cả những việc mình phải làm để sống qua ngày.”

Mình cố giữ giọng bình tĩnh. “Tui không bỏ nhà đi.”

“Vậy tại sao dùng tên giả?”

“Tên tui đúng là Holly Rothmans.”

“Còn tên tui là Gwyn Aquafresh. Mời cưng xài kem đánh răng?”

“Không có họ ‘Aquafresh’. Có họ Rothmans.”

“Cũng đúng, nhưng cá một bao Benson & Hedges rằng nó không phải là họ của cưng. Đừng hiểu lầm tui, biết dùng tên giả là khôn đó. Tui cũng hay đổi tên lắm, nhất là hồi mấy tháng đầu. Nhưng tui chỉ nói là, nếu cưng đang cân nhắc trở ngại phía trước và trở ngại sau lưng, thì chịu khó nhân trở ngại phía trước lên hai mươi lần.”

Chán mớ đời, chị ta thấy rõ bụng dạ mình, dễ như chơi. “Mới sớm mà đã triết lý rồi,” mình rên. “Ngủ ngon.”

Con chim đầu tiên trong buổi sớm mai bắt đầu ríu rít.

Mình uống nước cho trôi ba cặp bánh qui trét bơ đậu. Sau đó cả đám kéo ra một cánh đồng lớn ở phía nam, bà Harty và ông chồng đang dựng một cái lán rộng. Trời còn mát và đẫm sương, nhưng sẽ nóng lắm, mình nghĩ. Mình không ghét gì Gwyn cả, nhưng mình cảm giác như đã bị chị ta nhìn rõ gan ruột, mà mình không biết phải nói năng kiểu gì, vậy là mình đứng với Marion và Linda. Gwyn cũng có vẻ hiểu chuyện, nên đứng hái chung hàng với Stuart, Gina và Alan Wall, cách mình chừng mười hàng, vậy là không cách gì nói chuyện được, nếu có muốn đi nữa. Gary làm như mình vô hình, đứng ở phía xa với đám sinh viên. Càng tốt.

Hái dâu là việc khá nhàm chán, nhưng mà cũng yên tĩnh, nếu so với làm trong quán. Làm việc ngoài trời cũng dễ chịu. Chim chóc, cừu kiếc, rồi có tiếng máy kéo xa xa, đám sinh viên nói chuyện râm ran, mặc dù về sau thì ít nói hẳn. Mỗi người có một cái khay bằng bìa cạc-tông, ở trên có hai mươi lăm hộp, phải làm sao hái đầy mỗi hộp, mà phải là dâu chín, hoặc gần chín. Hái bằng cách lấy móng tay cái ngắt cuống trái, rồi bỏ vào hộp, cứ vậy mà làm. Mới đầu mình khom lưng khụy gối để hái nhưng bắp chân mỏi kinh khủng, vậy là mình quỳ trên rơm, vừa lết vừa hái. Giá mà mình có đem theo một cái quần jeans rộng, hoặc quần ngắn. Nếu dâu hơi quá chín, dập ra ngón tay, mình liếm sạch, nhưng dại gì ăn mấy trái đẹp vì như vậy cũng là ăn luôn tiền lương. Khi đã đầy hết hộp thì mang khay lại chỗ lán, để bà Harty cân. Nếu đúng hoặc vượt số cân thì bà đưa một cái thẻ nhựa, còn không phải quay lại chỗ cũ, hái cho đủ cân mới thôi. Linda nói tới ba giờ chiều thì cả đám kéo về văn phòng, đổi thẻ lấy tiền, vậy nên ráng mà giữ thẻ: không có thẻ thì không có tiền.

Hái được một lúc thì rõ ai đã quen làm đồng. Stuart và Gina di chuyển dọc theo luống nhanh gấp đôi đám thợ còn lại, Alan Wall còn nhanh hơn nữa. Vài đứa sinh viên hơi bị tệ, nên ít ra mình cũng không phải là đứa chậm nhất. Mặt trời lên cao, gắt hơn, mình mừng là còn giữ cái mũ của Ed Brubeck để che gáy. Một tiếng đồng hồ trôi qua, tay mình đã quen, như tự động hái. Hộp đựng đầy lên, trái chồng trái, tiền lương của mình cũng tăng lên, hai xu, rồi năm xu rồi mười xu. Mình cứ nghĩ mãi về những gì Gwyn nói khi sáng. Nghe như Gwyn đã từng thấm mùi đời. Mình nghĩ tới Jacko và Sharon đang ngồi ăn sáng, cạnh cái ghế trống của mình, như thể mình vừa chết hay sao đó. Kiểu gì má cũng nói, “Tui không muốn nói chuyện cô ba nhà này nữa, thiệt tình.” Mỗi khi giận hay tức tối giọng Ireland của má càng đặc sệt. Mình nghĩ tới trò chơi lăn bi ghim, con nít cũng như viên bi vậy, bị lăn thẳng lên trước, không rẽ trái phải gì cả: cứ thẳng vậy mà lăn. Nhưng một khi đã lên trên, cũng như khi được mười sáu, mười bảy hay mười tám tuổi, tự dưng có hàng ngàn ngã rẽ để mình chọn, tốt có xấu có. Chỉ cần lệch góc hay đổi tốc độ một chút xíu thôi cũng sẽ thay đổi hoàn toàn những gì xảy ra sau này, chỉ cần nghiêng qua phải một tí ti, là bi sẽ đụng chướng ngại rồi bay thẳng xuống giữa hai chân chèo, coi như thả tay, mất toi mười xu. Nhưng chệch một chút về bên trái thôi thì tưng bừng hoa lá, nảy hết bên này đến bên kia, ghi điểm tới tấp, lên bảng vàng. Vấn đề của mình là, mình không biết mình muốn gì, trừ chuyện có ít tiền để lát nữa đi mua thức ăn. Ba ngày trước, mình chỉ cần có Vinny, nhưng mình sẽ không phạm sai lầm đó nữa. Như một viên bi bạc lấp lánh vừa được phóng ra, mình không biết đang đi đâu, rồi chuyện gì sẽ đến.

Tám giờ rưỡi thợ được nghỉ tay uống trà sữa ngọt khé trong lán, do một bà nói giọng Kent nặng trịch mang tới. Ai cũng có tách riêng, nhưng mình xài đỡ một cái lọ mứt cam cũ lượm từ thùng rác trong bếp, vài đứa nhướng mày kinh hãi, kệ tụi nó, nhờ vậy mà trà mình có vị cam chua chua. Mấy điếu Benson & Hedges của gã sinh viên Gary giờ nằm trong bao Rothsman của mình, mình hút thử hai điếu: hơi khét hơn Rothmans. Linda mời mình ăn chung gói bánh qui kem trứng, rồi Marion nói, “Hái dâu coi vậy mà mau đói,” giọng ngang phè, ồ ồ, mình nói “Ừ, đúng rồi, Marion”, Marion vui ra mặt, mình ước gì đời nó sau này còn đơn giản hơn vậy nữa. Rồi mình lại chỗ Gwyn đang ngồi với Stuart và Gina, mời chị một điếu. Gwyn đáp, “À, nếu không phiền cưng, cảm ơn nha,” rồi tụi tôi vui vẻ trở lại, vậy thôi. Trời xanh, không khí trong lành, lưng mỏi nhưng có thêm ba bảng so với lúc hái trái dâu đầu tiên. Tám giờ năm mươi, thợ hái lại tiếp tục làm việc. Giờ này ở trường, cô Swann, giáo viên chủ nhiệm lớp mình sẽ bắt đầu điểm danh, khi đọc tới tên mình, sẽ không có lời đáp. “Holly vắng, thưa cô,” một đứa nào đó sẽ lên tiếng, rồi Stella Yearwood sẽ bắt đầu vã mồ hôi, nếu nó là đứa có đầu óc, mà đúng vậy thật. Nếu nó đã lỡ ba hoa chuyện giựt người yêu của mình, người ta sẽ bắt đầu đoán vì sao mình nghỉ học, rồi sớm muộn gì cũng đến tai thầy cô, rồi Stella sẽ bị gọi lên văn phòng của thầy Nixon. Biết đâu còn có một tay cảnh sát chờ sẵn. Nếu vẫn ngậm miệng vụ Vinny, ngoài mặt nó sẽ làm như không hề biết gì, nhưng bên trong hẳn sợ teo ruột. Vinny cũng sẽ chung cảnh ngộ. Lên giường với mấy em nữ sinh thì có gì lạ, miễn là không có gì trục trặc, nhưng mọi thứ sẽ khác đi hẳn nếu mình ở lại Trại Black Elm thêm vài ngày. Khi đó, đột nhiên mình trở thành đứa con gái vị thành niên bị Vincent Costello dụ dỗ bằng quà cáp, bia rượu trong bốn tuần, trước khi biến mất tăm: và Vincent Costello, nhân viên kinh doanh xe hơi, ngụ ở phố Peacock, Gravesend, sẽ trở thành nghi can số một. Mình không phải là đứa ác độc gì, mình không muốn Jacko, hay ba hay Sharon phải mất ngủ vì lo cho mình, nhất là Jacko, nhưng nếu có thể cho Vinny và Stella biết mùi lễ độ thì ngu gì không tận dụng cơ hội…

Khi mình mang khay dâu tiếp theo ra chỗ lán của bà Harty, đám thợ hái đứng xúm quanh chiếc radio, mặt mày căng thẳng – bà Harty và bà hàng nước thì sợ rúm ró – trong giây lát, mình phát hoảng, nghĩ thầm hay người ta đã tuyên bố mình mất tích trên đài. Vậy là mình gần như nhẹ cả người khi Debby quê ở Derby kể là người ta vừa tìm thấy ba xác chết. Thì đúng, mấy chuyện giết người quá kinh rồi, nhưng lúc nào lại chẳng có tin như vậy, mà cũng đâu có ảnh hưởng tới ai. “Ở đâu vậy?” mình hỏi.

“Iwade,” Stuart, trong cặp Stuart và Gina, trả lời.

“Cách đây chừng mười dặm,” Linda nói. “Hẳn hôm qua bồ có đi ngang qua chỗ đó. Gần đường chính tới cầu Kingsferry.”

“Suỵt,” một đứa lên tiếng, radio vặn to hơn: “Người phát ngôn của cảnh sát đã xác nhận rằng Cảnh sát Kent đang đặt nghi vấn quanh sự việc và kêu gọi bất kỳ ai có thông tin liên quan hãy liên lạc với Đồn cảnh sát Faversham, nơi đã lập phòng tiếp nhận thông tin và chỉ huy cuộc điều tra. Người dân lưu ý không nên…”

“Lạy Chúa,” Debby Derby thốt lên, “có sát thủ đang lảng vảng quanh đây!”

“Khoan kết luận vậy đã,” bà Harty đáp, vặn nhỏ âm lượng lại. “Đâu phải đài nói gì cũng đúng hết.”

“Ba cái xác rành rành ra đó,” Alan Wall người gypsy góp chuyện, “Có ai bịa được chuyện đó.” Đây là lần đầu tiên mình thấy nó mở miệng.

“Nhưng nói vậy đâu có nghĩa là có một tên sát thủ Jack the Ripper nữa đang cầm dao sục quanh Sheppey? Để về văn phòng gọi điện hỏi cho kỹ. Maggs đây…” bà Harty gật đầu về phía bà hàng nước “…sẽ đứng ra lo liệu.” Rồi bà ta quảy bước đi.

“Chỉ cần vậy thôi sao,” Debby nói. “Thám tử Sherlock Harty đã vào cuộc. Nhưng nói với mấy bồ: trừ khi tối nay họ lắp thêm cái khóa to bằng tay tui trên cửa kho, tui sẽ đi về nhà, rồi chính bả phải chở tui ra ga.”

Có đứa hỏi vậy đài có nói mấy người đó bị giết ra sao không, rồi Stuart trả lời, từ ngữ chính xác là “một màn tấn công bạo lực và tàn nhẫn”, nghe như xài dao kéo gì đó chứ không phải súng, nhưng đến giờ vẫn không ai biết chắc. Vậy là cả đám xuống ruộng hái tiếp, vì tụ tập đông người ở ngoài trời vẫn an toàn nhất.

“Nghe như chuyện tình tay ba ngang trái,” gã sinh viên Gary góp chuyện. “Hai trai, một gái. Một tình án kinh điển.”

“Nghe như mấy tay buôn ma túy đục nhau thì đúng hơn,” bạn của Gary góp chuyện.

“Nghe như hai ông đang chém gió thì có,” Debby kết.

Vấn đề ở chỗ, một khi nghĩ đến chuyện biết đâu một kẻ tâm thần đang lẩn trốn trong bụi cây ở cuối ruộng, hay ở bờ giậu đằng kia, thì người ta cũng bắt đầu nhang nhác thấy những thứ mơ hồ. Như vụ Người Trên Đài, mình chỉ thấy thoang thoáng, chứ không hẳn là nghe phong thanh bên tai. Mình nghĩ đến thời điểm xảy ra vụ án: ai dám chắc là vụ án không xảy ra ngay lúc mình đang đi bộ cách cây cầu Kingsferry khoảng một hai quãng đồng? Biết đâu chính là cái ông đi xe đạp mình gặp, con chết nên buồn quá hóa điên? Ông đó không có vẻ gì là tâm thần cả, nhưng trong thực tế, làm gì có ai trông giống tâm thần? Hoặc biết đâu là đám trai gái ngồi trong chiếc xe cắm trại VW đó? Khi ăn trưa – Gwyn làm cho mình hai lát bánh mì kẹp phô mai và dưa góp Branston, còn cho thêm trái chuối vì biết mình chẳng còn gì ăn – cả đám nhìn thấy một chiếc trực thăng bay ngay trên chỗ cây cầu, rồi bản tin lúc một giờ chiều của Đài Phát thanh Kent nói rằng pháp y đã đến căn nhà hiện trường, mang theo cả chó nghiệp vụ nọ kia. Cảnh sát vẫn chưa công bố tên của nạn nhân, nhưng bà Harty có quen vợ ông chủ trại bên đó, nghe đâu nhà đó cuối tuần thường có một cô gái tên Heidi Cross đến ở. Cô này ngày thường học ở London, có vẻ như người phụ nữ bị giết chính là Heidi. Còn có tin đồn là Heidi Cross và bạn trai hoạt động “chính trị cấp tiến”, vậy là tay sinh viên Gary lại quả quyết hẳn là một vụ thanh toán chính trị, có thể do IRA hay CIA đứng sau, nếu hai người này chống Mỹ, mà cũng có thể là dưới tay của tình báo MI5 nếu hai người ủng hộ dân thợ mỏ.

Mình cứ tưởng thông minh lắm mới đậu đại học chứ, nhưng mình cũng muốn tin Gary, vì như vậy cũng có nghĩa là không có kẻ tâm thần nào đang trốn sau bụi rơm, mà mình thì cứ bị ám ảnh.

Sau bữa trưa tụi mình hái thêm vài tiếng nữa. Xong việc, cả đám kéo về văn phòng, để bà Harty đổi thẻ thành tiền. Hôm nay mình kiếm được hơn mười lăm bảng. Ở nhà kho nơi tụi mình ngủ, Gabriel Harty đang lắp ổ khóa ở bên trong cửa kho, như ý muốn của Debby quê ở Derby. Đương nhiên ông chủ không thể để đám thợ hái bỏ đi hết, trong khi dâu còn đang chín đỏ, rữa dần trên cây. Gwyn nói với mình thông thường giờ này sẽ có mấy đứa đi vào Leysdown mua đồ ăn, rồi ở lại làm vài ve, nhưng hôm nay chỉ có đám sinh viên có xe hơi dám đi. Mình định để dành tiền, vậy là mình ăn tối bằng một chén ngũ cốc muesli mót từ trong tủ đựng đồ thừa với mấy cái bánh Ritz cuối cùng, Gwyn có hứa cho mình thêm một cây xúc xích hot-dog. Hai đứa ngồi hút thuốc trong bóng đổ ấm áp của bức tường nứt nẻ, trên bãi cỏ bờ sông gần cửa vào nông trại. Ngồi đó thấy được Alan Wall đang phơi áo quần ra dây. Nó ở trần, cơ bắp cuồn cuộn, da nâu bóng như đồng, tóc vàng óng, Gwyn để ý thằng này, mình đoán. Alan rất điềm tĩnh, không lo lắng gì về sát thủ trong bụi rậm cả. Gwyn cũng chẳng lo gì lắm: “Nếu hôm qua vừa tẩn ba người đến chết thì chẳng lẽ hôm nay chạy tới một hòn đảo bằng phẳng như bánh kếp, chỉ cách đó chưa tới một dặm, nơi mà người lạ mặt sẽ nổi bật như Adolf Hitler ba đầu? Thiệt tình…”

Phải thừa nhận nói vậy cũng có lý. Hai đứa ngồi hút từng hơi, chia nhau chỗ thuốc Benson & Hedges cuối cùng. Mình gượng gạo xin lỗi vì đã cáu kỉnh lúc sáng.

“Gì kia,” Gwyn như trêu mình, “vụ lên mặt dạy đời của tui hả? Không sao, cưng phải thấy tui lúc mới bỏ nhà đi kia.” Rồi chị ta giả giọng lè nhè: “Tui không cần ai hết, làm ơn biến giùm được không?” Gwyn duỗi người, nằm ra đất. “Lạy Chúa. Hồi đó tui có biết gì đâu. Không biết gì trơn trọi.” Xe tải của siêu thị lục cục ra về, mang theo dâu vừa hái trong ngày.

Mình nghĩ Gwyn đang suy tính giờ nên im lặng, nói một chút, hay nói thật nhiều…

“Tui sinh ra ở thung lũng nằm trên làng Rhiwlas, gần Bangor, ngay đỉnh góc trái của xứ Wales, như nhân vật đầu máy xe lửa Ivor trong phim hoạt hình đó. Con một, ông già có trại nuôi gà. Chắc giờ vẫn còn nuôi. Trên một ngàn con, nhốt trong chuồng cỡ bằng cái hộp giày, loại chuồng mà mấy đứa bảo vệ động vật vẫn chửi bới mãi đó. Cứ sáu mươi sáu ngày là có trứng, chở thẳng tới kệ hàng siêu thị. Nhà tui nho nhỏ xinh xinh nằm sau khu trại gà lớn. Ông già thừa kế căn nhà và đất đai của ông chú, rồi gầy dựng cơ nghiệp qua thời gian. Gặp thời, người ta được một, ông già được ba. Ông đứng ra tài trợ cho đội bóng rugby của Rhiwlas, rồi mỗi tuần một lần đi Bangor, hát trong ca đoàn toàn nam. Một ông chủ cứng rắn, nhưng công bằng. Có ủng hộ tiền cho đảng Plaid Cymru. Tìm mỏi mắt cả xứ Gwynedd cũng khó kiếm ra một người ghét ổng.”

Gwyn nhắm mắt lại. Trên mí mắt chị có vệt sẹo mờ.

“Vấn đề của ông già tui là, ổng có hai con người. Một là con người của đám đông, trụ cột của cộng đồng. Hai là con người đằng sau cánh cửa đóng, một kẻ ưa kiểm soát, dối trá, lươn lẹo, ác độc, mà nói vậy đã ăn thua gì. Nguyên tắc vô đối, ổng mê các thể loại nguyên tắc. Trong nhà không được có bụi bẩn. Bàn ăn dọn ra làm sao. Bàn chải đánh răng quay hướng nào. Đọc sách gì. Nghe đài gì – nhà tui không có tivi. Nguyên tắc cứ liên tục thay đổi, vì, cưng phải hiểu là, ổng muốn mẹ với tui cứ vi phạm, để ổng trừng phạt. Hình phạt là một đoạn ống chì, bọc vải bông nên không để lại dấu trên da. Sau khi bị phạt thì phải cảm ơn ổng. Cả mẹ tui cũng vậy. Nếu không cảm ơn đủ thì sẽ có màn hai.”

“Trời đất, Gwyn. Ngay cả khi chị còn nhỏ sao?”

“Kiểu của ổng là như vậy. Ông già ổng cũng y chang.”

“Rồi mẹ chị cứ… chịu vậy, để ổng làm sao?”

“Nếu chưa kinh qua, cưng không hiểu được đâu, không thể nào hiểu nổi. May cho cưng đó. Quyền lực đi liền với sợ hãi, cưng hiểu không. Nếu sợ bị trả thù, cưng sẽ không dám nói không, sẽ không dám chống lại, cũng không dám bỏ chạy. Phải gật đầu mới sống sót. Rồi mọi thứ trở nên bình thường. Kinh khủng nhưng bình thường. Kinh khủng, vì nó bình thường. Cưng có thể mạnh miệng mà nói ‘Không chống thì khác gì đồng ý cho ổng làm vậy’, nhưng nếu cưng chịu cảnh này từ ban đầu, cưng sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện chống lại. Nạn nhân không phải là những kẻ hèn nhát. Người ngoài cuộc không hiểu được là phải dũng cảm ra sao, người ta mới tiếp tục sống như vậy được. Mẹ tui không còn chỗ nào khác để đi, cưng thấy đó. Anh em không có, cha mẹ thì chết trước khi lấy chồng. Vì ổng mà hai mẹ con không có ai thân thích. Hó hé kết bạn với người dưới làng thì sẽ bị quy tội lơ là nhà cửa, tức là ống chì chờ sẵn. Tui sợ đến nỗi không có bạn bè gì ở trường. Không thể mời bạn về nhà, mà xin đi chơi ở nhà bạn thì có nghĩa là vô ơn, mà vô ơn thì lại có ống chì chờ sẵn. Ổng điên khùng, nhưng lắm nguyên tắc luật lệ.”

Alan Wall đã rút vào nhà. Áo sơ mi và quần jeans của nó treo trên dây, nhỏ nước long tong.

“Chẳng lẽ mẹ chị hay chị không đi thưa được sao?”

“Thưa ai bây giờ? Ông già hát trong ca đoàn dưới Bangor với một ông thẩm phán và một ông chánh án. Lại rất được lòng thầy cô của tui ở trường. Nhân viên xã hội sao? Có thưa thì cũng là mẹ con tui vu vạ cho ổng, ổng là người có công trong chiến tranh, có huy chương dũng cảm từ Chiến tranh Triều Tiên, còn lâu người ta mới tin. Mẹ tui như cái xác không hồn, sống bằng thuốc an thần Valium, còn tui là một đứa choai choai ngớ ngẩn, nói một câu có đầu có đũa còn không xong. Rồi giọt nước tràn ly,” Gwyn giả vờ nhộn giọng, “đêm đó, ổng đã mô tả sẽ giết hai mẹ con ra sao, nếu tui bôi nhọ tên tuổi của ổng. Mô tả như người ta kể chuyện sửa nhà cửa. Còn tả thêm làm sao để người ta không phát hiện ra. Tui sẽ không kể hết ra đây những chuyện ổng làm với tui, cho tới lúc đó, nhưng chắc cưng cũng đoán được ổng làm gì. Khi đó tui mới mười lăm tuổi.” Gwyn giữ giọng đều đều, mình ước gì chưa bao giờ khơi ra chuyện này. “Bằng tuổi cưng lúc này, đúng không?” Mình gật đầu trước khi kịp suy nghĩ. “Năm năm rồi đó. Mẹ biết hết, nhà nhỏ mà, nhưng đâu dám làm gì. Ngày hôm đó tui đi học nhưng mang theo áo quần trong túi thể thao, từ đó tới giờ chưa bao giờ về lại Wales. Còn thuốc không?”

“Thuốc của Gary hết rồi, còn thuốc của tui thôi.”

“Thiệt tình, tui ưa hút Rothmans hơn.”

Mình đưa bao thuốc ra. “Sykes. Tên thật của tui.”

Chị ấy gật đầu. “Holly Sykes. Còn tui là Gwyn Bishop.”

“Tui tưởng chị là Gwyn Lewis.”

“Cả hai đều có một chữ i và một chữ s.”

“Vậy sau khi rời khỏi Wales chị đi đâu?”

“Manchester, Birmingham, gần như bụi đời, rồi bụi đời thiệt luôn. Ăn xin ở trung tâm mua sắm Bullring. Ngủ trong nhà hoang, ngủ nhà bạn mà hóa ra cũng chẳng phải bạn bè gì. Sống sót qua ngày. Chật vật. May lắm mới còn sống đến giờ để kể chuyện, may nữa là đã né được bị trả về quê – cưng biết đó, dưới mười tám tuổi nếu bên Bảo trợ Xã hội bắt được thì sẽ đưa ngay về chính quyền địa phương. Tui vẫn bị ác mộng, thấy ông già đón đứa con gái hoang đàng trở về, tay cán bộ sẽ đứng nhìn, thầm nghĩ, ‘Mọi chuyện cuối cùng đã đâu vào đó,’ rồi ra về, ông già tui đóng cửa, quay mặt lại. Giờ tui kể lại chuyện hay ho như vậy với cưng, để cưng hiểu rằng cùng đường thì hẵng bỏ nhà đi. Một khi đã sa chân thì không có đường thoát. Phải năm năm tui mới dám nghĩ đã thoát nạn. Thực lòng, nhìn cưng, và…” Gwyn dừng lại vì một thằng nhóc đi xe đạp vừa phanh kít lại ngay trước mặt tụi mình. “Sykes,” nó lên tiếng.

Ed Brubeck? Ed Brubeck. “Bồ làm gì ở đây vậy?”

Tóc tai hắn dựng lên, ướt mồ hôi. “Đi tìm bồ.”

“Đừng nói bồ đạp xe chừng đó chứ? Bồ không đi học sao?”

“Hồi sáng thi toán, nhưng giờ xong hết rồi. Tui đem xe lên tàu, rồi đạp từ Sheerness tới. Nghe nè…”

“Bồ tiếc cái mũ lưỡi trai lắm hả.”

“Mũ miếc gì, Sykes à, nhưng giờ mình phải…”

“Khoan đã… làm sao bồ biết tui ở đâu mà đi tìm?”

“Tui không biết, nhưng tui nhớ có kể cho bồ nghe về trang trại của Gabriel Harty, vậy là tui gọi cho ổng. Ổng nói không có Holly Sykes, chỉ có Holly Rothmans thôi. Tui đoán là bồ, đoán đúng rồi, phải không?”

Gwyn lẩm bẩm, “Tui không nói gì đâu à.”

Mình giới thiệu hai người, “Brubeck, Gwyn, Gwyn, Brubeck,” hai người gật đầu chào nhau trước khi Brubeck quay lại nói với mình.

“Có chuyện rồi.”

Gwyn đứng dậy. “Hẹn gặp cưng trong căn hộ năm sao.” Chị ấy nhìn mình, ra vẻ coi-được-đó rồi lượn đi.

Mình quay lại Brubeck, hơi bực mình. “Có nghe nói.”

Hắn có vẻ bối rối. “Vậy tại sao bồ còn ở đây?”

“Trên đài Phát thanh Kent chứ gì. Ba người bị giết. Ở cái chỗ Iwade gì đó.”

“Không phải.” Brubeck cắn môi. “Em trai bồ có đây không?”

“Jacko? Làm gì có. Tại sao nó lại ở đây được?”

Con Sheba chạy lại, sủa Brubeck, hắn ngập ngừng, như người chuẩn bị báo tin dữ. “Jacko mất tích rồi.”

Đầu óc mình quay cuồng. Brubeck quay sang con Sheba, “Câm lại!” Sheba nghe theo.

Mình lí nhí hỏi, “Khi nào?”

“Giữa tối thứ Bảy và sáng Chủ Nhật.”

“Jacko?” Hẳn mình đã nghe nhầm, ở đây ồn quá. “Mất tích? Nhưng… Làm sao được. Ban đêm quán khóa cửa mà.”

“Cảnh sát có tới trường khi sáng, thầy Nixon đi xuống phòng thi, hỏi có ai biết bồ đang ở đâu không. Sém chút nữa là tui nói rồi nhưng kịp nín, để đi tới đây trước. Sykes? Bồ có nghe tui nói gì không?”

Mình có cảm giác rờn rợn chập chờn như đi trong thang máy, không biết đang đứng ở tầng nào. “Nhưng tui không hề thấy Jacko kể từ sáng thứ Bảy…”

“Tui biết, nhưng cảnh sát thì không. Có khi họ nghĩ là bồ với Jacko đang giở trò gì đó.”

“Nhưng không đúng, Brubeck – bồ biết mà!”

“Ừ, tui thì biết rồi nhưng bồ phải nói với họ, nếu không họ sẽ không cố hết sức tìm Jacko.”

Đầu óc mình lan man, nghĩ tới những chuyến tàu đi London, tới người nhái cảnh sát lặn tìm dưới sông Thames, tới sát thủ trong bụi rậm. “Nhưng Jacko còn không biết mình đang ở đâu!” Mình run rẩy, bầu trời trôi tuột, đầu đau buốt. “Nó không phải là đứa nhỏ bình thường mà… mà… mà…”

“Bình tĩnh, bình tĩnh.” Brubeck giữ lấy mình, ôm lấy đầu mình như sắp hôn mình, nhưng hắn không làm vậy. “Nghe tui nói nè. Bồ đi lấy túi. Rồi tụi mình về Gravesend. Tui chở bồ, rồi bắt tàu, tui sẽ đưa bồ về nhà, Holly à. Tui hứa mà. Đi ngay. Ngay bây giờ.”