← Quay lại trang sách

Một Dược Của Ta Mùi Hương Ngần Đắng[6]-1991-13 Tháng Mười Hai

“Bè Tenor vang mạnh hơn nữa,” nhạc trưởng ra lệnh. “Làm sao cơ hoành phải rung lên! R-rung, r-rung, r-rung. Ở các nốt cao, bớt hơi gió ở âm sss – các anh có phải là Gollum trong truyện Chúa Nhẫn đâu? - bật âm t ra nào. Adrian B, nếu anh lên được nốt Đô cao nhất trong ‘Weep You No More Sad Fountains’ thì anh phải lên được chỗ này. Làm lại lần nữa, mạnh vào! Hai, ba…” Mười sáu ca viên nhỏ tuổi, tai nhọn như dơi, tóc tai cùng một kiểu và mười bốn ca viên học giả[7] đồng thanh cất lời…

“Of one that is so fair and bright,

Velut maris stella…”

Bản “A Hymn to the Virgin” của Benjamin Britten cất lên, vang vọng, dội lên vòm trần lộng lẫy rồi lặn nhào xuống thánh đường nơi khách du lịch và sinh viên ngồi rải rác trong những chiếc áo khoác ẩm ướt. Với tôi, Britten là một nhà soạn nhạc thất thường: đôi khi dông dài rườm rà, nhưng những lúc tràn trề, chín đượm, âm nhạc của lão như muốn trói linh hồn run rẩy của ta vào cột buồm, để hứng trọn chất siêu phàm dữ dội ấy.

“Brighter than the day is light,

Parents et puella…”

Đôi lúc vẩn vơ, tôi tự hỏi đến lúc lâm chung, bao quanh là một bầy y tá nóng bỏng, tôi sẽ nghe thấy thứ nhạc gì. Hẳn không thể hoan hỉ hơn “A Hymn to the Virgin”, nhưng tôi e rằng đến phút cuối, tay DJ Tiềm Thức sẽ tiễn tôi đi bằng “Gimme! Gimme! Gimme! (A Man After Midnight)” và như thế, lần duy nhất trong đời, tôi sẽ không trả miếng được. Mà thôi, im nào, vừa đến một trong những đỉnh điểm huy hoàng nhất của bản canon, đoạn “Cry”:

“I cry to thee, thou see to me,

Lady pray thy Son for me…”

Tóc gáy tôi dựng lên, như có ai vừa thổi qua. Biết đâu là chính nàng, nàng đang ngồi ở dãy ghế bên kia. Lần cuối tôi nhìn lên nàng đâu có ở đấy. Mắt nàng nhắm nghiền, như đang uống lấy âm nhạc, vậy là tôi uống lấy nàng. Ba mươi mấy gần bốn mươi chăng… tóc màu vanilla, da mịn như kem, môi đỏ màu rượu vang, gò má cao, sắc sảo như muốn cắt đứt ngón tay nào dại dột lướt qua. Mảnh khảnh, áo choàng màu xanh đen của nửa đêm. Một nghệ sĩ opera người Nga vừa đào ngũ, chờ gặp tay dàn xếp. Cambridge mà, chuyện gì cũng có thể xảy ra. Một điểm mười thật sự, hiếm có…

“Tam pia, That I might come to thee… Maria.”

Hãy để nàng vẫn ngồi đấy khi ca đoàn đã rút ra. Hãy để nàng quay về phía gã trai trẻ ngồi đối diện và thì thầm, “Chẳng phải đó là hơi thở của Thiên đàng sao?” Hãy để hai ta nói về những tao đoạn trong vở Peter Grimes, hay bản giao hưởng số 9 của Bruckner. Hãy để hai ta né tránh gia cảnh của nàng khi uống cà phê ở khách sạn County. Rồi hãy để cà phê biến thành cá hương và vang đỏ, và quên luôn cái hẹn đi uống với mấy thằng bạn ở quán Giám mục bị chôn. Hãy để hai ta cùng leo lên bậc thang trải thảm, đến căn phòng ấm cúng nơi tôi từng vui vẻ với mẹ của Fitzsimmons hồi tuần đầu tiên của năm học. Úi. Quái vật Kraken trong quần lót trỗi dậy. Tôi là đàn ông, hai mươi mốt tuổi, lần vui vẻ cuối cùng đã cách đây mười ngày, có gì mà ngạc nhiên? Nhưng tôi đâu thể tự chỉnh lại mình trước mắt nàng được. Ồ? Thôi thì, nếu chẳng phải nàng đang kín đáo dõi theo tôi… Tôi ngắm bức Sự ngưỡng mộ của ba vua của Rubens treo phía trên ban thờ, đợi nàng đi nước đầu tiên.

Ca đoàn đã rút nhưng nàng vẫn ngồi im. Một khách du lịch nhắm chiếc máy ảnh to đùng về phía bức Rubens, trước khi tên quỷ gác cửa càu nhàu, “Không được dùng flash!” Thánh đường vắng lặng, tên gác cửa về lại chỗ ngồi gần cây đại phong cầm, từng phút rỉ rả trôi qua. Đồng hồ Rolex trên tay chỉ ba giờ rưỡi. Tôi còn một bài luận về chính sách ngoại giao của Ronald Reagan cần chuốt lại, nhưng thánh nữ kỳ lạ đang ngồi cách tôi có sáu bước, đợi tôi đi nước đầu tiên. “Tôi luôn nghĩ,” tôi lên tiếng, “chứng kiến cảnh ca đoàn đổ máu, mồ hôi, nước mắt luyện tập lại khiến ta thấy bí ẩn của âm nhạc càng sâu xa hơn, chứ không hề bị trần tục hóa. Nói vậy có lý không?”

Nàng đáp, “Có lý, theo kiểu sinh viên.”

Ôi chao, ả hồ ly đanh đá. “Nghiên cứu sinh? Giảng viên?”

Cái cười mỉm thoáng qua, như một bóng ma. “Ta ăn mặc giống dân sách vở sao?”

“Đương nhiên không.” Giọng nàng mềm mại, âm sắc cong kiểu Pháp.

“Nhưng tôi đoán hẳn miệng lưỡi cô cũng chẳng kém gì.”

Không thừa nhận gì cả. “Ta chỉ đơn giản là thấy thoải mái khi ngồi đây.”

“Tôi cũng thế – phòng của tôi ở trường Humber[8], chỉ cách đây vài phút. Phần lớn sinh viên năm cuối sống ở ngoài, nhưng tôi ở trong trường, nếu không có tiết thì có thể đến đây để nghe ca đoàn mỗi ngày.” Ánh nhìn giễu cợt, như muốn nói, Có người nhanh nhảu thật, nhỉ?

Tôi nhún vai, ngây thơ đáng yêu. Biết đâu ngày mai sẽ bị xe buýt cán.

Nàng tiếp, “Cambridge đúng như ngươi mong đợi chứ?”

“Nếu không biết tận dụng Cambridge thì không xứng đáng ở đây. Erasmus, Peter Đại đế và Byron từng ở những phòng tôi ở. Thật đấy.” Chuyện bịa, nhưng tôi thích giả vờ. “Tôi cứ nghĩ đến họ, khi nằm trên giường, nhìn lên cùng một trần nhà, mỗi người một thế kỷ. Đó, với tôi, chính là Cambridge.” Một ngón tán tỉnh đã được luyện nhiều lần.

“Nhân thể, tên tôi là Hugo. Hugo Lamb.” Linh tính bảo tôi đừng cố bắt tay.

Đôi môi nàng đáp, “Immaculée Constantin.”

Ôi chao. Một quả lựu đạn bảy âm tiết. “Dân Pháp?”

“Thực ra ta sinh ở Thụy Sĩ.”

“Tôi rất thích Thụy Sĩ. Gần như năm nào cũng đi trượt tuyết ở La Fontaine Saint-Agnès: bạn tôi có nhà nghỉ ở đấy. Cô biết chỗ đó không?”

“Hồi xa xưa thì có.” Nàng đặt một bàn tay đeo găng da lộn lên đầu gối. “Hugo Lamb, sinh viên ngành chính trị.”

Ấn tượng đấy. “Làm sao cô biết?”

“Hãy nói về quyền lực. Quyền lực là gì?”

Đến nước này tôi tin nàng còn “Cambridge” hơn cả tôi. “Cô muốn tôi nói chuyện quyền lực? Ngay ở đây, ngay lúc này?”

Nàng khẽ nghiêng đầu. “Có lúc nào như lúc này.”

“Ô kê.” Chỉ vì nàng mười điểm thôi đấy. “Quyền lực là khả năng khiến người ta làm việc mà họ không muốn, hoặc ngăn họ làm những điều họ muốn.”

Immaculée Constantin thật khó hiểu. “Như thế nào kia?”

“Hoặc bằng cưỡng ép, hoặc bằng phần thưởng. Củ cà rốt và cây gậy, đôi lúc nhập nhằng trông cũng giống nhau. Cưỡng ép dựa trên bản năng sợ hãi bạo lực, khổ đau. ‘Tuân lệnh, nếu không ngươi sẽ phải hối tiếc’. Người Đan Mạch thế kỷ thứ mười dựa vào đó mà thu cống nạp, sự chặt chẽ của Thỏa Ước Warsaw cũng dựa vào đó, và bọn côn đồ nhãi ranh lấy đó làm luật. Pháp luật và trật tự phụ thuộc vào quy tắc ấy. Vậy nên ta mới trừng phạt tội phạm và đến cả những nền dân chủ cũng muốn tập trung quyền lực.” Immaculée Constantin quan sát gương mặt tôi khi tôi nói: vừa gây phấn khích, lại vừa dễ làm mất tập trung. “Phần thưởng thì có tác dụng bởi lời hứa ‘Tuân lệnh rồi sẽ thấy lợi ích.’ Cơ chế này được áp dụng rộng rãi, chẳng hạn trong việc NATO đặt căn cứ ở các nước không phải thành viên, trong huấn luyện chó, trong chuyện người ta chịu đựng một công việc rác rưởi cả đời. Nghe được không?”

Tên quỷ gác cửa hắt xì, ầm vang khắp nhà nguyện.

“Ngươi chỉ mới cào qua bề mặt,” Immaculée Constantin.

Dục vọng trong tôi trỗi dậy, và cả sự bực bội nữa. “Vậy thì cô cào sâu hơn đi.”

Nàng phẩy mấy sợi vải bông trên găng tay, dường như đang nói với bàn tay mình: “Quyền lực không mất đi, cũng không có được do chiếm lấy, không được tạo ra, cũng không bị hủy diệt. Quyền lực chỉ là vị khách ghé thăm người có được nó, không phải là một thứ tài sản. Kẻ điên loạn thèm quyền lực, lắm người tỉnh táo cũng thèm nó, nhưng ai khôn ngoan thì lo lắng về tác dụng phụ lâu dài của nó. Quyền lực là thứ ma túy của bản ngã, là năng lượng của linh hồn. Quyền lực đến rồi đi, từ người này sang kẻ khác, qua chiến tranh, hôn nhân, thùng phiếu, luật lệ và số phận, làm nên cốt truyện của lịch sử. Kẻ có quyền có thể phụng sự công lý, dời non lấp bể, biến những quốc gia trù phú thành bãi chiến trường khói lửa hay đánh đổ những tòa nhà chọc trời, nhưng bản thân quyền lực đứng ngoài luân lý.” Immaculée Constantin giờ đây ngẩng lên nhìn tôi. “Quyền lực sẽ để mắt tới ngươi. Quyền lực đang dõi theo người. Cứ sống như ngươi đang sống, quyền lực sẽ ưu ái ngươi. Nhưng quyền lực cũng sẽ cười vào mặt người, không thương tiếc, khi ngươi nằm hấp hối trong một bệnh viên tư, chỉ vài thập niên chớp nhoáng nữa thôi. ‘Caesar cao ngạo, chết rồi thành đất sét, chỉ còn che được lỗ trống, chặn cơn gió lùa.’[9] Ý nghĩ đó khiến ta thấy buồn nôn, Hugo Lamb, à, hơn hết thảy mọi thứ khác. Nó có khiến ngươi thấy vậy không?”

Giọng Immaculée Constantin êm đềm như tiếng mưa trong đêm.

Sự yên lặng trong nhà nguyện trường King’s dường như có cả một thứ nội tâm.

“Thế cô nghĩ sao?” cuối cùng tôi lên tiếng. “Cuộc sống đi kèm điều khoản chết chóc. Ai rồi cũng phải chết. Nhưng trước mắt, phụ người vẫn còn hơn để người phụ ta chứ.”

“Có sinh có diệt. Khế ước của cuộc đời, phải vậy không? Tuy nhiên, ta ở đây để nói với ngươi rằng, trong những hoàn cảnh hi hữu, điều khoản sắt đá ấy có thể được… viết lại.”

Tôi nhìn gương mặt bình thản và nghiêm nghị của nàng. “Ta đang nói chuyện điên rồ cỡ nào đây? Chế độ tập luyện? Ăn chay trường? Ghép tạng?”

“Một loại quyền lực cho phép người ta trì hoãn cái chết vĩnh viễn.”

Được rồi, mười điểm thật đấy, nhưng nếu nàng mê món Khoa Luận giáo nọ kia hay trò đóng băng xác chết, thì cô Constantin cần hiểu rằng tôi không phải là đứa ngờ nghệch. “Cô vừa bước chân qua biên giới Xứ Điên sao?”

“Xứ đó làm gì có khái niệm biên giới.”

“Nhưng cô nói chuyện bất tử như thể có thật ấy.”

“Không phải. Ta đang nói chuyện trì hoãn vĩnh viễn cái chết kia.”

“Gượm nào, phải Fitzsimmons gởi cô đến không? Hay Richard Cheeseman? Trò bỡn chăng?”

“Không. Đây là hạt giống.”

Không thể là trò bỡn của Fitzsimmons được, quá sáng tạo. “Hạt giống mọc thành cái gì mới được chứ?”

“Thành thuốc chữa cho ngươi.”

Sự điềm đạm của nàng khiến tôi bất an. “Nhưng tôi có đau ốm gì.”

“Tử tính khắc trong từng tế bào của ngươi, mà ngươi nói rằng người không ốm? Nhìn bức tranh kìa. Nhìn đi.” Nàng gật đầu về phía Sự ngưỡng mộ của ba vua. Tôi nghe theo. Tôi sẽ luôn nghe theo nàng. “Mười ba nhân vật, nếu ngươi đếm, giống trong Tiệc Ly. Người chăn cừu, ba vua, thân hữu. Nhìn gương mặt họ đi, từng người một. Ai tin rằng hài nhi rồi một ngày chinh phục được cái chết? Ai muốn có bằng chứng? Ai nghi ngờ rằng đấng Messiah không phải là nhà tiên tri đích thực? Ai biết rằng mình đang ở trong một bức tranh, đang được ngắm? Ai đang ngắm lại ngươi?”

Tên quỷ gác cửa phẩy tay trước mặt tôi. “Dậy, dậy! Xin lỗi nếu phiền anh, nhưng công chuyện của anh với Đấng tối cao để ngày mai làm tiếp được không?”

Ý nghĩ đầu tiên: To gan thật đấy? Không có ý nghĩ thứ hai vì hơi thở nặng mùi phô mai Gorgonzola pha lẫn mùi dung môi pha sơn của hắn khiến tôi muốn sặc.

“Đến giờ đóng cửa rồi,” hắn nói.

“Nhà nguyện mở cửa đến sáu giờ,” tôi vặn lại. “Ừ… đúng thế. Chính xác. Vậy bây giờ mấy giờ rồi?” Tôi nhìn lên cửa sổ: một màu đen bóng.

17:58, đồng hồ trên tay khăng khăng. Không thể nào. Chỉ mới hơn bốn giờ đây thôi. Tôi nhìn quanh chiếc bụng phệ của kẻ quấy rối, tìm Immaculée Constantin, nhưng nàng đã biến mất. Biến mất từ lâu, tôi cảm thấy được. Nhưng không không không không không: nàng bảo tôi nhìn bức Rubens, chỉ mới vài giây thôi. Tôi nhìn lên, và…

… Tôi nhướng mày nhìn hắn, chờ một câu trả lời.

“Sáu giờ là đi ra hết,” hắn đáp. “Đóng cửa là đóng cửa.”

Hắn vỗ tay lên mặt đồng hồ của mình ngay trước mắt tôi, và ngay cả khi bị lật ngược, mặt số điện tử rẻ tiền gớm ghiếc vẫn hiện khá rõ: 17:59. Tôi lầm bầm, “Nhưng…” Nhưng gì kia? Hai tiếng đồng hồ lẽ nào bốc hơi chỉ trong hai phút. “Đã có…” giọng tôi yếu ớt… “có một phụ nữ ở đây phải không? Ngồi đằng kia?”

Hắn nhìn theo tay tôi chỉ. “Lúc nãy? Năm nay? Hay xưa giờ?”

“Khoảng… ba giờ rưỡi, tôi nghĩ thế. Mặc áo khoác màu xanh đen. Xinh lắm.”

Quỷ gác cửa khoanh cặp tay múp míp. “Phiền cậu, có lỡ hút cỏ kiếc gì thì cũng đi cho, tôi còn về nhà.”

Tôi, Richard Cheeseman, Dominic Fitzsimmons, Olly Quinn và Jonny Penhaligon chạm ly và chai lọ giữa xủng xoảng huyên náo trong quán Giám mục bị chôn, cách cổng tây của trường Humber chỉ một con đường lát sỏi. Quán chật như nêm: ngày mai sinh viên bắt đầu kỳ nghỉ Giáng Sinh, đồng loạt đổ bộ về quê, may lắm cả bọn mới tìm được bàn trong góc xa. Tôi nốc một hơi cạn ly Kilmagoon Special Reserve, rượu như con sên trần béo ị đốt một đường từ cổ họng đến dạ dày. Đến đây, nó bắt đầu tháo gỡ nỗi lòng rối rắm từ khi tôi ngủ gục trong nhà nguyện lúc nãy. Tôi đã nghĩ lại thấu đáo. Một tháng căng thẳng, nào khóa luận, nào hạn nộp bài; Mariângela liên tục để lại tin nhắn càu nhàu; tôi còn chịu trận suốt hai đêm chỗ thằng Cóc để nắn Jonny Penhaligon. Đãng trí không phải là dấu hiệu của bệnh u não: có phải tôi lăn đùng ra đấy, hay trần truồng đi lang thang trên nóc nhà ở học xá đâu. Tôi chỉ quên bẵng giờ giấc khi ngồi trong nhà thờ Gothic thời cuối đẹp nhất xứ này, khi đang chiêm nghiệm một kiệt tác Rubens – chính thứ khung cảnh dễ làm người ta thả hồn mơ mộng. Olly Quinn đặt vại bia uống dở xuống bàn, nén cái ợ hơi. “Vậy cậu giải xong vụ Ronald Reagon đã vô tình thắng Chiến Tranh Lạnh ra sao chưa, hả Lamb?”

Tôi gần như không nghe cậu ta nói gì: Hội Đảng viên trẻ Đảng bảo thủ trường Humber đang ở phòng bên cạnh, gào rống theo bản hit Giáng Sinh có lẽ là bất tử của Cliff Richard “Mistletoe and Wine.”

“Xong xuôi, ngon lành, đã tuồn vào khe cửa phòng giáo sư Dewey.”

“Chẳng biết chú làm sao mà học nổi Chính trị trong ba năm.” Richard Cheeseman chùi bọt bia Guinness trên bộ râu kiểu Hemingway-thờitrẻ. “Anh thì anh thà tự cắt bao quy đầu bằng bàn cào phô mai.”

“Tiếc thật, chú lỡ bữa tối,” Fitzsimmons nói. “Tráng miệng là chỗ cỏ xứ Narnia còn sót lại của Jonny. Không thể để Mụ Chổi tìm thấy khi tổng vệ sinh cuối học kỳ, mụ sẽ tưởng là mẩu cứt khô, sẽ vứt đi cùng với đám tạp chí Scouting Ahoy! nhớp dính của Jonny.” Jonny Penhaligon tiếp tục uống bia, đưa ngón tay thối về phía Fitzsimmons; trái cổ gồ ghề của hắn ta giật lên xuống. Tôi thong thả mường tượng ra cảnh dùng dao cạo thái nó ra từng lát. Fitzsimmons khụt khịt, rồi hỏi Cheeseman, “Vậy anh bạn mặc quần da từ Đông phương huyền bí của chú đâu rồi?”

Cheeseman liếc xuống đồng hồ đeo tay. “Đang ở chín nghìn mét trên bầu trời Siberia, quay về cố quốc, lại vào vai trưởng nam đạo mạo. Việc quái gì anh phải chịu mang tiếng đi bù khú với đám đực rựa các chú nếu Sek vẫn còn ở đây? Anh đây giờ là bóng nghiện cơm. Fitz, đưa anh một điếu ung thư nào; anh thèm fag[10] kinh khủng, như cách anh hay nói với bọn Mỹ.”

“Ở đây cần gì châm thuốc.” Olly Quinn là cục cưng không hút thuốc của cả bọn. “Chỉ hít vào cũng đủ.”

“Tưởng chú bỏ chứ?” Fitzsimmons đưa bao Dunhills cho Cheeseman; Penhaligon và tôi cũng rút mỗi thằng một điếu.

“Để mai, để mai, rồi anh bỏ,” Cheeseman đáp. “Bật lửa Herman Göring của chú đâu, anh mượn nào? Anh mê lắm, trông ang ác hay hay.”

Penhaligon đưa chiếc bật lửa Đệ tam đế chế ra. Hàng thật, ông bác hắn tậu được ở Dresden, món này đem đấu giá cũng phải được ba nghìn bảng. “RCP tối nay đâu rồi?”

“Ngài Rufus Chetwynd-Pitt tương lai,” Fitzsimmons trả lời, “đang chơi thuốc. Tiếc thay cho ngài món đấy không có trong chương trình học.”

“Ngành đấy không bao giờ bị ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế,” tôi bình.

“Giờ này sang năm,” Olly Quinn vọc xé nhãn chai bia không cồn, “tụi mình sẽ phải ra đời thật, kiếm sống.”

“Anh chỉ chờ có thế,” Fitzsimmons nói, vuốt khe cằm chẻ. “Anh ghét cảnh bần hàn lắm rồi.”

“Thật, anh xót chú lắm.” Richard Cheeseman ngậm điếu thuốc nơi khóe miệng, à la Serge Gainsbourg. “Người ta cứ nhìn vào dinh thự hai mươi phòng của thân sinh chú ở Cotswolds, con Porsche của chú, bộ Versace của chú, rồi suy diễn nọ kia.”

“Đấy là của ông bà già anh,” Fitzsimmons đáp. “Rồi anh cũng phải có của riêng để phung phí chứ.”

“Ông cụ vẫn đang lo chạy việc cho chú ở London sao?” Cheeseman hỏi, rồi nhướng mày khi Fitzsimmons phủi vai áo khoác vải tweet của hắn. “Chú làm trò gì thế?”

“Anh phủi hết thói hở tí là tị nạnh cho chú, Richard thân mến.”

“Phủi sao nổi, dính bằng keo đấy,” tôi nói với Fitzsimmons. “Mà đừng coi thường chủ nghĩa thân hữu, Cheeseman à: mấy ông bác có quen biết của anh đều đồng ý rằng, chính món đấy mới làm nên đất nước ta hôm nay.”

Cheeseman phả khói thuốc về phía tôi. “Khi nào các chú thành cựu nhân viên Citibank, xe Lamborghini bị gán nợ rồi mụ vợ thứ ba thuê luật sư, hòng mong tòa đập vỡ bi các chú, thì các chú mới biết hối tiếc.”

“Vậy sao,” tôi đáp, “còn Bóng ma của Giáng sinh tương lai sẽ chứng kiến Richard Cheeseman làm dự án từ thiện cho trẻ bụi đời Bogotá chăng.”

Cheeseman nghĩ đến trẻ bụi đời Bogotá, gầm gừ rồi từ chối. “Từ thiện dung dưỡng thói vô trách nhiệm. Không, anh theo đường bỉnh bút kia. Cột báo chỗ này, tiểu thuyết chỗ kia, thi thoảng làm ít truyền hình. À, nhắc mới nhớ…” Hắn lục lọi túi áo khoác, rút ra một cuốn sách: Phôi thai tan tác của Crispin Hershey. “BẢN CHO NHÀ PHÊ BÌNH” in một dòng đỏ chót ngang qua bìa sách. “Bài điểm sách đầu tiên có trả công của anh, làm cho Felix Finch ở Tạp chí Piccadilly. Hai mươi lăm xu một từ, một ngàn hai trăm từ, ba trăm bảng cho hai giờ làm việc. Được đấy chứ.”

“Gớm thật, báo giới phố Fleet hãy đợi đấy,” Penhaligon góp chuyện.

“Crispin Hershey là ai?”

Cheeseman thở dài. “Con trai của Anthony Hershey?” Penhaligon nháy mắt, chẳng biết thêm gì.

“Ôi thôi nào, Jonny! Anthony Hershey! Phim! Giải Oscar năm 1964 cho Box Hill, rồi Ganymede 5 hồi những năm bảy mươi, đỉnh cao phim khoa học viễn tưởng Anh quốc.”

“Phim đấy làm anh chán chả buồn sống,” Fitzsimmons góp chuyện.

“Anh rất ấn tượng với công tác của chú, Richard à,” tôi nói. “Cuốn trước đó của Crispin Hershey đúng tuyệt vời. Anh tình cờ đọc được trong nhà trọ ở Ladakh năm anh đi phượt. Cuốn này có hay thế không?”

“Cũng gần.” Monsieur Le Critic[11] chụm đầu ngón tay. “Hershey con là một tài năng về văn phong, và Felix – mà đám các chú phải gọi là Felix Finch – Felix đặt tay này ngang hàng với McEwan, Rushdie, Ishiguro et al. Lời khen của Felix hơi bị sớm, nhưng đợi vài cuốn nữa, Hershey sẽ chín muồi.”

Penhaligon hỏi, “Vậy còn tiểu thuyết của chú đến đâu rồi, Richard?” Fitzsimmons và tôi nhìn nhau, làm mặt người bị treo cổ.

“Đang phát triển.” Cheeseman nhìn vào tương lai văn chương xán lạn của mình, thích mê mẩn. “Nhân vật chính của anh là một sinh viên Cambridge tên là Richard Cheeseman, đang viết tiểu thuyết về một sinh viên Cambridge tên là Richard Cheeseman, cũng đang viết tiểu thuyết về một sinh viên Cambridge tên Richard Cheeseman. Chưa ai thử nghiệm kiểu viết đó cả.”

“Hay đấy,” Jonny Penhaligon nói. “Nghe như…”

“Một vại nước đái sủi bọt,” tôi tuyên bố, Cheeseman nhìn tôi, cặp mắt đằng sát sát khí cho tới khi tôi thêm vào, “đang ứ trong bọng anh. Sách nghe tuyệt đấy, Richard. Vô phép các chú.”

Nhà vệ sinh nam nồng nặc mùi khai như lên men, bồn tiểu trống duy nhất bị kẹt, óc ách sắp tràn thứ chất lỏng màu hổ phách, vậy là tôi phải xếp hàng đợi, như con gái. Cuối cùng một gã xù xì như gấu bước ra, tôi trám chỗ. Tôi vừa chuẩn bị dỗ dành niệu đạo thì ở bồn bên cạnh có tiếng nói, “Hugo Lamb, sờ sờ trước mắt ta đây.”

Một gã đậm người, da ngăm mặc áo len dày cộm, tóc đen xoăn tít, nói từ “Lamb” nghe giống như “Limb”- thứ nguyên âm của dân New Zealand. Gã lớn tuổi hơn tôi, chừng khoảng ba mươi, không nhớ là gặp ở đâu. “Gặp nhau hồi năm thứ nhất. Câu lạc bộ xạ thủ Cambridge. Xin lỗi, bắt chuyện khi chú đang dở tay hành sự thế này thực khiếm nhã.” Gã đái vào cái bồn đầy óc ách, không cần đến tay. “Elijah D’Arnoq, cao học ngành hóa sinh, trường Corpus Christi.”

Một ký ức thoáng qua: cái họ hiếm có ấy. “À, câu lạc bộ bắn súng, đúng rồi. Anh là người đảo gì đó ở phía đông New Zealand?”

“Đảo Chathams, đúng thế. Tôi nhớ rõ chú, vì chú là tay thiện xạ bẩm sinh. Vẫn còn chỗ cho chú đấy.”

Giờ tôi mới chắc là tay này không tính chuyện bệnh hoạn nọ kia, tôi bắt đầu đái. “Tôi e là anh quá khen.”

“Thực tình, chú đúng là đối thủ đáng gờm. Nói nghiêm túc đấy.”

“Năm đó tôi hơi tham quá, là nói chuyện hoạt động ngoại khóa.”

Gã gật đầu. “Đời ngắn ngủi, làm sao làm được hết mọi thứ, nhỉ?”

“Chắc vậy. Vậy… anh thích Cambridge chứ?”

“Cực kỳ thích. Phòng thí nghiệm rất tốt, thầy giỏi. Chú học kinh tế và chính trị, đúng không? Hẳn năm cuối rồi nhỉ.”

“Đúng vậy. Nhanh thật. Anh còn bắn không?”

“Thường xuyên. Giờ đã thành Ẩn Sĩ.”

Chẳng biết Ẩn Sĩ là cái quái gì, hay là một thứ mật hiệu của dân Kiwi, hay của dân bắn súng. Cambridge đầy các thể loại mật ngữ, để chặn bước những kẻ ngoại cuộc. “Hay quá,” tôi nói với gã. “Hồi đó tôi cũng thích đi bắn lắm.”

“Chú đến chơi lúc nào cũng được. Bắn súng cũng như cầu nguyện. Khi văn minh nhân loại sụp đổ, bằng cấp cũng đành thua súng đạn. Giáng Sinh vui vẻ.” Gã kéo khóa quần. “Gặp chú sau nhé.”

Penhaligon hỏi, “Vậy người đẹp bí mật của chú đâu rồi hả Olly?”

Olly Quinn nhướng mày. “Cô ấy bảo sẽ đến trước bảy rưỡi.”

“Chỉ mới trễ có chín mươi phút,” Cheeseman góp chuyện. “Đâu có nghĩa là nàng đã bỏ chú, chạy theo một đứa thân hình sáu múi với gương mặt như Keanu Reeves, súng ống hàng khủng và quyến rũ như moi[12] đây. Không hẳn thế, nhỉ.”

“Tối nay tớ sẽ lái xe đưa cô ấy về London,” Olly nói. “Cô ấy ở Greenwich, vậy nên lát nữa kiểu gì cũng sẽ ghé qua…”

“Anh đây có thể làm chứng là nàng có thật,” Fitzsimmons nói, ra vẻ bí ẩn.

“Ô?” Tôi lớn giọng hỏi Olly. “Từ khi nào mà gái gú lại đứng trên bạn chung cầu thang thế này?”

“Gặp tình cờ thôi.” Fitzsimmons trút vụn hạt rang vào mồm. “Anh trông thấy Olly với người đẹp đứng ở khu Kịch nghệ trong hiệu sách Heffer’s.”

“Với tư cách là một đấng nam nhi theo chủ nghĩa hậu-nữ-quyền đã sám hối,” tôi hỏi Fitzsimmons, “chú nghĩ Ness Hậu đây được bao nhiêu điểm?”

“Hàng ngon. Chắc có qua trung gian hả Olly?”

“Đi chết đi.” Rồi Olly reo lên, mỉm cười như mèo thấy mỡ. “Ness!” Hắn nhảy lên khi cô gái tiến đến, chen giữa đám sinh viên. “Trời, mới nhắc! Em đây rồi.”

“Xin lỗi em đến trễ, Olly,” nàng nói, hai người hôn môi nhau. “Xe buýt gì chạy lề mề đến tám trăm năm.”

Tôi biết nàng, hoặc đã từng biết, nhưng theo kiểu Adam “biết” Eva trong Kinh thánh. Tôi không nhớ họ của nàng, nhưng những phần khác thì nhớ rất rõ. Tăng hai trong một dịp tiệc tùng hồi năm thứ nhất, khi đó nàng là “Vanessa”: cựu học sinh trường Nữ trung học Cheltenham Ladies’ College, miệng mồm ghê gớm, nếu tôi nhớ không lầm; nàng thuê chung một ngôi nhà lớn cuối đường Trumpington. Cả hai uống cạn một chai Château Latour ‘76 mà nàng thó từ hầm rượu trước bữa tiệc. Từ dạo ấy, thỉnh thoảng thấy nhau trong phố, cả hai chỉ gật đầu, để khỏi tội làm ngơ bất nhã. Nàng đáo để cao tay hơn Olly nhiều, nhưng ngay cả khi tôi tự hỏi nàng muốn gì ở hắn, tôi đã kịp nhớ ra cú phốt lái xe say xỉn và tấm bằng lái bị treo của nàng, rồi nhớ tiếp đến con Astra ấm cúng, khô ráo của Olly. Thôi thì tôi chả trách gì nàng, tôi lắm tật nhưng dù sao tôi không phải là đứa đạo đức giả. Ness thấy tôi, trong vòng một phần năm giây, cả hai đồng ý cùng vui vẻ mắc bệnh đãng trí.

“Ngồi chỗ đây này,” Olly lên tiếng, cởi áo khoác cho nàng như một quý ông rởm đời, “anh… quỳ cũng được. Fitz đây em đã gặp rồi. Còn đây là Richard.”

“Rất hân hạnh.” Cheeseman đưa tay ra bắt, chỉ với bốn ngón. “Tôi là mụ bóng ác ôn của cả bọn. Cô là Nessie, như tên của quái vật, hay như tên cái hồ?”

“Tôi cũng vô cùng hân hạnh.” Tôi nhớ giọng nàng: kiểu dân nhà giàu ra vẻ hạ cố. “Bạn tôi thường gọi là ‘Ness’ nhưng anh có thể gọi tôi là Vanessa.”

“Tôi là Jonny, Jonny Penhaligon.” Jonny chồm người đến bắt tay nàng. “Hân hạnh. Olly kể cho bọn này nghe rất nhiều về cô.”

“Toàn tốt đẹp cả.” Tôi đưa bàn tay ra chào. “Hugo.”

Ness không chút ngập ngừng: “Hugo, Jonny, mụ bóng ác ôn và Fitz. Nhớ rồi.” Nàng quay sang Olly. “À xin lỗi, còn anh này là ai nhỉ?”

Olly cười hô hố, hơi quá đà. Hai đồng tử mắt hắn đã biến thành hình trái tim, và lần thứ n bình phương, tôi tự hỏi không biến tình yêu khiến người ta cảm thấy như thế nào bên trong, vì bên ngoài, nó biến người đang yêu thành thứ dở hơi cám hấp.

“Richard vừa định mua lượt tiếp cho anh em,” Fitzsimmons nói, “Phải vậy không Richard? Cho đỡ cộm ví?”

Cheeseman ra vẻ khó hiểu. “Chẳng phải đến lượt chú hay sao hả Penhaligon?”

“Không. Anh mua lượt trước rồi. Chú cứ đùa.”

“Nhưng chú sở hữu một nửa xứ Cornwall!” Cheeseman nói. “Cô phải thấy dinh cơ của Jonny đây, Ness à – vườn viếc, chim công, hươu nai, chuồng ngựa, chân dung dòng họ Đại tá Penhaligon qua ba thế kỷ treo dọc cầu thang chính.”

Penhaligon hừ mũi. “Dinh thự Tredavoe chính là lý do tại sao nhà anh chẳng còn tiền nong gì. Chi phí bảo trì cắt cổ. Bọn chim công thì mất nết thôi rồi.”

“Thôi nào, đừng làm mất vui chứ Jonny, vụ thuế khoán đồng mức đỡ bộn cho nhà chú còn gì. Anh đây lát nữa phải đi đứng đường, chỉ để kiếm đủ tiền xe đò về cái chuồng cu trên Leeds.”

Cheeseman đúng là thứ bẻm mép – hắn vẫn còn mười nghìn bảng tiền thừa kế của ông nội – nhưng tối nay tôi chả muốn gây sự với ai. “Để tớ mua lượt tiếp vậy,” tôi xung phong. “Olly, cậu phải tỉnh táo để mà còn lái xe, vậy nước ép cà chua với sốt Tabasco cho ấm dạ nhé? Cheeseman uống Guinness; phần Fitz, nước đái Úc có ga; còn Ness, món ruột của cô là… gì?”

“Vang đỏ ở đây không tệ.” Olly muốn chuốc cho nàng say.

“Vậy một ly vang đỏ là vừa đẹp, anh Hugo,” nàng nói với tôi.

Tôi nhớ lại chất giọng du dương lạ kỳ ấy. “Trừ khi có mang theo một khí quản nữa để thay, thì cô đừng liều. Thứ đấy có phải Château Latour đâu.”

“Archers với đá vậy,” Ness đáp. “Cho chắc ăn.”

“Một lựa chọn khôn ngoan. Ông Penhaligon, phiền ông giúp tôi mang mấy thứ đồ uống trở về an toàn? Quầy bar đêm nay gian nguy lắm, tôi e.”

Quán Giám mục bị chôn là một đám ẩu đả không có đường thoát – một thứ buffet ăn-bao-nhiêu-tùy-thích của tuổi trẻ: “Stephen Hawking và đức Đại Lai Lạt Ma, nhé: hai người đó mới có thứ chân lý hợp nhất”; váy jeans ngắn; áo sơ mi Next và Gap, áo khoác len kiểu Kurt Cobain, quần jeans đen Levi’s: “Cậu có thấy cái con lợn nóng máy đứng ở chỗ nhà vệ sinh không, cứ nhìn tớ như muốn ăn tươi nuốt sống ấy?”; bài hát của Pogues và Kirsty MacCool cứ ầm ầm trong ngực tôi, dưới gối tôi; “Thực tình, món hời mà tớ mua được từ cửa hàng từ thiện là chấy, ghẻ lở và rận”; một hỗn hợp mùi keo xịt tóc, mồ hôi và thuốc khử mùi Lynx, nước hoa Chanel No.5 và khói thuốc; những hàm răng được chăm chút cẩn thận, không có lấy một chỗ trám, để lộ qua thứ chuyện đùa nửa vời - “Cậu nghe tin gì về con mèo của Schrödinger chưa? Nó chết hôm nay đấy; à mà khoan – nó chưa chết, à mà chết rồi, chưa chết, chết rồi…”; đàm luận to tiếng về chuyện ai đóng Bond hay nhất; về Gilmour và Waters và Syd; về thế giới ảo; bình giá đô la và bảng Anh; Sartre, Bart Simpson, huyền thoại của Barthes; “Cho ly đúp”; ria cằm của George Michael; “Thực, đến the Smiths thì coi như âm nhạc đã kịch ngưỡng”; lịch lãm, quen với đặc quyền, phần lớn là những kẻ cùng chiếu với tôi; những đôi mắt lấp lánh, nhìn vào thấy toàn hi vọng, tương lai xán lạn; các chuyên gia tư vấn còn trong trứng nước, các vị thẩm phán, chuyên gia nhà băng in statu pupillari[13]; những hậu duệ của ông nọ bà kia (hay chính họ rồi cũng thành ông kia bà nọ); quyền lực và tiền bạc; như Gấu Pooh và mật ong; dính liền với nhau – Tôi chả dám bỉ, tôi cũng thế thôi; à mà nhân chuyện nọ kia, “Có ai từng nói với em, rằng em trông giống Demi Moore đóng phim Ghost?”; hoa hồng đỏ thắm, violet biếc xanh, tôi thừa bơ chảy, còn Ness là lát bánh mì vừa nướng.

“Hugo? Cậu không sao chứ?” Nụ cười của Penhaligon có gì đó ngập ngừng.

Cả hai vẫn đang chen chúc từ quầy bar về lại bàn.

“Ừ,” tôi gần như phải hét lên. “Xin lỗi, tớ mãi nghĩ đâu đâu. À, nhân tiện, Jonny này, thằng Cóc nhờ tớ mời cậu ngày mai ghé chơi thêm một bữa trắng đêm nữa, trước khi cả đám về nhà. Cậu, tớ, Eusebio, Bryce Clegg, Rinty, và một hai đứa khác nữa. Toàn chơi được.”

Penhaligon làm mặt không-chắc-đâu. “Mẹ tớ mong tối mai tớ sẽ về Tredavoe…”

“Không sao. Tớ chỉ chuyển lời mời thôi. Thằng Cóc bảo có cậu không khí đẳng cấp hẳn.”

Penhaligon như con chuột vừa ngửi thấy phô mai. “Cóc bảo thế sao?”

“Ừ, bảo là cậu chơi rất có thần. Rinty thậm chí còn gọi cậu là ‘Cướp biển xứ Penzance’ bởi vì lần nào cậu cũng ăn đậm.”

Jonny Penhaligon nhe răng cười. “Cậu cũng đến chứ?”

“Tớ? Đương nhiên. Làm sao bỏ được.”

“Tuần rồi cậu bị giã khá tơi.”

“Tớ không bao giờ để thua quá sức chịu đựng. ‘Yếu thì đừng ra gió’ Cậu nói thế còn gì. Lời hay ý đẹp cho dân chơi bài lẫn chuyên gia kinh tế.”

Đối tác cờ-bạc-giải-trí của tôi không thèm phủ nhận tác quyền câu châm ngôn tôi vừa nặn ra. “Tớ để Chủ Nhật về nhà cũng được…”

“Này, tớ không có ý dụ dỗ gì đâu đấy.”

Hắn ta ậm ừ. “Có thể nói với ông bà già là vẫn còn tiết học…”

“Mà cũng không phải là không đúng – một tiết về lý thuyết xác suất, tâm lý học, toán ứng dụng. Toàn những kỹ năng làm ăn cần thiết: hẳn sẽ được gia đình cậu đánh giá cao khi vụ sân golf được ở Dinh thự Tredavoe được bật đèn xanh. Thằng Cóc đề nghị nâng tiền gà lên một trăm bảng một ván: con số tròn trịa, khá đẹp đấy chứ, thậm chí là đối với cả Ngài đây, nếu may mắn vẫn tiếp tục mỉm cười. Nhưng cướp biển xứ Penzance hình như đâu cần may mắn.”

Jonny Penhaligon thừa nhận: “Tớ cũng có khiếu sao đấy.”

Tôi sao lại cái cười khúc khích của hắn ta. Xinh thế mà ngu, nhỉ?

Mười lăm phút sau cả hai mang đồ uống về lại chỗ cũ, thì nhận ra đã có chuyện. Richard Cheeseman, ngôi sao đang lên của Tạp chí Piccadilly đã bị dồn vào chân tường. Phe địch là “Come up to the Lab”, bộ ba chơi Goth-metal hàng đầu của Cambridge. Bộ ba gồm một Goth-đực và hai Goth-cái. Tháng rồi nhạc hội của bộ ba ở rạp Cornmarket đã bị ăn một bài chê tơi tả trên tờ Varsity, chính tay Richard Cheeseman chấp bút. Tay bass Goth-đực trông như ác quỷ Frankenstein, môi mỏng dính, dáng bộ kềnh càng; còn Goth-cái-số-một thì mắt như chó dại, cằm như hàm cá mập, tay đeo đầy nhẫn gai; Goth-cái-số-hai đội mũ quả dưa kiểu phim Clockwork Orange, tóc nhuộm hồng tung tóe, ghim mũ đính kim cương giả và cũng có cặp mắt y như Goth-cái-số-một. Thuốc lắc, tôi nhìn là biết ngay. “Chưa làm nên trò trống gì, nhỉ?” Số-hai chọc ngón tay móng sơn đen nhánh lên ngực của Cheeseman, nghiêng nghiêng viết vài chữ rủa xả. “Chưa bao giờ diễn trực tiếp trước khán giả thật, nhỉ?”

“Tao cũng chưa bao giờ ngủ với lừa, làm đảo chính ở Trung Mỹ hay chơi Rồng rắn và Ngục tối,” Cheeseman phản pháo, “nhưng tao vẫn có quyền nhận xét chứ. Show của bọn mày dở như hạch, tao không rút lại lời nào cả.”

Đến lượt Goth-cái-số-một: “Hí ha hí hoáy... cứ thế mà viết, cái đồ bóng mất nết, cứ thế mà đâm chọc, bỉ bôi, phá phách những nghệ sĩ thực sự, cái đồ phô mai thối.”

““Phô mai thối cơ đấy”,” Cheeseman đáp, “suy từ tên tao ra, nhỉ, thông minh quá. Sáng tạo nữa. Xưa nay chưa nghe bao giờ.”[14]

“Trông gì được ở cái thứ…” Goth-cái-số-một giật cuốn Phôi thai tan tác “hâm mộ Crispin Hershey? Cha đó cũng chả ra gì.”

“Đừng giả vờ bọn mày có đọc sách.” Cheeseman vô vọng giằng lại cuốn sách, và trong chớp nhoáng tôi thấy được hình ảnh của cậu bé đồng tính ngày nào bị bắt nạt, cặp vở bị trút đổ xuống cây cầu ám muội than trên đoạn đường sắt Leeds-Bradford. Goth-cái-số-hai xé cuốn sách dọc theo gáy thành hai nửa, vứt đi. Tên Goth-đực hầm hè gừ-hừ-hừ.

Olly nhặt được một nửa cuốn, Cheeseman nhặt nửa còn lại. Giờ hắn ta đã sôi máu. “Cục cứt Crispin Hershey vừa mới ị còn có giá trị nghệ thuật cao hơn nhạc nhẽo cả đời chúng mày. Âm nhạc của chúng mày là thứ xóc lọ, ăn theo. Sặc mùi ký sinh. Nghe như ghim mũ chọc vào tai, cưng à, mà nói thế không phải khen.”

Hắn ta vẫn đang hành xử khá ổn, cho đến câu cuối cùng, nhưng nếu dám tụt quần chổng mông vào một con kỳ lân đang hăng tiết trả thù, thì hậu quả xem như đã được báo trước. Khi tôi vừa kịp đặt đồ uống lên kệ gần đó, Goth-cái-số-hai đã rút cây ghim mũ, bay về phía Monsieur Le Critic, khiến ngài lăn quay như diễn kịch; bàn ăn bị thốc lên, ly tách đổ ào; đám khán giả nữ há hốc miệng, rú rít, “Ôi lạy Chúa tôi!” Goth-cái-số-hai bổ nhào vào kẻ vừa gục ngã, cứ thế mà đâm tới tấp; tôi chộp lấy cây ghim mũ (dính gì ươn ướt?), Penhaligon nắm lấy tóc ả, kéo ả ra khỏi Cheeseman; nắm đấm của tay bass Goth-đực sém tí nữa thì tộng thẳng vào mũi Penhaligon; Penhaligon lập cập đi về phía Olly và Ness; rồi tiếng thét của Goth-cái-số-một nghe càng rõ hơn - “Buông cô ấy ra!” Fitzsimmons đang ở tư thế quỳ xuống, vẫn giữ đầu Cheeseman trên đùi. Cheeseman trông như nhân vật trong hài kịch đang bị choáng hoa cả mắt, nhưng chiếc tai rỉ máu kia mới đáng ngại: Tôi nhìn kỹ. Tốt: chỉ có thùy tai bị rách, nhưng những kẻ gây hấn không cần biết vậy. Tôi đứng dậy ra tay dẹp loạn, hét “Rồi các người sẽ lãnh đủ” vào mặt ban nhạc “Come up to the Lab”.

“Thằng chó tự chuốc lấy,” Goth-cái-số-hai lên tiếng.

“Chính nó khiêu chiến,” bạn ả khăng khăng. “Nó khích tụi này trước.”

“Nhiều nhân chứng…” Tôi nhìn quanh đám đông hiếu kỳ, “…biết chính xác ai tấn công ai. Nếu các người nghĩ ‘ăn nói khiêu khích’ đủ để bào chữa cho tội gây thương tích trầm trọng, thì các người còn ngốc hơn tôi tưởng. Thấy cái ghim mũ đó không?” Goth-cái-số-hai thấy máu trên đầu ghim, bèn vứt ngay xuống đất: hai giây sau nó đã nằm trong túi tôi. “Hung khí sát thương, cố ý dùng. ADN của cô đầy trên đó. Tù giam, bốn năm. Đúng thế: bốn năm. Nếu bị thủng ống tai, thì sẽ thành bảy năm, khi tôi đã xong việc ở tòa thì sẽ y án bảy năm. Rõ rồi chứ. Tưởng tôi dọa sao?”

“Mày,” tay bass dữ tợn đã bắt đầu run rẩy, “là thằng chó nào?”

Tôi bật cười nham hiểm, điệu cười giáo chủ L. Ron Hubbard. “Nghiên cứu sinh ngành luật, biết chưa con. Nhưng mày là ai kia mới thú vị kia – một tên đồng phạm. Có biết thế nghĩa là gì không, trong tiếng Anh đơn giản dễ hiểu ấy? Nghĩa là mày cũng sẽ bị kết án.”

Goth-cái-số-hai vừa huênh hoang giờ đã bắt đầu cụp đuôi. “Nhưng tôi…”

Tay bass kéo tay ả ra. “Đi nào, Andrea.”

“Chạy đi, Andrea!” Tôi giễu. “Trà trộn vào đám đông ấy – à, mà khoan – Bọn mày dán poster mặt mày vênh váo khắp Cambridge, đúng không? À, vậy thì bỏ mẹ rồi. Bỏ mẹ rồi con ạ”. “Come up to the Lab” quyết bỏ chạy. Tôi hét theo. “Hẹn gặp tại tòa! Nhớ mang theo thẻ điện thoại để dùng ở nhà tạm giam – sẽ cần đấy!”

Penhaligon dựng bàn lại, Olly gom ly tách. Fitzsimmons kéo Cheeseman lên ghế, tôi hỏi hắn thấy tôi đang đưa mấy ngón tay. Hắn nhăn nhó, rồi quẹt ngang mồm. “Ả đâm vào tai tớ, chứ có phải mắt đâu.”

Lão chủ quán sưng sỉa xuất hiện. “Chuyện gì thế?”

Tôi quay về phía lão. “Bạn tôi bị ba đứa học sinh trung học say xỉn tấn công, giờ cần đi bệnh viện. Chỗ khách quen, tụi tôi không hề muốn ông bị rút giấy phép quán, vậy nên ở phòng Cấp Cứu Richard và Olly đây sẽ khai rằng vụ tấn công xảy ra bên ngoài quán. Trừ khi ông muốn nhà chức trách can thiệp?”

Lão chủ quán đấu dịu. “Thôi khỏi. Cảm ơn chú.”

“Không sao. Olly này, chiếc Astra thần kỳ có ở gần đây không?”

“Ở bãi đỗ xe trong trường, nhưng Ness đây…”

“Ừm, tớ cũng có xe đấy,” Penhaligon tốt bụng lên tiếng.

“Jonny, cậu quá chén rồi, ông cụ lại là thẩm phán.”

“Đêm nay cảnh sát sẽ đứng đường, chỉ chờ thử cồn trong hơi thở,” lão chủ quán cảnh báo.

“Cậu là người duy nhất không uống, Olly à. Nếu ta gọi xe cấp cứu từ bệnh viện Addenbrooke thì cảnh sát cũng sẽ đến, rồi…”

“Thẩm vấn, lời khai, thế lọ thế chai,” lão chủ quán góp chuyện, “rồi trường các cậu cũng sẽ dính vào.”

Olly nhìn Ness như thằng bé vừa đánh rơi mất chiếc kẹo bơ.

“Đi đi,” Ness bảo hắn. “Em cũng muốn đi cùng với anh, nhưng mà máu me…” Nàng nhăn mặt, gớm. “Giúp anh ấy đi.”

“Lẽ ra anh phải chở em về Greenwich tối nay.”

“Đừng lo. Em đi tàu cũng được, em lớn rồi mà, nhớ không? Chủ Nhật gọi cho em, rồi mình bàn chuyện Giáng Sinh, ô kê? Đi đi.”

Đồng hồ trên radio hiện số 01:08 khi tôi nghe tiếng bước chân trên cầu thang, bước chân dừng lại, cốc-cốc-cốc rụt rè trên cửa ngoài. Tôi khoác áo choàng tắm, đóng cửa phòng ngủ, đi qua phòng khách và mở hé cửa, vẫn để nguyên chốt xích. Tôi nheo mắt: “Olly? Mấy giờ rồi?” Dưới ánh đèn mờ, Olly trông ủ ê như nhân vật trong tranh Caravaggio.

“Mười hai rưỡi gì đó.”

“Chết thật. Tội nghiệp cậu. Cái thằng râu ria sao rồi?”

“Nếu không chết vì rên rỉ quá đà thì chả sao. Tiêm một mũi chống uốn ván và băng bó chút đỉnh. Khoa Cấp Cứu đúng là chốn địa ngục trần gian. Tớ chỉ mới đưa Cheeseman về nhà hắn. Ness ra đến ga chứ?”

“Chắc chắn. Penhaligon và tớ đưa cô ấy ra chỗ đậu taxi ở phố Drummer, thứ Sáu mà. Fitz gặp Chetwynd-Pitt và Yasmina sau khi cậu đi khỏi, cả đám kéo đi hộp đêm. Sau khi Ness lên đường bình an Penhaligon cũng tót luôn. Tớ nghỉ, rút về vui vẻ một tiếng đồng hồ với Học thuyết kinh tế kiểu Bush và chủ nghĩa tiền tệ mới của I.F.R Coates, rồi lên giường. Thực, tớ…” tôi ngáp sái quai hàm “…cũng muốn mời cậu vào, nhưng tớ bã lắm rồi.”

“Cô ấy không…” Olly suy nghĩ, hạ quân cờ xuống “…ở lại uống thêm một ly – hay sao… chứ? Ở quán Giám mục bị chôn ấy?”

“I.F.R.Coates là đàn ông, Olly à. Tay này dạy ở Blithewood College, tận phía bắc New York.”

“Ý tớ là,” Olly tha thiết muốn tin tôi làm sao, “Ness ấy.”

“Ness? Ness chỉ muốn về Greenwich.” Tôi hơi giận đấy: Olly phải tin tưởng rằng tôi không đụng đến bạn gái của hắn chứ. “Cô ấy bắt chuyến chín giờ năm mươi bảy phút về ga King’s Cross, từ đó bắt tiếp tàu về Greenwich, hẳn đang nằm trên giường, mơ đến Ngài Olly Quinn. Cô nàng dễ mến thật, mặc dù tớ chỉ gặp chốc lát. Rõ là mê cậu đắm đuối.”

“Cậu nghĩ vậy sao? Tuần này cô ấy hơi… tớ chẳng biết nữa… hơi gắt gỏng. Tớ cứ lo lo cô ấy đang…”

Tôi tiếp tục giả ngờ nghệch. Olly không nói hết câu.

“Gì kia?” Tôi nói. “Tính chuyện đá cậu? Tớ lại chẳng thấy thế. Thể loại gái quý tộc này, mỗi khi đã chết vì ai thì thường hay ra vẻ lạnh lùng, kiểu cô hiệu trưởng, để mà che giấu cảm xúc. Nhưng cũng đừng quên nguyên nhân số một của thói gắt gỏng ở phụ nữ: Lucille lúc trước cứ hai mươi tám ngày lại loạn trí rủa xả đấy thôi.”

Olly trông phấn khởi hẳn. “Ừ… À. Biết đâu đấy.”

“Hai người sẽ gặp nhau dịp Giáng Sinh chứ?”

“Ban đầu định tối nay sẽ lên kế hoạch.”

“Thế mà Richard lại cần có người ra tay cứu vớt. Nhưng này, khi cậu đứng ra liệu việc ở quán, Ness cảm kích lắm. Cô ấy nói rằng qua đó thấy được cậu luôn biết làm chủ tình thế.”

“Cô ấy nói vậy sao? Thật sao?”

“Gần như nói nguyên văn thế. Lúc ở chỗ đậu taxi.”

Olly mừng rơn, mặt mày hớn hở: nếu hắn chỉ cao khoảng tấc rưỡi và được nhồi bông mềm mại, hãng đồ chơi Toys R Us hẳn sẽ bán được hàng nghìn bản.

“Olly này, tớ phải đi nằm đây.”

“Ừ, tớ vô ý quá, Hugo. Cảm ơn nhé. Ngủ ngon.”

Trở lại chiếc giường ấm áp có hơi đàn bà, Ness gác một chân qua đùi tôi: “‘Ra vẻ cô hiệu trưởng?’ Đáng ra tôi phải đá anh ra khỏi giường luôn.”

“Đá thử đi.” Tôi mơn trớn đường cong mềm mại của nàng. “Đến sáng sớm cưng phải đi ngay. Anh vừa gởi thẳng cưng về Greenwich.”

“Vẫn còn cả mấy tiếng mà. Chuyện gì cũng có thể xảy ra.”

Ngón tay tôi vẽ quanh rốn nàng, nhưng tôi nhận ra mình đang nghĩ đến Immaculée Constantin. Tôi không kể gì với đám bạn lúc nãy: có mà ngu mới kể. Không, tuyệt đối không hé răng. Khi tôi ngủ quên, hẳn nàng đã nghĩ rằng… Nghĩ gì? Rằng tôi đã bất tỉnh trong tư thế ngồi, rồi để tôi ngồi đó. Thật đáng tiếc.

Ness lật mảnh khăn phủ giường xuống cho thoáng. “Vấn đề của những tay Olly trên đời này…”

“Mừng là cưng vẫn tập trung nghĩ đến anh,” tôi trêu.

“…là họ quá tử tế. Tử tế khiến tôi muốn điên.”

“Chẳng phải mọi đứa con gái chỉ muốn kiếm một tay tử tế sao?”

“Để lấy làm chồng, đúng thế. Nhưng Olly cứ khiến tôi thấy như mình bị nhốt trong một vở kịch trên đài Radio 4 về… những thanh niên cực kỳ đứng đắn hồi những năm năm mươi.”

“Hắn có nói dạo nào cưng hơi khác. ‘Gắt gỏng’.”

“Nếu tôi gắt gỏng thì hắn là con cún lớn xác lăng xăng.”

“Tình yêu đích thực có bao giờ êm…”

“Nín ngay. Hắn khiến tôi ngượng chết được, giữa đông người. Tôi đã định Chủ Nhật này sẽ cho ra rìa. Tối nay chỉ là giọt nước tràn ly.”

“Nếu Olly tội nghiệp là một vở kịch trên đài Radio 4, vậy anh là gì?”

“Anh, Hugo,” nàng hôn lên thùy tai tôi, “là một bộ phim Pháp rẻ tiền, trông bân bẩn. Thể loại phim tình cờ xem trên tivi lúc khuya. Biết nếu xem thì kiểu gì sáng dậy cũng sẽ hối tiếc, nhưng vẫn cứ phải xem cho hết.” Một tiếng hót lạc lõng, véo von ở sân trường bên dưới.