31 Tháng Mười Hai
Những cột băng nhỏ giọt xuống con ngõ, bắt ánh mặt trời chiếu xiên. Một chiếc ghế quầy bar chặn cửa quán Le Croc, bên trong Holly đang hút bụi, mặc quần rộng thùng thình kiểu lính, áo thun trắng, đội mũ lưỡi trai khaki, tóc buộc đuôi ngựa lồng qua mũ. Một giọt nước từ cột băng nhỏ xuống ngay giữa áo khoác và cổ tôi, sôi đánh xèo giữa hai bên xương vai. Holly như linh cảm có người đến, quay lại. Đợi nàng lẩm bẩm cằn nhằn xong, tôi lên tiếng, “Cốc-cốc.”
Nàng nhận ra tôi. “Quán chưa mở. Chín tiếng sau hẵng quay lại.”
“Cô phải nói, ‘Ai gọi đó?’ chứ, chơi trò Cốc-cốc-cốc mà.”
“Tôi còn không mở cửa cho anh đâu Hugo Lamb.”
“Nhưng mà cửa hơi mở rồi còn gì. Mà nhìn này,” tôi đưa lên cao mấy túi giấy từ hàng bánh, “bữa sáng. Günter chắc cho phép cô ăn chứ?”
“Nhiều người ăn sáng từ hai giờ trước rồi, Chảnh công tử à.”
“Ở trường Nam Sinh Richmond, nếu không chảnh chọe thì lại bị bắt nạt đấy. Vậy ăn bữa lỡ nhé?”
“Le Croc đâu có tự nhiên mà sạch.”
“Günter và đồng nghiệp của cô không đỡ giúp một tay sao?”
“Günter là ông chủ, Monique chỉ được thuê làm nhân viên quầy bar thôi. Hai người còn ôm nhau ngủ tới chiều. Sự thật là Günter mới bỏ bà vợ thứ ba chỉ vài tuần trước. Vậy nên đặc quyền dọn chuồng heo được giao cho người quản lý.”
Tôi nhìn quanh. “Thế người quản lý đâu?”
“Anh đang nhìn cô ta đó, ngốc à. Là tôi.”
“À. Vậy nếu Chảnh công tử đi dọn nhà vệ sinh nam, cô sẽ chịu nghỉ giải lao hai mươi phút chứ?”
Holly lưỡng lự. Nàng đã có phần muốn đồng ý. “Thấy cái thứ dài dài đó không? Gọi là cây chùi nhà đó. Anh cầm đầu nhọn lên.”
“Nói rồi mà, đúng chuồng heo.” Như một nhà du hành thời gian đang vận hành cỗ máy, Holly lần lượt kéo núm, vặn valve máy pha cà phê màu vàng. Nó phát tiếng xì xoạt, ợ ụp rồi khục khịch.
Tôi rửa tay, lấy vài chiếc ghế quầy bar từ trên bàn xuống. “Một trong những thứ gớm nhất tôi từng làm. Đàn ông đúng là lũ lợn. Bọn nó xong việc, lau giấy, rồi ném trật ra ngoài, rồi để nguyên mẩu giấy nhàu nhĩ ở đó. Còn cả chỗ nôn ói tung tóe ở khoang cuối cùng nữa – rõ đẹp. Cái của đó mà không dọn ngay thì hẳn sẽ đóng két lại. Như vữa Polyfilla ấy.”
“Đừng thở mũi nữa. Thở miệng đi.” Nàng đặt xuống một tách cappuccino. “Mỗi nhà vệ sinh anh dùng qua đều có ai đó dọn hết. Nếu như, ông già anh đi bán quán như ông già tôi, thay vì điều hành nhà băng, có thể chính anh phải dọn. Sau đây mời bạn nghe chương trình Suy tư của ngày mới.”
Tôi lấy ra một chiếc bánh sừng bò hạnh nhân rồi đẩy mớ túi bánh còn lại về phía Holly. “Tại sao cô không dọn từ đêm hôm trước?”
Holly bẻ quanh viền chiếc bánh ngọt nhân mơ. “Khách quen của Günter tới ba giờ sáng mới chịu biến, đó là nếu tôi gặp may. Anh đi mà lau chùi lúc đó, sau chín tiếng bưng bê.”
Tôi chịu thua. “Ừ, quán bây giờ trông tươm lắm, lại sẵn sàng chiến rồi.”
“Cũng tạm. Lát nữa tôi lau vòi bia, rồi xếp lại chai lọ cho đầy.”
“Thế mà tôi cứ tưởng quán xá tự nó lau chùi sắp xếp chứ.”
Nàng châm một điếu thuốc. “Nếu vậy tôi sẽ thất nghiệp.”
“Vậy, cô nghĩ mình làm trong ngành, ừm… dịch vụ này, lâu dài không?”
Holly nhướng mày, cảnh cáo. “Mắc gì tới anh?”
“Tôi chỉ… Tôi không biết. Cứ như việc gì cô cũng làm được.”
Cái nhướng mày của Holly có gì đó vừa nghi ngại, vừa mệt mỏi. Nàng gõ ngón tay lên điếu thuốc, gảy tàn thuốc xuống gạt. “Đám học trường tốp dưới như tụi này thường không được khuyến khích đi hướng đó. Thường là học nghề uốn tóc hay sửa xe gì thôi.”
“Nhưng chẳng lẽ cô cứ đổ thừa trường dỏm mãi vậy.”
Nàng lại gảy tàn thuốc. “Anh thông minh lắm. Nhưng không phải chuyện khỉ gì anh cũng biết đâu, Lamb à.”
Tôi gật đầu, nhấp cà phê. “Giáo viên tiếng Pháp của cô thật tuyệt vời.”
“Giáo viên tiếng Pháp của tôi không tồn tại. Tôi vừa làm vừa học. Tự vệ. Xua đàn ông Pháp.”
Tôi gỡ một mẩu hạnh nhân dính răng. “Vậy quán ở đâu?”
“Quán nào?”
“Quán ông già cô làm việc đó.”
“Ông già tôi sở hữu quán đó. Đúng ra là đồng sở hữu, với má tôi. Gọi là Quán Thuyền trưởng Marlow gần sông Thames ở Gravesend.”
“Nghe thơ mộng nhỉ. Cô lớn lên ở đó sao?”
“‘Gravesend’ và ‘thơ mộng’ thường không đi cặp với nhau. Toàn nhà xưởng bỏ hoang, nhà máy giấy, nhà máy xi măng Blue Circle, nhà ở xã hội, tiệm cầm đồ và hàng cá cược.”
“Không thể nào chỉ toàn tàn dư hậu công nghiệp thê lương thế được.”
Nàng nhìn xuống đáy tách. “Ừ thì mấy con phố cũ cũng đẹp. Sông Thames chỗ nào chẳng vậy, quán Thuyền trưởng Marlow đã qua ba thế kỷ – nghe đâu có một lá thư của Charles Dickens chứng tỏ ông ấy từng uống ở đó. Nghe được không hả Chảnh công tử? Còn có chút văn vẻ nữa đó.”
Máu tôi rần rần vì cà phê. “Mẹ cô người Ireland sao?”
“Làm sao mà luận ra được vậy, Sherlock?”
“Cô nói ‘với má tôi’, mà không phải “với mẹ tôi”.
Holly thở ra một vòng khói mập mạp. “Ừ, là người Cork. Bạn anh có bực mình mỗi khi anh làm vậy không?”
“Làm gì kia?”
“Cứ suy đoán linh tinh, thay vì lắng nghe.”
“Tôi chỉ thích để ý vậy mà, có gì đâu. À mà cô bấm đồng hồ hai mươi phút của tôi chưa đấy?”
“Anh còn…” nàng kiểm tra “…mười sáu phút nữa.”
“Vậy tôi muốn dành thời gian còn lại chơi bi lắc.”
Holly chun mũi. “Đúng là dại dột.”
Tôi chẳng biết khi nào nàng đùa, khi nào nghiêm túc. “Vì sao kia?”
“Tôi sẽ cho anh thua xiểng liểng, Chảnh công tử à.”
Quảng trường thị trấn lốm đốm những mảng tuyết, đông nghịt người đi mua sắm, thêm một ban nhạc kèn đồng ai nấy má ửng đỏ chơi các bài hát Giáng Sinh. Tôi mua một cuốn lịch gây quỹ chỗ quầy của đám học sinh và một giáo viên cạnh tượng St Agnès, mua xong được tặng ngay khúc hợp xướng “Merci, Monsieur!” rồi “Chúc mừng năm mới”, vì giọng tôi đặc Anh. Holly đúng là cho tôi thua xiểng liểng trên bàn bi lắc: nàng ghi bàn từ bóng dội hai bên thành, đánh bóng lốp, lại có thủ môn thuận tay trái vô cùng hiểm ác. Nàng không hề mỉm cười nhưng tôi nghĩ hẳn cũng khoái chí. Cả hai không lên kế hoạch gì cụ thể, nhưng tôi có nói sẽ ghé qua quán tối nay, và thay vì trả lời lạnh lùng hay mai mỉa, nàng chỉ nói tôi sẽ biết phải tìm nàng ở đâu. Một tiến độ choáng ngợp, sém chút nữa tôi không nhận ra Olly Quinn đứng trong buồng điện thoại bên bờ sông. Trông hắn như bị kích động. Hắn dùng điện thoại công cộng thay vì điện thoại ở nhà Chetwynd-Pitt, chắc là không muốn bị nghe lỏm. Nếu thi thoảng không tò mò tọc mạch, liệu tôi có còn là người? Tôi nấp đằng sau bức tường cạnh chỗ buồng điện thoại, nơi Olly không thể nhìn thấy. Nhờ sóng yếu và đang giữa cơn mè nheo, giọng Olly thật to, mỗi câu nấc lên nghe khá rõ “Em có nói mà, Ness. Em có nói! Em nói em cũng yêu anh mà! Em nói…”
Giời ạ. Lụy tình vô vọng khiến người ta trông quyến rũ như lúc bị mụn nhiệt.
“Bảy lần. Lần đầu tiên lúc ở trên giường. Anh còn nhớ… Có lẽ là sáu lần, có lẽ tám… ai mà biết, Ness, anh… Thực ra là chuyện gì hả Ness? Tất cả là dối trá sao?…rồi tiếp theo là trò… trò thử nghiệm tâm lý gì hả?”
Đã quá muộn, không thể nào thắng gấp nữa: đến lúc này thì đã qua bờ vực.
“Không không không, anh không có bị kích động, anh chỉ… Không, anh không, anh không hiểu chuyện gì đã xảy ra, vậy… Gì kia? Em vừa nói gì đó? Đường dây như cứt… Không, ý anh không phải thế – anh nói đường dây điện thoại như cứt kìa… Gì hả? Em nghĩ lúc đó em cũng tưởng thế?”
Olly đấm lên mặt kính buồng điện thoại một phát thật lực. “Làm sao lại nghĩ mình yêu ai được?…Không, Ness, không, không… đừng dập máy. Nghe này. Chỉ là… Anh chỉ muốn mọi thứ trở lại như cũ, Ness!… Nhưng nếu em giải thích, nếu em nói ra, nếu em… anh bình tĩnh mà. Anh bình tĩnh. Không, Ness! Không không không…”
Im lặng giả tạo, rồi hai tiếng “Khốn nạn!” bật ra, như bom nổ.
Quinn đấm tay lên kính vài lần nữa. Người ta bắt đầu để ý, vậy là tôi lỉnh ngược vào dòng người mua sắm, vòng trở lại theo đường cũ, đi ngang, để vừa đủ thấy thằng bạn học thất tình đang gập người xuống, giấu mặt trong bàn tay. Đang khóc – giữa đường giữa chợ? Cảnh tượng không lấy gì làm bổ óc ấy khiến tôi tỉnh táo đôi chút khi nghĩ đến Holly. Nhớ đấy: Cupid cho gì, Cupid sẽ lấy lại.
Tay DJ người Ethiopia lai Áo im ỉm, trùm mũ kín đầu, không chơi nhạc theo yêu cầu, và chỉ trong tiếng đồng hồ cuối cùng đi liên tiếp bản remix “3 A.M Eternal” của KLF, đến “Your Only Friend” của Phuture, rồi “Ping Pong Apocalypse” của Norfolklorists. Hộp đêm Club Walpurgis đặt trong tầng hầm của khách sạn Hôtel Le Sud lâu đời, rộng mênh mông. Khách sạn có sáu tầng, tổng cộng một trăm phòng, như mê cung nhiều góc cạnh, được cải tạo hồi những năm 1950 từ một khu nghỉ dưỡng cho bệnh nhân lao và giới siêu giàu. Sau đợt sửa sang gần đây, Club Walpurgis được cạo sạch vữa, lộ gạch trần trụi, trông rất ra vẻ Bowie-ở-Berlin, khu sàn nhảy được mở rộng bằng kích cỡ một sân tennis. Đèn mờ nhấp nhánh, một phần đáng kể trong khoảng hai ba trăm những kẻ ăn mặc sành điệu đang nhún nhảy là gái, còn trẻ. Chỉ hít vài hơi món “gầu của quỷ dữ”, Quinn đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sau cơn thất tình ban chiều, vậy là cả bọn bốn đứa kéo đi hộp đêm. Khác với lệ thường, đêm nay tôi là đứa duy nhất không tán tỉnh câu kéo gì: ba thằng đồng môn Humber đang ngồi trên ghế sofa hình móng ngựa, mỗi thằng ve vãn một ghệ da đen trông khá ngon mắt. Chetwynd-Pitt kiểu gì cũng giở chiêu người-thừa-kế-ngai-vàng-thứ mười chín, Fitzsimmons phe phẩy mớ francs, và hẳn ghệ của Quinn thì thấy hắn thật xinh xắn, đáng yêu. Thôi thì anh mừng cho các chú. Phải như những đêm khác tôi cũng sẽ nhập hội. Làm quái gì mà tôi chẳng biết rằng sắc diện hồng hào của dân chơi núi, vẻ nóng bỏng kiểu Rupert Everett, áo sơ mi Harry Enna và quần jeans Makoto Grelsch ôm lấy thân hình vận động viên đua thuyền của mình đang khiến bao đôi mi dài phải chớp liên tục, nhưng dịp Giao thừa này, tôi thà nhảy nhót còn hơn. Nếu tôi tự dằn lòng, tránh xa cám dỗ đêm nay ở Club Walpurgis, Ngân hàng Quả Báo liệu có bù đắp cho tôi bằng một người đẹp quê ở Gravesend? Chỉ có nàng tiên nâu biết câu trả lời, và sau bản remix hoành tráng “Walking On Thin Ice” của ban-nào-đấy, tôi sẽ đi thăm nàng ấy…
Buồng vệ sinh nam ở đây thênh thang hoành tráng, khác xa với hố xí cóc của Le Croc. Chỗ này dường như được thiết kế cho dân chơi cocaine: thường xuyên được lau chùi, rộng rãi, sans[34] cái khoảng trống sơ hở giữ cửa và trần nhà như các hộp đêm ở Anh. Tôi ngồi lên ngai vàng - bồn cầu, lấy ra cái gương con (mượn của một ả ô sin người Phillipines suốt ngày ôm mộng chồng Tây) và món Bột Thần, chiến lợi phẩm từ trận xì dách với Chetwynd-Pitt tối nay (đã gói trong bao ni lông nhỏ bên trong bịch kẹo bạc hà Fisherman’s Friend, để làm rối mũi bọn chó nghiệp vụ nếu có biến)…Đồ nghề của tôi là một cái ống hút làm từ giấy thô và băng keo trong. Động tác vô cùng chính xác, tôi đổ chỗ hàng còn lại lên mặt gương, trải thành vòng tròn và – à, mà đừng thử món này ở nhà nhé các em, đừng thử ở đâu cả, Ma Túy Cực Kỳ Độc Hại – tôi hít lên mũi trái một phát thật lực. Năm giây sau đó nhức buốt như có ai luồn cây tầm ma từ mũi xuống cổ họng cho đến khi…
Tên lửa đã phóng.
Tiếng bass dội lại trong xương tôi, lạy hồn, sướng điên. Tôi nhấn nút xả cho trôi ống hút giấy, thả thêm một mẩu giấy vệ sinh và lau sạch chiếc gương. Mắt tôi hoa lên, tôi loáng thoáng thấy những chấm đèn tí xíu. Tôi bước ra khỏi buồng vệ sinh, như Đấng Thiên Tử đang dời non lấp bể, rồi tôi nhìn mình trong gương – ngon lành, ngay cả khi đồng tử tôi trông giống loài Varanus komodoensis hơn là Homo sapiens. Ra khỏi nhà vệ sinh, tôi gặp một thằng phê thuốc đóng bộ Armani, tên thường gọi là Dominic Fitzsimmons. Lúc nãy hắn đã hút một tép, mồm mép sắc sảo ngày thường bỗng tịt ngóm. “Hugo thối tha, làm gì ở chỗ hoành thế này?”
“Đánh phấn mũi, Fitz thân mến.”
Hắn nhìn lên lỗ mũi tôi. “Trông như bão tuyết vừa thổi vào.” Hắn cười hềnh hệch, tự dưng khiến tôi nghĩ ngay đến mẹ hắn, cũng cười như thế, trên người không một mảnh vải. “Tụi này vừa gặp gái, Hugo. Một cho CP, một cho Olly, một cho moi đây. Đến chào các em nào.”
“Cậu biết tớ rất ngượng trước mặt đàn bà con gái mà.”
Hắn thấy quá buồn cười, đến không cười được. “Láo đến thế là cùng.”
“Thật đấy, Fitz, chả ai ưa cái thể loại kỳ đà cản mũi cả. Thế các em con cái nhà ai?”
“Đoạn này mới hay. Nghe nhé. Cậu nhớ bài hát nhạc pop Phi châu ‘Yé Ké Yé Ké’? Mùa hè năm… 1988, thì phải. Đình đám.”
“Ừ… không nhớ rõ lắm nhưng biết rồi. Tay đó tên gì nhỉ? Mory Kanté?”
“Tụi này đang tán nhóm bè của Mory Kanté.”
“À, raa thếếế. Thế Mory Kanté tối nay không cần các em sao?”
“Tối hôm qua có sô lớn ở Geneva còn tối nay được tự do, các em chưa biết trượt tuyết – chắc vì Algeria thiếu tuyết – vậy là các em đến Sainte-Agnès hai ba ngày để tập trượt.”
Tôi nửa tin nửa ngờ, nửa ngờ nhiều hơn nửa tin, nhưng trước khi tôi kịp lên tiếng, Chetwynd-Pitt đã rống. “Đêm nay là mùa yêuuu chez CP. Nếu cậu thấy cô đơn thì trong tủ lạnh vẫn còn một tảng phô mai Gruyère cho cậu làm phát đấy Lamb.”
Rượu Southern Comfort, cocaine và hứng tình đã khiến Chetwynd-Pitt trở nên đần vô đối, tôi phải trả miếng: “Tớ thực không muốn ỉa vào bánh cậu đang ăn dở, Rufus, nhưng chẳng lẽ cậu không nhận ra ba em bướm đêm chính hiệu sao? Bọn này bốc mùi tiền. Tớ chỉ hỏi thế thôi.”
“Chú giỏi trò gian lận bài bạc đấy, nhưng tối nay chú chả câu được em nào cả.” Chetwynd-Pitt chọc tay lên ngực tôi, tôi muốn chặt béng ngón tay hỗn xược ấy. “Chỉ chưa tới sáu chục phút, ba anh đây khiến ba bé đen từ chỗ lạnh lùng đến chỗ nhảy chồm chồm đòi cho bằng được, vậy là chú Lamb phán các anh ăn bánh trả tiền. Sự thật là, không, không có chuyện đó, toàn gái con nhà cả, vậy nên chú mày nhớ dùng bông bịt tai: Shandy hét to đấy, anh nhìn là biết.”
Tôi không thể bỏ qua. “Tớ không gian lận bài bạc.”
“Ô, anh tin là chú có gian đấy, gian bẩn nữa kìa, sinh viên xuất sắc à.”
“Bỏ ngón tay ra khỏi ngực tớ, Dẹo Công tử Chetwynd-Pitt, rồi chứng minh đi.”
“Ôi, chú thông minh bỏ mẹ, chùi mép giỏi, nhưng năm này qua năm khác, chú trấn của anh em hàng nghìn bảng. Thứ giun sán kí sinh.”
“Nếu cậu chắc là tớ gian lận, Rufus, thì tại sao cậu vẫn chơi?”
“Anh sẽ không chơi với chú nữa, thật đấy, Lamb này, tại sao chú không…?”
“Anh em thôi nào,” Fitz - kẻ hòa giải phê thuốc lên tiếng, “nói năng chả giống các cậu gì cả: chắc vì món bột Colombia hay cái quỷ gì của Günter. Thôi nào, thôi nào, thôi nào!” Thụy Sĩ! Giao thừa Năm mới! Shandy chỉ thích anh yêu, không thích côn đồ. Hôn nhau làm hòa đi nào.”
“Thằng-chơi-gian đi mà hôn cái ấy của anh,” Chetwynd-Pitt lẩm bẩm, đẩy người qua trước mặt tôi. “Lấy áo khoác đi, Fitz. Nói với các em đã đến tăng hai, về nhà thôi.”
Cánh cửa khu vệ sinh nam lắc lư sau lưng cả đám. “Nó không có ý đấy đâu,” Fitzsimmons nói, vẻ ăn năn.
Tôi cũng mong là hắn không có ý đó. Vì nhiều lý do, tôi thực mong thế.
Tôi ở lại sàn nhảy chờ DJ Aslanski chơi remix bản nhạc lừng lẫy hồi giữa thập niên 80 của Damon MacNish, “Cá chuồn cho bữa sáng”. Nhưng cú đòn tạm biệt của Chetwynd-Pitt làm tôi mất hứng, niềm tin vào dự án Marcus Anyder bị lung lay đáng kể. Anyder đâu chỉ là một tài khoản giả nhằm cất giấu mớ tài sản phi pháp. Marcus Anyder còn là một phiên bản chân thực hơn, sắc sảo hơn và siêu việt hơn của Hugo Lamb. Nhưng nếu một thằng quý tộc não phẳng như Chetwynd-Pitt cũng thấy tỏng, thì có lẽ tôi không thông minh đến thế, mà Anyder cũng chẳng kín đáo như xưa nay tôi vẫn nghĩ. Mà ngay cả khi tôi là một tên lừa đảo thượng thừa, thì đã sao chứ? Thì đã sao nếu tám tháng nữa, tôi đi làm cho một công ty tài chính rồi lươn lẹo luồn lách để thăng lên hạng lương dài như số điện thoại? Thì đã sao nếu tôi có con Maserati mui xếp, villa ở Cyclades và du thuyền đậu cảng Poole vào cuối thế kỷ này? Thì đã sao nếu Marcus Anyder tự gầy dựng được đế chế cổ phiếu, địa ốc, danh mục đầu tư? Đế chế nào rồi cũng chết, như hết thảy đám người đang nhảy nhót trong ánh đèn mờ. Không có bóng tối sao ta nhận ra ánh sáng. Nhìn kìa: nếp nhăn lan tỏa như nấm mốc trên làn da căng mọng; từng nhịp-từng nhịp-từng nhịp-từng nhịp, tĩnh mạch giãn chạy dưới những bắp chân mịn màng; thân mình và cặp vú phì nộn và trễ xuống; rồi kìa, Chuẩn tướng Philby đang hôn lưỡi với bà Bolitho; khi bài hát năm ngoái hòa vào bài hát năm tới và năm sau đó nữa, tóc tai của đám nhảy nhót ngả bạc, héo rũ rồi rơi rụng từng mảng sáng chói; ung thư tung tóe trong buồng phổi ám thuốc này, trong tuyến tụy già nua; trong hai hòn nhức nhối; ADN xác xơ như len, rồi ta bổ nhào xuống; một cú ngã cầu thang, một cơn đau tim, một cơn đột quỵ; thôi nhảy nhót, chỉ còn co giật. Đây là Club Walpurgis. Từ Thời Trung Cổ, người ta đã biết. Cuộc sống vốn là căn bệnh chờ chết.
Qua khỏi hàng người trước quầy bánh kếp trên quảng trường của tay đầu bếp hóa trang thành con gorilla, dưới những dây đèn mắc giữa những cây thông tua tủa, xuyên bầu không khí lanh lảnh tiếng chuông và lạnh như nước suối trên non, đôi chân tôi như tự biết đường đi, mà không phải trở về nhà nghỉ của gia đình Chetwynd-Pitt. Tôi tháo găng tay để châm thuốc. Đồng hồ trên tay báo 23:58. Lạy thánh mớ bái, sao mà linh thế. Sau khi nhường đường cho một chiếc xe hai cầu của cảnh sát – xích chống tuyết va vào nhau như chuông treo cỗ xe trượt – tôi đi xuống con ngõ hẹp về quán Le Croc, nhìn qua cửa sổ tròn, bên trong là đám hỗn độn dân địa phương, khách du lịch và những kẻ nửa đi nửa ở: Monique đang pha chế đồ uống nhưng chẳng thấy Holly đâu. Tôi cứ đi vào, nhẹ nhàng luồn lách giữa da thịt người, áo khoác, khói thuốc, tiếng cười nói lao xao, tiếng ly tách loảng xoảng, tiếng được tiếng mất từ đĩa Maiden Voyage của Herbie Hancock. Tôi vừa đến quầy bar thì Günter vặn nhỏ âm lượng máy hát rồi leo lên ghế, tay lắc lục lạc thu hút sự chú ý. Ông chủ quán cầm cán vợt tennis chỉ về phía đồng hồ lớn: chỉ còn chưa đầy hai mươi giây của năm cũ. “Mesdames et messieurs, Herr und Herren, thưa quý ông quý bà, signore e signori – le countdown, s’il vous-plaît…”[35] Tôi bị dị ứng trò đồng thanh hợp xướng nên không tham gia, nhưng đúng lúc cả quán đồng loạt đếm tới năm, tôi cảm thấy ánh mắt nàng kéo mắt tôi từ chiếc đồng hồ xuống rồi cả hai nhìn nhau như trẻ con chơi trò nghiêm mặt, ai mỉm cười trước sẽ thua. Tiếng hoan hô loạn óc nổ ra, và tôi thua cuộc. Holly rót một lóng Kilmagoon lên viên đá lẻ loi trong ly rồi trượt ly về phía tôi. “Lần này anh để quên món đồ bí hiểm nào nữa?”
Tôi đáp, “Chúc mừng năm mới.”