← Quay lại trang sách

30 Tháng Mười Hai

Tiếng gào thét của đám đông Paris tan thành tiếng rù rì của xe cào tuyết, và cuộc săn tìm đứa bé có con mắt ở giữa trong các trại mồ côi Pháp kết thúc; Immaculée Constantin đứng trong căn phòng bé tí của tôi ở nhà nghỉ Thụy Sĩ của gia đình Chetwynd-Pitt. Nàng lạnh lùng nói, Ngươi chưa biết mùi đời nếu chưa từng nếm Hắc Tửu, Hugo. Rồi tôi thức dậy ngay trong căn gác xép ấy, giữa háng là cú “chào buổi sáng” hoành tráng như một quả tên lửa hành trình. Kệ sách, quả địa cầu, tấm áo choàng Thổ treo trên cửa, màn cửa dày. “Mấy thằng có học bổng thì ở phòng này,” Chetwynd-Pitt nửa đùa nửa thật khi tôi đến đây lần đầu. Ống sưởi cũ vừa nóng lên, kêu lục cục lang cang. Chơi thuốc + Độ cao = Mơ ngủ toàn chuyện quái đản. Tôi nằm trong cái ổ ấm áp, nghĩ về cô hầu bàn Holly. Tôi nhận ra mình đã quên gương mặt Mariângela, dù có thế vẫn chưa kịp quên các bộ phận khác của ả, nhưng gương mặt Holly tôi nhớ như in. Đáng ra tôi nên tranh thủ hỏi Günter tên họ đầy đủ của nàng. Một lát sau, chuông nhà thờ Sainte-Agnès đánh tám tiếng. Trong giấc mơ của tôi cũng có tiếng chuông. Miệng khô như bụi mặt trăng, tôi uống ly nước trên bàn cạnh giường, khoan khoái nhìn xấp tiền francs đặt cạnh đèn – chiến lợi phẩm trận billiards với Chetwynd-Pitt tối hôm qua. Hà. Hắn sẽ rất nóng lòng muốn gỡ lại, mà một cơ thủ nôn nóng là một cơ thủ tồi.

Tôi đi tè trong buồng vệ sinh bé xíu của gác xép; nhúng mặt vào bồn nước lạnh như băng, đếm đến mười; mở rèm và cửa chớp để thứ ánh sáng trắng như muốn thiêu đốt võng mạc tràn vào; giấu phần thưởng tối hôm qua dưới một mảnh ván sàn mà tôi tháo rời cách đây hai bận ghé chỗ này; chống đẩy một trăm cái; khoác áo choàng Thổ, bước ra cầu thang gỗ dựng dốc xuống tầng đầu tiên, tay nắm lấy thanh vịn bằng dây thừng. Chetwynd-Pitt đang ngáy trong phòng hắn. Cầu thang bên dưới dẫn tôi xuống phòng khách ở tầng hầm, Fitzsimmons và Quinn nằm cuộn trong đống chăn mền trên ghế sofa. Đầu video nhả ra cuộn băng Phù Thủy Xứ Oz, đĩa Dark Side of the Moon của Pink Floyd vẫn đang bật, ở chế độ tự lặp lại. Không khí thoang thoảng mùi “cỏ” tối qua, tro than đêm trước rực cháy trong lò sưởi. Tôi nhón chân đi giữa hai đội cờ bóng đá Subbuteo, đạp bẹp mẩu khoai tây giòn trên thảm, cho một khúc củi lớn vào lò sưởi, thêm một ít vụn mồi lửa. Lửa bùng lên, liếm láp. Cây súng trường từ Chiến tranh Boer treo trên bệ lò sưởi, nơi đặt khung hình bạc - ảnh chụp ông già của Chetwynd-Pitt bắt tay với Henry Kissinger ở Washington, khoảng hồi năm 1984. Tôi vừa rót cốc nước ép bưởi đắng trong bếp thì điện thoại rón rén đổ chuông. “A lô,” tôi giở giọng ngọt ngào. “Dinh cơ của Thiếu gia Chetwynd-Pitt xin nghe.”

Một giọng đàn ông ngắn gọn, “Hugo Lamb. Còn ai nữa.”

Tôi biết cái giọng này. “Còn anh là?”

“Richard Cheeseman, trường Humber, ngốc ạ.”

“Úi trời, lạy hồn. Thế tai tiếc cậu sao rồi?”

“Tốt cả, tốt cả, nhưng nghe này, có chuyện lớn đây. Tớ gặp…”

“Gượm đã, cậu đang ở đâu thế? Đừng nói ở Thụy Sĩ đấy chứ?”

“Sheffield, nhà em gái tớ, nhưng im mà nghe đã, điện thoại đường dài đến là cắt cổ. Tối hôm qua tớ nói chuyện với Dale Gow, nó bảo Jonny Penhaligon chết rồi.”

Tôi không nghe nhầm. “Jonny Penhaligon bạn tụi mình á? Đùa ác thế.”

“Dale Gow nghe được từ Cottia Benboe, thằng này nghe trên đài địa phương, Bản tin vùng Tây Nam. Tự tử. Jonny lái xe đâm xuống vực, gần Truro. Cách đường cái khoảng bốn năm chục mét, đâm xuyên qua hàng rào, rơi chín chục mét xuống đá. Thì… rõ là không phải chịu đau đớn gì lắm. Ngoài chuyện vì sao tự tử, đương nhiên rồi, và… cú rơi cuối cùng.”

Tôi muốn khóc. Chừng đó tiền. Qua cửa sổ bếp tôi thấy xe cào tuyết đang bò qua. Một linh mục còn trẻ tự dưng xuất hiện theo sau, rất đúng lúc, hai má ửng hồng, hơi thở bốc khói trắng. “Thật… tớ chẳng biết phải nói gì nữa, Cheeseman à. Thật bi đát. Không thể tin được. Jonny! Chứ không phải ai khác…”

“Đây cũng thế. Thật. Chẳng ai ngờ lại là nó…”

“Thế… thế lúc đấy nó có lái con Aston Martin không?”

Im lặng. “Ừ, có. Làm sao cậu biết?”

Phải cẩn thận hơn. “Tớ không biết, nhưng đêm cuối cùng ở Cambridge, ở quán Giám mục bị chôn, nó cứ nói là rất yêu con xe đấy. Khi nào thì làm tang lễ?”

“Chiều nay. Tớ không đi dự được – Felix Flinch đã mua vé xem opera, với cả tớ chẳng thể nào đến Cornwall kịp giờ được – nhưng biết đâu vậy lại tốt hơn. Gia đình của Jonny đâu cần một đám lạ mặt xuất hiện ở… ở…cái chỗ gì gì đấy.”

“Tredavoe. Thế Penhaligon có viết gì để lại không?”

“Dale Gow chẳng kể gì cả. Tại sao?”

“Thì biết đâu nhờ đó mà có manh mối.”

“Sẽ biết chi tiết hơn sau khi có kết quả điều tra, chắc vậy.”

Điều tra? Chi tiết? Chết mẹ. “Hi vọng là thế.”

“Cậu báo với Fitz và đám kia nhé?”

“Ừ, đương nhiên. Cảm ơn cậu đã gọi nhé Cheeseman.”

“Xin lỗi, làm các cậu mất vui, nhưng tớ nghĩ hẳn cậu muốn biết. Chúc mừng năm mới trước nhé.”

Hai giờ chiều. Hành khách từ xe cáp treo đi qua phòng đợi của ga Chemeuille, nói hầu hết những ngôn ngữ chính ở châu Âu, nhưng không có nàng trong đó, vậy là tôi hướng tâm trí về lại với Binh pháp Tôn tử. Nhưng tâm trí tôi thật bất trị, nó đã tự hướng về một nghĩa trang ở Cornwall, nơi cái xác vô dụng phế phẩm, mà gần đây vẫn được biết đến với tên Jonny Penhaligon, chuẩn bị về với tổ tiên trong lòng đất bùn lầy. Có khi nơi ấy giờ mưa gió vần vũ, ngọn gió hướng đông ngoạm lấy những chiếc dù của người đi đưa đám, làm nhòe lời bản thánh ca “For Those In Peril On the Sea” vừa được sao chụp hôm qua trên những tờ A4. Những dịp buồn đau tang tóc luôn khiến tôi nhẹ nhõm nhận ra mình thật khác bọn Người Thường. Ngay cả khi còn non nớt, mới bảy tuổi, tôi đã biết thấy ngượng vì gia đình mình, ngượng thay phần cả nhà lúc con chó Twix chết. Nigel khóc muốn sưng cả mắt, Alex buồn còn hơn lúc người ta giao máy tính Sinclair ZX Spectrum mà không có cục biến thế, còn bố mẹ tôi thì ủ rũ cả mấy ngày trời. Tại sao chứ? Twix chết là hết đau đớn. Cả nhà cũng không phải chịu những cú rắm của một con chó bị ung thư ruột kết. Tương tự như thế lúc ông tôi chết: nào là bứt tóc bứt tai, nghiến răng nghiến lợi, rồi bồi hồi tưởng nhớ đức độ như đức Thánh lúc sinh thời của ông già keo kiệt ấy. Ở lễ tang người ta cứ nói tôi nhỏ tuổi mà thật điềm đạm, thật đàn ông, nhưng nếu đọc được tâm trí tôi, hẳn họ sẽ gọi tôi là cái giống tâm thần máu lạnh. Sự thật thế này: không yêu thương thì cũng khỏi đau khổ.

Ba giờ chiều. Holly cô hầu bàn trông thấy tôi, nhướng mày rồi bước chậm lại: một khởi đầu triển vọng. Tôi đóng cuốn Binh pháp Tôn tử. “Trời, hay quá, gặp cô ở ngay đây.”

Dân trượt tuyết lượn qua, sau lưng nàng và giữa chúng tôi. Nàng nhìn quanh. “Các bạn vui tính của anh đâu rồi?”

“Chetwynd-Pitt, cùng vần với món cocktail Angel’s tit – tức Vú thiên thần, tôi mới nhận ra…”

“Ngoài ra cũng cùng vần với ‘rởm rít’ và ‘nhăng nhít’ nữa, tôi cũng mới nhận ra.”

“Thôi bỏ qua nhé. Chetwynd-Pitt chưa giã rượu, còn hai đứa kia thì đã qua đây khoảng một tiếng trước, nhưng tôi kịp mang nhẫn tàng hình vào, vì biết rằng cơ hội ngồi chung ghế cáp treo với cô lên trên kia…” tôi múa máy ngón trỏ về phía đỉnh Palance de la Cretta “sẽ là một con số không to tướng nếu tụi nó cũng có mặt. Tôi thấy ngượng thay cho Chetwynd-Pitt vụ tối hôm qua. Thằng đấy vô duyên tợn. Tôi thì không.”

Holly suy nghĩ giây lát rồi nhún vai. “Chuyện đó liên quan gì.”

“Với tôi thì có. Tôi muốn được đi trượt tuyết với cô.”

“Vì vậy mà anh ngồi đây kể từ…”

“Mười một giờ rưỡi. Ba tiếng rưỡi. Nhưng cô không việc gì phải áy náy.”

“Tôi không áy náy gì. Tôi chỉ thấy anh hơi bị ngố, Hugo Lamb à.”

Vậy là nàng nhớ tên tôi. “Sông có khúc người có lúc. Lúc này thì ngố, nhưng lúc khác cũng được việc phết. Cô không đồng ý sao?”

“Ngay lúc này đây tôi thấy anh hơi bị giống đồ ma xó.”

“Lệnh cho tôi biến, và tôi sẽ biến ngay.”

“Trời, hay quá vậy? Biến.”

Tôi cúi người điệu đà, kiểu muôn-sự-tùy-nàng, đứng dậy, thảy cuốn Binh pháp Tôn tử vào túi áo trượt tuyết. “Xin lỗi đã làm cô phải ngượng.” Nói rồi tôi bước thẳng ra.

“Ê.” Nghe có vẻ hào hứng, hơn là mềm lòng. “Ai nói anh làm tôi ngượng được?”

Tôi gõ cốc-cốc lên trán. “Ý cô là ‘Xin lỗi vì đã thấy anh cũng hay ho’ chăng?”

“Một loại con gái nhất định, ưa tìm chút phiêu lưu nọ kia thì sẽ dính câu ngay. Còn tụi này làm việc ở đây, chai rồi.”

Máy móc xủng xẻng và tiếng động cơ rền rĩ, xe cáp treo đi xuống chuẩn bị khởi hành. “Tôi cũng hiểu cô phải chai vậy, cô làm trong quán nơi thể loại Chetwynd-Pitt của cả châu Âu tụ tập ăn chơi. Nhưng thực tôi thấy cô đúng là chai bẩm sinh.”

Một tiếng cười ngờ vực. “Anh đâu biết tôi.”

“Lạ ở chỗ đấy: tôi biết là tôi không biết cô. Vậy tại sao tôi cứ cảm thấy như tôi biết ấy nhỉ?”

Nàng gừ một tiếng, bực bội. “Phép tắc đâu hết rồi… Đừng có nói chuyện với người mới quen năm phút cứ như đã quen từ hồi nào. Thôi đi.”

Tôi đưa hai bàn tay lên. “Holly, nếu tôi là thằng kiêu căng hợm hĩnh, thì tôi là thể loại kiêu căng hợm hĩnh vô hại.” Tôi chợt nghĩ đến Penhaligon. “Gần như vô hại. Nghe này, cho tôi đi chung ghế cáp treo đến trạm tiếp theo nhé? Chỉ bảy, tám phút nhỉ? Nếu tôi đúng là cái hạng dở hơi, thì cô cũng chẳng phải chịu lâu – không không không, tôi hiểu mà, không phải là hẹn hò gì cả, chỉ là ngồi chung ghế cáp thôi. Rồi khi ta đến nơi, cô chỉ cần đẩy gậy trượt một phát, tôi đã thành lịch sử. Xin cô đấy. Đi mà?”

Tay nhân viên cáp lắp đường ray vào, tôi kìm lại, không buông câu đùa sến khi cả hai chưa gì đã vèo phóng đi. Ngày 30 tháng Mười Hai không còn trong trẻo như lúc nãy, đỉnh núi Palanche de la Cretta bị giấu trong mây. Tôi dõi theo cáp treo từ cột này sang cột khác, lên đến sườn núi. Hẻm núi mở ra bên dưới, độ cao làm tôi choáng váng. Tôi chụp lấy thanh vịn, hàng họ như muốn chạy trốn, dội lên tận gan. Cố nhìn xuống mặt đất dưới xa, tôi nghĩ đến những giây cuối cùng của Penhaligon. Ân hận? Nhẹ nhõm? Khiếp vía? Hay tự dưng lúc đấy trong đầu hắn vang lên bài “Babooshka” của Kate Bush? Hai con quạ bay dưới chân chúng tôi. Giống này kết đôi trọn đời, thằng Jason em họ tôi từng nói. Tôi hỏi Holly, “Cô có bao giờ mơ mình đang bay không?”

Holly nhìn thẳng phía trước. Cặp kính trượt tuyết che hết mắt. “Không.”

Cả hai lại qua hẻm núi, rồi là là qua một dải rộng những đường trượt bên dưới, mà lát nữa sẽ trượt xuống. Đám dân trượt tuyết lượn vòng, tăng tốc và thả người xuống đến ga Chemeuille.

“Đường trượt trông tốt hơn hẳn sau đợt tuyết tối qua,” tôi nói.

“Ừ. Nhưng sương mỗi lúc lại dày hơn.”

Đúng thế: đỉnh núi giờ mờ hẳn, xam xám. “Mùa đông nào cô cũng làm ở Sainte-Agnès sao?”

“Gì vậy? Phỏng vấn tuyển người à?”

“Không, nhưng tôi không giỏi món ngoại cảm lắm, phải hỏi mới biết.”

Holly giải thích: “Lúc trước tôi làm ở Méribel, phần núi Alps bên Pháp cho một tay quen Günter thời còn chơi tennis. Khi Günter cần tuyển người biết giữ mồm giữ miệng, tôi được mời làm, tăng lương cộng thêm vé trượt tuyết.”

“Tại sao Günter lại cần người biết giữ mồm giữ miệng?”

“Chịu – mà nói luôn, tôi không chơi thuốc. Đời đã đủ rối, không cần làm trò xáo não để thăng.”

Tôi nghĩ đến cô Constantin. “Cô nói không sai.”

Những chiếc xe trượt không người tiến đến từ sương mù đằng trước. Phía sau lưng, Chemeuille nhạt nhòa đi, không còn ai theo sau chúng tôi đi lên trên nữa. “Giờ mà thấy ma trong mấy cái ghế đối diện thì kinh nhỉ?” Tôi buột miệng.

Holly nhìn tôi, kiểu dở hơi à.

“Không phải ma kiểu ma cà rồng, tay chân rơi rụng,” tôi nghe giọng mình nói. “Mà ma của riêng mình ấy. Người mình biết, từng quan tâm đến. Thậm chí như thú cưng chẳng hạn.” Hoặc một gã người Cornwall nào đó.

Chiếc ghế bằng nhựa và ống sắt kêu kẽo kẹt; bánh xe chạy trên cáp tiếp tục lăn. Holly quyết định lơ câu hỏi quái đản quá thể của tôi. Âm âm u u, núi như đang gầm rống. Tự dưng nàng hỏi, “Anh là con nhà lính hả?”

“Lạy hồn, không phải. Bố tôi dân kế toán còn mẹ làm ở Nhà hát Richmond. Tại sao cô hỏi vậy?”

“Vì anh đọc Binh pháp Tôn Tử.”

“À, ra thế. Tôi đọc sách của Tôn Vũ vì nó đã ba nghìn tuổi, và mỗi điệp viên CIA từ hồi chiến tranh Việt Nam đều lấy đó làm cẩm nang. Cô thích đọc sách không?”

“Em gái tôi mới đọc nhiều, nó hay gởi sách cho tôi.”

“Cô có hay về Anh không?”

“Cũng ít.” Nàng lọ mọ với miếng dán Velcro trên găng tay. “Tôi không phải cái thể loại mới mười phút là đã trút bầu tâm sự. Hiểu không?”

“Hiểu. Đừng lo, vậy tức là cô hoàn toàn bình thường.”

“Tôi biết tôi hoàn toàn bình thường rồi, tôi không lo gì cả.”

Im lặng lúng túng. Điều gì đó khiến tôi ngoái lại nhìn sau vai: cách năm ghế phía sau có một hành khách đơn độc mặc áo khoác parka màu bạc, đội mũ choàng đen. Gã ngồi khoanh tay lại, ván trượt xếp thành chữ X xộc xệch. Tôi nhìn ra trước, cố nghĩ ra điều gì thật thông minh để nói, nhưng dường như tôi đã để lại hết vốn liếng ở ga cáp treo bên dưới.

Ở ga Palance de la Cretta, Holly trườn khỏi ghế, nhẹ nhàng như vận động viên thể dục, còn tôi trườn vụng về như một cái bị đựng đầy búa. Nhân viên cáp treo chào Holly bằng tiếng Pháp, tôi lỉnh ra khỏi tầm nghe. Tự dưng tôi cứ cố chờ gã mặc áo khoác parka màu bạc xuất hiện từ sương mù đang tràn nhanh đến: tôi đã đếm, một khoảng hai mươi hai giây giữa hai ghế cáp, vậy gã sẽ tới đây trong chừng hai phút là nhiều. Lạ ở chỗ chẳng thấy gã đâu cả. Tôi hơi hoảng, nhưng càng lúc càng hoảng hơn, tôi nhìn chiếc ghế thứ năm, sáu, bảy sau đó mà không thấy ai cả… Đến chiếc thứ mười thì tôi thấy lo – không lo lắm chuyện gã rớt khỏi ghế cáp, nhưng lo là lúc nãy làm gì có ai ngồi đó. Dã nhân ăn mày và cô Constantin làm tôi không còn tin tưởng giác quan của mình nữa, tôi thấy khó chịu. Cuối cùng một đôi người Mỹ béo như gấu hồ hởi xuất hiện, ngã lăn quay ra đất cười sặc sụa, phải nhờ nhân viên nhà ga đỡ dậy. Tôi tự nhủ gã ngồi sau ấy chỉ là do mình nhớ nhầm. Hoặc tôi đã mơ thấy gã. Holly đến chỗ tôi đứng ở mép đường trượt, nơi được đánh dấu bằng những lá cờ biến dần vào trong mây. Trong một thế giới hoàn hảo, nàng sẽ nói, Nghe này, tại sao ta không cùng trượt xuống dưới nhỉ? “Ô kê,” nàng nói, “tới lúc tôi bái bai. Bảo trọng, giữ gậy cho chắc, đừng làm anh hùng.”

“Rõ rồi. Cảm ơn cô đã cho tôi đi cùng lên đây.”

Nàng nhún vai. “Chắc anh thất vọng lắm.”

Tôi nhấc kính trượt để nàng nhìn vào mắt mình, ngay cả khi nàng không thèm cho tôi nhìn mắt nàng. “Không. Không có chuyện đó. Cảm ơn cô.” Tôi ngẫm ngợi, liệu có nên hỏi tên họ đầy đủ của người đẹp chăng. Đến giờ tôi vẫn chưa biết.

Nàng nhìn xuống bên dưới. “Chắc anh thấy tôi lạnh lùng.”

“Chỉ hơi dè dặt thôi. Cũng bình thường.”

“Sykes,” cô đáp. “Xin lỗi?”

“Holly Sykes, nếu anh muốn biết.”

“Rất… hợp với cô.”

Cặp kính trượt tuyết che mặt nàng, nhưng tôi đoán hẳn Holly đang thấy khó hiểu.

“Tôi cũng không biết mình nói thế nghĩa là sao,” tôi thú nhận. Nàng trượt đi, bị nuốt chửng vào màu trắng mênh mông.

Khúc giữa sườn núi Palance de la Cretta không phải là đoạn quá khó trượt xuống, nhưng bị lệch về bên phải đường trượt khoảng một trăm mét, muốn xuống thẳng thì cần khả năng trượt gần như theo chiều thẳng đứng hoặc nhảy dù, mà sương mù thì dày đến nỗi tôi phải đi từ từ, cứ vài phút lại dừng để lau kính. Chừng mười lăm phút, một tảng đá trông như tượng chú lùn đang tan chảy lù lù xuất hiện từ đám sương lạnh cóng, ngay mép đường trượt. Tôi nép vào bên kín gió để làm một điếu. Yên tĩnh. Rất yên tĩnh. Tôi nghĩ đến chuyện ta không thể chọn được người khiến ta mê mệt; chỉ có thể hạ hồi băn khoăn tự hỏi. Trước giờ tôi vẫn thấy khác biệt chủng tộc đồng nghĩa với gợi tình, nhưng cách biệt giai cấp thì chẳng khác gì Bức tường Berlin của tình dục. Rõ là tôi không thể hiểu Holly bằng gái con nhà cùng gia cảnh với mình, nhưng biết đâu đấy. Chúa trời tạo ra cả thế giới trong sáu ngày, mà tôi ở Thụy Sĩ đến chín mười ngày kia.

Một đám dân trượt tuyết lượn qua tảng đá chú lùn, như một đàn cá dạ quang. Không ai thấy tôi. Tôi vứt đầu mẩu thuốc rồi theo sau chúng. Đôi Texas vui tính khi nãy hoặc là thấy hôm nay thế đã đủ và đi xuống bằng cáp treo, hoặc trượt xuống còn chậm hơn cả tôi. Vẫn không thấy gã mặc áo khoác parka màu bạc. Chẳng mấy chốc sương tan dần. Vách núi, đỉnh núi và đường mòn xuất hiện, lần lượt hắt bóng, và đến lúc về ga Chemeuille, trên đầu tôi lại là một nóc nhà bằng mây. Tôi lót dạ bằng một cốc sô-cô-la nóng, rồi theo đường xanh hiền lành trượt xuống La Fontaine Sainte-Agnès.

“Á à, Lamb tài năng đây rồi.” Chetwynd-Pitt đang làm bánh mì bơ tỏi trong bếp, hay đúng ra là đang cố làm. Đã năm giờ hơn nhưng hắn vẫn còn mặc áo choàng tắm. Một điếu cigar nằm cheo leo trên miệng ly rượu, George Michael đang hát bài Listen Without Prejudice trên máy CD. “Olly và Fitz đi tìm cậu từ hai ba tiếng trước.”

“Chợ đời mênh mông. Có mà tìm kim đáy bể.”

“Vậy cậu phiêu lưu Alpine tới tận đâu aujourd’hui[32]?”

“Lên Palance de la Cretta, rồi ngược xuống lại. Không chơi đường đen hiểm ác nữa. Thế cậu ra sao rồi, giã rượu chưa?”

“Stalingrad năm 1947 ra sao? Dĩ độc trị độc: ouzo đá.” Hắn lắc lắc một ly nhỏ đựng thứ chất lỏng như sữa rồi nốc một hơi nửa ly.

“Ouzo cứ làm tớ nghĩ đến tinh trùng.” Tôi ước gì sẵn máy ảnh lúc Chetwynd-Pitt nuốt cái của đấy. “Vô duyên quá. Xin lỗi nhé.”

Hắn lườm tôi, phập cigar rồi quay lại băm tỏi. Tôi tìm trong ngăn kéo. “Thử dùng phát minh mới này nhé: ‘kẹp nghiền tỏi’.”

Giờ Chetwynd-Pitt chuyển sang lườm món đồ. “Chắc quản gia vừa mua trước khi tụi mình tới.”

Năm ngoái ở đây tôi đã xài nó rồi, nhưng thôi. Tôi rửa tay, bật lò nướng, Chetwynd-Pitt còn không biết là phải bật lò trước. “Thôi nào, tránh ra.” Tôi ép mớ tỏi nghiền xuống chỗ bơ.

Càu nhàu nhưng nhẹ nhõm, Chetwynd-Pitt kê mông lên kệ bếp.

“Thôi thì bù lại vụ trấn sạch tớ ở bàn billiard.”

“Rồi sẽ đến lượt cậu trả thù.” Tiêu, rau mùi, dùng nĩa trộn đều.

“Tớ nghĩ mãi tại sao nó làm thế.”

“Đang nói vụ Jonny Penhaligon à?”

“Vụ này trông vậy mà chưa chắc đã vậy, Lamb à.”

Nĩa trong tay tôi dừng lại: cái nhìn của hắn… tố cáo chăng? Chỗ thằng Cóc vẫn chơi luật omertà[33], nhưng làm gì có luật nào đảm bảo một trăm phần trăm. “Nói đi.” Thật kỳ quặc, tự dưng mắt tôi đảo khắp nhà bếp, tìm một thứ vũ khí giết người. “Tớ nghe đây.”

“Jonny Penhaligon là nạn nhân của đặc quyền.”

“Ô kê.” Nĩa trên tay khuấy trở lại. “Nói cụ thể hơn.”

“Bọn hạ đẳng cứ nghĩ rằng đặc quyền có nghĩa là sống dựa vào đất đai, có các em người hầu chiều tới bến. Sự thật là, thời buổi này, có gốc gác quyền quý chẳng khác gì bị nguyền rủa. Đầu tiên là bị thiên hạ cười vào mặt vì tên tuổi đằng đẵng, đọc mỏi cả mồm, bị cười xong lại bị chúng đổ cho cái tội gây ra bất bình đẳng giai cấp, tội tàn phá rừng ở Amazon, tội làm giá bia tăng cao. Lời nguyền thứ hai là hôn nhân: làm sao tớ biết được cô vợ tương lai yêu tớ – chứ không phải yêu một nghìn mốt mẫu đất ở Buckinghamshire và tước hiệu Phu nhân Chetwynd-Pitt? Thứ ba, tương lai của tớ bị trói buộc trong ngạch bất động sản. Chứ, nếu cậu muốn làm môi giới chứng khoán, kiếm tiền tỉ tỉ hoặc làm nhà khảo cổ học nghiên cứu Nam cực, hoặc muốn thành nghệ sĩ vibraphone, thì ông bà bu sẽ nói ‘Chỉ cần con thấy vui thì bố mẹ cũng vui, Hugo à.’ Còn tớ, tớ phải lo quản đám tá điền, phải tài trợ các quỹ từ thiện, lại còn cả cái ghế Thượng viện một ngày kia phải ngồi vào.”

Tôi dùng nĩa ép bơ tỏi vào các rãnh trên bánh mì. “Nghe mà xót. Thế cậu là người thừa kế ngai vàng thứ bao nhiêu nhỉ, sáu mươi ba đúng không?”

“Sáu mươi tư, giờ thêm thằng-gì-đó vừa mới ra đời. Nhưng tớ nói nghiêm túc, Hugo, mà tớ chưa nói xong đâu: lời nguyền thứ tư là trò đi săn. Tớ cực ghét chó săn, còn ngựa thì chẳng khác gì xe phân khối lớn thất thường, thêm trò tè lên giày và tốn bạc nghìn tiền thú y. Và lời nguyền thứ năm, chết người nhất: nỗi sợ hãi rằng một ngày kia mình là người sẽ đánh mất tất cả. Cứ bắt đầu từ số không, về mặt địa vị xã hội, như cậu và Olly – nói thật, đừng để bụng nhé – thì chỉ có đi lên. Còn bắt đầu có sẵn số má, ông kia bà nọ, như tớ và Jonny, thì chỉ có nước đi xuống mà thôi. Cứ như một trò chơi chuyền gói quà giữa các thế hệ, thay vì chuyền thanh kẹo Rolos thì lại chuyền cái món phá sản, và đứa nào còn sống khi tiền bạc đã cạn thì trở thành người nhà Chetwynd-Pitt đầu tiên phải học cách lắp ghép bàn ghế mua ở Argos.”

Tôi gói ổ bánh mì tỏi trong giấy bạc. “Vậy cậu nghĩ cái mớ lời nguyền ấy là thứ đã đẩy Jonny đến đường cùng?”

“Đúng thế,” Rufus Chetwynd-Pitt nói, “và cả chuyện nó không có ai để gọi trong lúc tuyệt vọng. Không thể tin được ai.” Tôi đặt khay vào lò nướng, vặn nhiệt lên cao.